Trong thời điện toán,
thế giới như được thu nhỏ lại giống một cái làng; từ Đông sang Tây,
từ Bắc xuống Nam trên trái đất ngày này không còn là chuyện xa vời
như thời Huyền Trân Công Chúa đi lấy chồng là vua Chế Mân của Chiêm
Thành, sự kiện này đã được ghi lại qua bài ca Huế theo điệu Nam Bình:
“Nước non
ngàn dặm ra đi, mối tình chi,
Mượn mầu son phấn đền nợ Ô, Ly
Đắng cay vì đương độ xuân thì…”
Mặt
khác, sự việc người Việt Nam qua nhiều tình huống đã hiện diện ở
khắp Năm châu, đây là một thực thể mang tính toàn cầu của dân Việt.
Từ hai yếu tố nói trên nên trang Web này
có Làng Việt Thế Giới và khi có Làng Việt thì đương nhiên có tình
yêu của Mẹ được diễn tả bằng tiếng Mẹ ru.
Mẹ Việt Nam ở bất cứ đâu, mang thai trong
bất cứ cảnh ngộ nào, khi sinh con vẫn hết lòng yêu thương, Mẹ không
phân biệt mầu da chủng tộc, con nào cũng là con của mẹ sinh ra. Tinh
thần hợp chủng của dân Việt đã có từ lâu, đã có ở truyền thuyết Đế
Minh Nhân đi tuần Phương Nam đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên sinh
ra vua Kinh Dương Vương, như thế là đã có sự kết hôn giữa các bộ tộc
với nhau.
Trên bình diện khác, Mẹ tiêu biểu cho hồn
tính dân tộc mang dòng dõi mẫu hệ từ thuở sơ khai, vì thế dân Việt
dù ở đâu thì cũng vẫn được hồn tính dân tộc dìu dắt, thương yêu, vỗ
về, an ủi.
Hồn tính hay còn gọi là Văn Hóa Việt Tộc
chẳng phải tìm ở đâu xa mà chúng ta đều nghe được, thấy được qua
tiếng nói, cách nói lối cư xử với nhau của dân Việt diễn ra liên tục
hằng ngày
“Trời
Đất Ơi! Văn Hóa gì mà giản dị, dễ dàng quá vậy”.
Chỉ
một câu kêu “Trời Đất
Ơi!” đã đủ thấy Việt
tính nằm gọn trong đó; Việt tính này là dân ta từ xưa đã có Tín
ngưỡng, đặt niềm tin vào Thần linh là Trời và Đất.
Hóa cho nên chỉ cần nghĩ một chút, tự học
hỏi thì chúng ta sẽ thấy câu “Trời
Đất, Ơi!” nằm trên
cửa miệng mỗi người, thực ra cũng thấy đươc ghi trong nhiều pho Kinh
Điển từ Triết Học, Thần Học, Ngữ Học, Lịch Sử… một cách trang trọng
là đạo Tam Tài bao gồm Thiên, Địa, Nhân, ngụ ý rằng con người là
gạch nối giao hòa giữa Trời và Đất, giữa Tròn và Vuông hay còn quen
gọi là nguyên lý Âm Dương theo ngôn từ bác học.
Nếu bảo rằng việc kêu “Trời
Đất Ơi!” chỉ là
chuyện ngẫu nhiên rồi sau biến thành thói quen của dân Việt, chẳng
có sách vở gì ghi lại cả thì chúng ta đã quên mất một điều là tiếng
nói, cách nói, ca dao, tục ngữ của dân Việt là cả một “pho
sách đồ sộ”. Pho sách
truyền khẩu này kết tụ tinh hoa của dân Việt từ thời thượng cổ cho
tới bây giờ, với biết bao nhiêu đóng góp không ngừng của rất nhiều
người thuộc mọi thời đại, khiến tiếng nói của người Việt luôn là
sinh ngữ hằng được phát triển.
“Trời
Đất Ơi!” được người
Việt quen dùng đến nỗi Thần Linh là Trời Đất bị con người kéo xuống
phàm trần, đem vào trong mọi sinh hoạt của đời sống gồm đủ các mặt “Hỷ,
Nộ, Ái, Ố, Dục”khiến cho Trời Đất cũng “mệt đến bở hơi tai”.
Cách kêu “Trời
Đất Ơi!” chỉ cần lên,
hay xuống giọng sẽ diễn tả vui, buồn khác nhau; chẳng hạn lên giọng
vui như : “Trời
Đất Ơi! Mẹ đã về, con chờ mẹ lâu quá”.
Than thở thì hạ giọng : “Trời
Đất Ơi! Bão lụt thế này thì sống làm sao được”.
Cằn nhằn thì rít răng lại chút xíu : “Trời
Đất Ơi! Anh để cháy ấm đun nước rồi, sao mà mê coi đá banh quá vậy”.
Vui
tươi, nhõng nhẽo thì : “Trời
Đất Ơi! Em chờ anh muốn chết”, khi
không lôi kéo Trời Đất vào cái cảnh này liệu có ai nghe được tiếng
thì thào của ông Trời trong tâm khảm đại khái rằng“Cái gì tụi bây
cũng kêu Trời thì làm sao tao chịu nổi, hở Trời!”
Trời
là cao nhất rồi nhưng đôi khi cũng bị hạ bệ, không biết từ bao giờ,
do hoàn cảnh nào mà dân ta đã đẻ ra câu : “Nhất
vợ, nhì Trời” để sau
này vào cuộc cải cách ruộng đất của Cộng Sản Việt Nam lại được đổi
là : “nhất Đội, nhì
Trời”, vì lúc bấy giờ
Đội cán bộ cải cách đã nắm toàn quyền sinh sát đối với dân chúng ở
nông thôn
Cái vụ Trời bị “xuống cấp” cũng chỉ là ví
von chứ làm sao con người hạ được Ông Trời. Con người ở bất cứ đâu
thì cũng đều sống dưới gầm trời cả .
Để thấy trời ai chẳng phải ngửa mặt nhìn
lên như câu ca dao :
“Trên
trời băm sáu vì sao,
Vì thấp là vợ, vì cao là chồng.
Cô kia gái lớn tồng ngồng,
Hỏi thăm cô đã có chồng hay chưa”.
Dân
Việt có tính khôi hài, châm biếm là phải rồi; nói tới chuyện vợ
chồng người ta cũng nghĩ tới câu :”Thuận vợ thuận chồng, tát biển
Đông cũng cạn”. Chỉ
một câu này chúng ta thấy Văn Hóa Việt khác hẳn Văn hóa Trung Hoa.
Câu “..Tát biển Đông” thì
chỉ có dân Việt dùng chứ người phương Bắc thì gọi Thái Bình Dương là
Nam Hải. “Thuận vợ
thuận chồng” thì chỉ
dân Việt mới có chuyện bàn cãi, bình đẳng chứ còn người Trung Hoa
thì phải là “Phu
xướng phụ tùy”.
Ở Trung Hoa cho tới bây giờ vẫn còn tệ
nạn trọng Nam khinh Nữ, hủ tục này đã giết hại không biết bao nhiêu
bé gái sơ sinh, vì thế Trung Hoa đang và sẽ gặp khủng hoảng xã hội
vì nạn trai thừa gái thiếu.
Chuyện Nam Nữ bình đẳng cũng thấy được qua huyền sử Âu
Cơ và Lạc Long Quân khi chia con mỗi bên một nửa rất sòng phẳng.
Tục ngữ Việt Nam nhiều khi đụng chuyện
tính toán có phần sai lệch, chẳng hạn như câu“Chín bỏ làm mười”, câu
này nói lên tính dễ dãi đầy tình người với nhau chứ không phải là
cách tính chính xác, lạnh lùng trong thời đại máy móc
Về môn Việt Học Dân Gian nói qua thì giản
dị , dễ dàng nhưng nếu đi vào thì lại phải bơi trong cả một biển học
mênh mông, Nhớ lại trong khoảng thập niên 60, chúng tôi đã gặp trở
ngại khi viết về mấy thú vui ngày tết cho báo xuân, các khó khăn ấy
cho tới bây giờ vẫ chưa tìm ra được sự giải thích thỏa đáng.
Rắc rối thứ nhất là tại sao lại gọi là bộ
bài Tam Cúc, mãi tới năm 1984, khi làm báo trở lại ở Hoa Kỳ chúng
tôi mới được một vị giáo sư Viẽt Hán lão thành dạy cho chữ Cúc theo
chữ Hán có nghĩa là bốc lên; cụ bà này còn đọc nguyên cả một bài thơ
Đường trong đó có chữ Cúc. Bài thơ mô tả một người đêm ngồi thấy
trăng hiện ra trong chậu nước nên đã dùng tay bốc ánh trăng lên.

Tuy giải thích Cúc là bốc nhưng cụ bà cứ
căn dặn mãi rằng : “anh
có viết báo thì nói là tôi giải thích một chữ Cúc thôi chứ còn gọi
bộ bài ấy là Tam Cúc thì tôi cũng đành chịu không biết gốc gác thế
nào”.
Rắc
rối thứ hai là bộ Bầu Cua, có đủ thứ Bầu, Cua, Cá, Tôm, Gà, Nai
nhưng không có Cọp thì tại sao lại kêu bằng “Bầu
Cua Cá Cọp”, lại còn
chữ “Cọp” ở
đây thì có nghĩa
là đứng coi“cọp” hay
cọp là con hổ, đụng tới Ông Ba Mươi thì phiền lắm, mà sao cọp lại
gọi là Ông Ba Mươi?

Lại còn bức tranh vẽ bốn thứ trái cây gồm
Mãng cầu, Dừa, Đu đủ, Xoài không biết xuất xứ ở đâu, trong hoàn cảnh
nào mà được vẽ ra lại ép bà con phải kêu là “Cầu
vừa đủ xài”. Không lẽ
ỷ vào chuyện biết vẽ chút đỉnh rồi cương sảng bắt người khác phải
gọi ra một câu không đúng chính tả chút nào. Nhưng bà con thì đành
phải chấp nhận từ cái sai nhỏ để có được cái đúng lớn tức là bưc
tranh nói y chang cái ý của người dân miệt vườn là chỉ “Cầu
vừa đủ xài là đủ vui rồi” .
Từ cái chuyện xính xái cho qua, cho qua
riết rồi thành cái lệ khiến bây giờ hể tới gần Tết thì cả làng hùa
nhau đi sắm bốn thứ trái cây thiệt đem về chưng trong nhà vừa vui
lại có ý lấy hên.
Do đó, trong Làng Ta thường có nhiều
chuyện “Vòng vo Tam
quốc” cũng là lẽ
thường; làng ta ở đây gồm đủ các nghĩa là làng của tôi, làng của
chúng ta, làng Việt chứ không phải là làng Tây theo cách nói dưới
thời Pháp thuộc hể thấy người nào vào quốc tịch Pháp thì bảo là ông
ấy đã vào làng Tây rồi. Bây giờ dân Việt vào đủ thứ quốc tịch, trong
đó vào quốc tịch Mỹ khá đông nhưng không còn ai nói là vào làng Mỹ
cả, cái lối nói này đã là chuyện xưa rồi “Vật
đổi sao dời là thế”.
Nói chuyện “trên
trời, dưới đất” lan
man quá, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ còn trở lại kỹ lưỡng, chi tiết
và có hệ thống hơn trong phần “Văn
Hóa Nhân Bản Lạc Việt”
Về việc trắc nghiệm để biết một người có
trình độ văn hóa Việt Nam nhiều hay ít thì chúng ta đọc lại cuốn Vần
Việt Ngữ lớp đồng ấu trong đó có câu chuyện như sau :
“Anh
Bính đang ngồi xem sách chợt thấy một người khách lạ đến nhà. Anh
liền đứng dậy cuối đầu chào. Khách hỏi :
- Cha mẹ cháu có nhà không?
Anh Bính đáp:
- Thưa ông cha mẹ chàu đi vắng cả.
Người khách bảo:
- Khi cha mẹ cháu về thì cháu nói rằng có ông Bá làng
bên lại chơi nhé.
Anh Bính cúi đầu:
- Thưa vâng.
Ông khách ra về khen thầm: “cậu bé này thật có lễ phép”.
Ở đây chúng ta thấy em bé nhuần nhuyễn Việt Tính nên mới
có trình độ văn hóa tốt như vậy.
Đây là cậu chuyện từ cuối thập niên 30, còn bây giờ
chúng ta có thể gọi điện thoại thì sẽ biết câu chuyện tiếp tục ra
sao:
“Hello!
Cháu đó hả, Bố cháu có nhà không?
- Bố cháu…Nó đi vắng rồi”.
Em
nhỏ này sinh ra trên đất Mỹ, đang cố gắng nói tiếng mẹ đẻ đó là điều
đáng khuyến khích nhưng có điều em nói chưa rành rẽ lắm.
Ở nhiều nước Tây Phương, hay ở Trung Hoa,
cách xưng hô của các xứ này thì người ta chỉ có một chữ gọi chung
ngôi thứ ba hay có thay đổi thì cũng thay đổi rất ít. Cách xưng hô
của họ có ưu điểm ở chỗ giản dị, tập quán của các nước nói trên coi
chuyện xưng hô như thế là bình thường nhưng nếu đem áp dụng vào văn
hóa Việt thì không người Việt nào chịu được.Cách xưng hô của người
Việt là cả một hệ thống lớp lang, trên dưới đôi khi rắc rối đến phức
tạp chứ không thể gọi “cá
mè một lứa” được.
Vảo khoảng thập niên 80, khi các trại Tị
Nạn ở Đông Nam Á còn đông đảo người Việt thì bấy giờ người ta đã ghi
nhận một thời khập khiễng tiếng Việt tạm gọi là giai đoạn “Văn
Hóa Chào Ông Mạnh Giỏi”; người
ta đã chứng khiến một số người ngoại quốc thuộc các phái đoàn Thiện
nguyện dùng tiếng Việt đại loại như “Chào
ông buổi sáng, Chào ông buổi chiều…” nói
tiếng Việt kiểu này thì người Việt nghe thường ngẩn người ra chẳng
khác nào đi ăn phở mà lại thiếu “chanh
ớt, hành ngò”.
Không ai có thể trách người có thiện chí
tập nói tiếng Việt, có phàn nàn chăng là mấy người soạn sách lúc đó
có phần tắc trách đến độ ngớ ngẩn, dịch như thế thì cũng có thể dịch
sát nghĩa là“Tốt sáng…Tốt chiều…Tốt đêm…” có
nên chăng.
Từ các sự kiện được trình bày ở trên
chúng ta thấy Văn Hóa Việt Nam được thể hiện đầy dẫy trong trong
tiếng nói, cách nói, tập quán của người Việt. Văn hóa Việt khác hẳn
Văn Hóa của các sắc tộc bạn trong một sinh hoạt đa văn hóa thì điều
quan trọng là phải tìm hiểu, học hỏi lẫn nhau thì mới mong tránh
được các xung đột về Văn Hóa và sẽ làm Văn Hóa của cộng đồng nhân
loại thêm phần phong phú.
Trở lại thực thể dân Việt đã có mặt ở
khắp thế giới thì từ năm 1996 chúng tôi một số anh chị em đã hợp tác
với nhau để ghi nhận sự việc qua vài ca khúc có tính cách quốc tế,
trong đó có bài Mẹ Ru Thế Giới.
Khi trình bày bài hát để thu âm, chúng
tôi đã đồng ý với nhau rằng mỗi anh chị em chỉ hát vài câu để diễn
tả rằng tiếng ru này là tiếng ru của nhiều thế hệ làm mẹ. Cũng theo
tinh thần Việt tính có Tròn Vuông, có Âm Dương hài hòa trong đời
sống nên có các giọng Nam hát theo làm bè phụ.
Khi bài hát được viết xong, cũng như khi
đã phát thanh thì anh chị em chúng tôi đã được nhiều vị lãnh đạo
tinh thần thuộc các tôn giáo ngõ lời khen ngợi; trong số này có Đức
Tổng Giám Mục Nguyễn văn Thuận là người đã viết thư khích lệ việc
làm này.
Quay lại chuyện chính là Làng Việt Thế
Giới, từ năm 1982 một số anh em chúng tôi ao ước rằng một lúc nào đó
ở một nơi nào trên thế giới người Việt chúng ta sẽ có một Trung Tâm
Văn Hóa theo kiểu Trung Tâm Văn Hóa của các sắc tộc ở Hawai. Ngôi
làng Việt Nam này sẽ có cả một cơ sở để tiếp tục công trình nghiên
cứu và sưu tập tục ngữ, phong dao, tập quán Việt Nam theo như các vị
tiền bối Nguyễn Văn Ngọc, Toan Ánh…việc ghi lại ca dao của đân gian
là một nguồn sử liệu quan trọng cho đời sau vì lịch sử do các sử
quan viết ra chỉ đứng ở phía nhà cầm quyền nói về các hoạt động của
triều đình, chế độ chứ ít để ý tới sinh hoạt dân gian.
Trong ngôi làng Việt này cũng phải nghiên
cứu kỹ để sẽ có các thôn Đông Sơn, Sa Huỳnh, Ốc Eo; trong đó có bụi
tre, có khóm chuối, có cây cau, cây mít, sầu riêng… có vườn canh
nông Hòa Bình, có Đền Hùng, có đình Diên Hồng, có nhà hát Mặt Trời…
để giới thiệu Văn Hóa Việt với chính con cháu Việt và với mọi sắc
tộc trên thế giới.
Nếu Mục Sư Martin Luther King đã có một
Ước Mơ cho bình đẳng và dân quyền thì ở đây trong khuôn khổ của
trang Web này tại sao chúng ta không nuôi một ước mơ là sẽ có một
làng Văn Hóa Việt Nam cho đời sống thêm niềm hy vọng.
NGÔ ĐÌNH VẬN
California, ngày 17 tháng 11 năm 2006