|
|
|
Múa chén - Ảnh: TL |
Múa hát cung đình Huế vốn có nguồn gốc và lịch
sử từ lâu đời. Múa bao giờ cũng gắn kết với âm nhạc (nhạc đàn và
nhạc hát), vì thế, người ta thường gọi tên là "Múa hát cung đình".
Múa hát cung đình của vua chúa Việt Nam không giống như hình thức vũ
hội phương Tây. Nó chủ yếu phục vụ cho vua chúa, lễ lạc trong triều
đình, mang hình thức lễ nghi phong kiến vương triều. Múa hát cung
đình chịu sự vay mượn từ đề tài nội dung có hình tượng nghệ thuật
độc đáo mang rõ nét tâm hồn và truyền thống Việt Nam.
Từ thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635),
các tổ chức hoạt động nghệ thuật có tình chuyên nghiệp như "Hoà
Thanh thự" được thành lập. Tổ chức "Hòa Thanh thự" chia ra làm 3 đội,
mỗi đội có số lượng 120 vũ sinh, nhạc sinh. Đội nhất và đội ba
chuyên lo luyện tập về nhạc, đội nhì chuyên lo về hát múa. Số lượng
người này biết đánh trống, thổi kèn, đánh đàn, hát múa, dưới quyền
trông coi của viên phó quản.
Thời Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) đội
chuyên lo về hát múa có tên là "Tiểu hầu", số lượng chỉ còn từ 40 -
50 diễn viên, bao gồm cả số cán bộ quản lý (2 chánh ca và 6 phó ca)
cai quản.
Đến năm 1804 hai đội "Tiểu hầu" và "Tiểu nam"
được sát nhập lại, đổi tên là "Việt Tường đội". Dưới triều vua Minh
Mạng (1820) đổi tên là "Thanh Bình thự". Năm Thành Thái nguyên niên
(1889) đổi tên gọi là "Ba Vũ" và hoạt động cho đến năm 1945. Sau
Cách mạng Tháng Tám – 1945, đội Ba Vũ được sự quan tâm giúp đỡ của
bà Từ Cung. Từ sau 1954 đến 1975, đoàn vẫn hoạt động nhưng quy mô và
tính nghệ thuật ngày càng giảm sút.
|
|
Múa quạt - Ảnh: TL |
|
Tháng 4 - 1975, khi đất nước hoàn toàn thống
nhất, đội Ba Vũ được quan tâm của chính quyền, Bộ Văn hóa – Thông
tin, nên đã được phục hồi củng cố trở lại, đổi tên là Đoàn múa hát
truyền thống Huế, gồm có 2 bộ phận múa hát và tuồng Huế. Đến năm
1999, đổi tên thành đoàn Nghệ thuật truyền thống chuyên sâu về múa
hát cung đình, và bộ phận tuồng được tách ra.
Qua nhiều thời kỳ thay đổi tổ chức và tên gọi,
nhưng chức năng chủ yếu vẫn là múa hát cung đình phục vụ cho những
khánh lễ, đại lễ khác nhau ở cung đình Huế. Hiện nay trong số 11 ca
khúc của triều Nguyễn để lại, đoàn Nghệ thuật truyền thống đang dần
từng bước dàn dựng, khôi phục lại nguyên dạng những múa khúc. Đó là
Bát dật, Lục cúng, Song quang, Phiến vũ, Nữ tướng xuất quan, Tam
tinh chúc thọ, Bát tiên hiến thọ, Trình tường lập khánh, Tam quốc
Tây du. Lục triệt hoa mã đáng và Tứ linh.
Phần lớn các múa khúc trên diễn viên vừa múa,
vừa hát, múa minh họa cho lời hát. Các bài hát toàn bằng Hán tự, chỉ
có khúc múa Tứ linh là chỉ có âm nhạc phụ họa không có lời ca.
Vào các ngày lễ lớn và trọng đại như Vạn thọ (sinh
nhật vua), Thánh thọ (sinh nhật hoàng thái hậu); Tiên thọ (sinh nhật
hoàng thái phi); Thiên xuân (sinh nhật hoàng thái tử); Thiên thu (sinh
nhật hoàng hậu) mười một vũ khúc kể trên luôn được trình diễn trong
triều nội.
Nội dung các khúc múa:
- Múa bát dật: Có ở Trung Quốc từ đời Chu. Năm
Minh Mạng được biên đạo lại để phục vụ khi tế giao, xã tắc, lịch đại
đế vương và Khổng Tử. Bát dật có nghĩa là 8 hàng. Khi ta trình diễn
điệu múa này phải sử dụng 8 hàng vũ sinh đồng nam, mỗi hàng là 8 vũ
sinh nam, tất cả là 64 vũ sinh ở ban múa võ (Võ vũ ban) cũng như ở
ban múa văn (Văn vũ ban). Đội hình múa gợi lên hình bát quái. Đây là
loại múa lễ thức.
- Múa lục cúng: Có gốc từ Ấn Độ, được truyền
sang qua các nhà sư Ấn Độ. Các chùa, một số vùng ở hạt Thuận Thành,
Yên Mỹ, Thường Tín… thờ Phật tứ pháp (vân, vũ, lôi, điện). Khi cúng
thường múa để dâng hương, hoa đăng, trà, quả thực lên Tam bảo. Múa
cung đình biết gạn lọc cái hay của múa tôn giáo và dân gian, thể
hiện nội dung chủ đề lục cúng bằng những hình tượng múa cụ thể mang
dáng dấp cái đẹp của Việt Nam. Kết cấu của Hoa đăng lục cúng là một
bức tranh khá đẹp được trình bày ở tổ khúc gồm 6 điệu múa liên tục.
- Múa quạt (Phiến vũ): Thường múa ở các tiệc cưới, dành cho hoàng
thái hậu, hoàng hậu, phi tần và công chúa xem. Nội dung ca ngợi,
chúc tụng hạnh phúc lứa đôi hoà hợp. Đội hình múa gồm 10 vũ nữ, mặc
áo dài có viềng, màu sắc hợp với màu quạt, vừa múa vừa hát trên
những động tác guộn quạt, xoè, gấp, chỉ lướt nhẹ lượn vòng với một
tay cầm quạt xoè che mặt. Đội hình khép kín vòng cung, có lúc hàng
ngang, hàng dọc chuyển đổi thay nhau.
- Múa Tứ linh: Điệu múa này có từ thời cổ, từ dân gian đến cung đình
thường có múa. Biểu tượng trên 4 con vật: long (rồng), ly (lân), quy
(rùa), phụng (chim phượng). Về hình thức, tứ linh có thể được múa
liên tục hoặc múa đơn (từng con một). Ngày xưa, múa chúc tụng vua,
tứ linh lần lượt múa trình diễn từng con vật một theo thứ tự: long,
lân, quy, phụng. Các vũ sinh đội lốt tứ linh để múa. Dần dần sau này
cải biên, các biên đạo múa cho múa long trở thành “Long hổ hội”, múa
lân biến thành “Lân mẫu xuất lân nhi”, múa phụng thành “Song phụng”
và múa quy được múa đôi với Song phụng, số lượng người cũng được
tăng cường.
Múa cung đình Huế chú trọng đến lễ thức và chúc tụng. Biết tiếp nhận
và gạn lọc, vay mượn đề tài, nội dung (Bát dật lục cúng) song đã
biết tái tạo thành những hình tượng mang cốt cách độc đáo Việt Nam.
Động tác múa cung đình có quan hệ tương hỗ với động tác múa tuồng từ
thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho đến 13 đời vua sau này, có
những biến đổi tiến bộ về hình thức và nghệ thuật cũng như quy mô về
số lượng người trình diễn.
Múa cung đình Huế trên đường phát triển của múa dân tộc đã biết tiếp
thu có sáng tạo múa nước ngoài, giữ được bản sắc. Tuy vậy cũng còn
có những mặt hạn chế phần nào về sự phát triển động tác, đội hình và
các tuyến múa. |