|
Sự phát triển
HỆ THỐNG TÍN NGƯỠNG của NGƯỜI VIỆT trong quá tŕnh
di cư về PHƯƠNG NAM nh́n từ tục THỜ CÚNG CÁ ÔNG
Đinh văn Hạnh (Trích từ: vannghesongcuulong.org
)
Người Việt xưa vốn sống chủ yếu ở miền trung du, sau đó tràn xuống
vùng đồng bằng. Trồng lúa nước là nghề truyền thống. Họ ít khi vượt
biển và có những chuyến hải tŕnh dài ngày. Một số phát hiện mới,
gần đây cho biết măi đến thế kỷ 15, 16 mới có những chuyến thuyền
buôn Việt Nam vượt biển đưa gốm Chu Đậu ra bên ngoài, mặc dù trước
đó các vua Lư, Trần đă có những cuộc nam chinh bằng đường thủy (người
Việt cũng chưa phải đánh trận hải chiến nào lớn trong lịch sử chống
giặc ngoại xâm). Văn minh lúa nước và tập tục, tín ngưỡng gắn
với nông nghiệp trên vùng trung du và châu thổ là văn hóa truyền
thống của người Việt. Từ một khía cạnh khác của truyền thuyết về con
rồng cháu tiên ( 50 người con xuống biển và không thấy lịch sử
ghi tiếp) cho thấy người Việt đă gắn bó với trung du miền núi
hơn là với biển. Suốt một ngàn năm đô hộ của phương Bắc, tín ngưỡng
mà người Việt tiếp cận được và chịu ảnh hưởng cũng chỉ là những yếu
tố liên quan đến nghề nông. Những yếu tố văn hóa biển trong hệ thống
văn hóa Việt xưa c̣n mờ nhạt. Trong khi đó ở phía Nam người Chăm đă
đặt nền móng và xây dựng cho ḿnh một truyền thống đi biển. Kinh tế
biển, văn hóa biển đă để lại dấu ấn sâu sắc trong quá tŕnh phát
triển của vùng đất nằm ở ngă tư đường giao lưu văn hóa-văn minh.
Cũng có một sự thực cần nói tới đó là sự ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa
đối với người Việt chủ yếu đi cùng bước chân của kẻ xâm lược, c̣n
người Chăm truyền thống đi biển đă đưa họ tới với văn minh Ấn Độ…
Từ thời Lư-Trần văn hóa Champa bắt đầu có ảnh hưởng ít nhiều tới Đại
Việt thể hiện qua việc xây dựng đền tháp do lớp tù binh Champa thực
hiện. Lư Thánh Tông (1023-1072) đă đưa vị thần bảo trợ vương quốc
Champa là Thiên Y A Na về thờ làm thần bảo trợ cho Đại Việt… nhưng
sau đó vị thần này đă bị quên lăng trên đất Thăng Long. Trung du và
đồng bằng Bắc Bộ không có linh khí cho Thiên Y A Na tồn tại hơn là
việc người Việt có thật sự t́m thấy ư nghĩa “bảo trợ” của vị thần đó
trong đời sống văn hóa tinh thần của ḿnh-như sau này chính người
Việt đă làm trên đất Đàng Trong?
Sau đám cưới Huyền Trân Công Chúa (1306) mà sính lễ là hai châu Ô,
Lư và nhất là sau năm 1471, khi Lê Thánh Tông đẩy biên giới về phía
Nam tới tận dăy Thạch Bi, người Việt đă vào cư trú trên Champa ngày
mỗi nhiều. Cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn phân chia Trong-Ngoài hơn
200 năm là quảng thời gian mà người Việt trên vùng đất mới đă xây
dựng được những sắc thái văn hóa xứ Đàng Trong.
Lưu dân người Việt trên đường vào Nam đă phát hiện một hệ thống đối
tượng thờ cúng và thần linh bảo trợ mà họ chưa từng thấy trên quê
hương cũ. Trong khi các thần linh Ấn Độ trên đất Champa sụp đổ cùng
với bộ máy chính quyền của vương triều bại vong th́ lưu dân người
Việt t́m thấy sự gần gũi của các vị thần dân gian sau những chuyến
hành tŕnh dài ngày đầy gian lao, hiểm nguy trên biển. Những ư niệm
mới về các thần linh bảo trợ trên biển đă dần dần thấm vào tâm tư,
t́nh cảm, đời sống tinh thần của lớp lưu dân bắt đầu gắn bó cuộc đời
ḿnh dọc duyên hải miền Trung bên cạnh hành trang tinh thần mà lưu
dân người Việt mang theo là những vị thần thuần nông. Theo thời gian,
địa bàn sinh cư của người Việt không ngừng mở rộng về phương Nam, xa
dần với không gian văn hóa Trung Hoa. Và, trong thời kỳ chia cắt
Trịnh-Nguyễn, đă định h́nh văn hóa xứ Đàng Trong. Xây dựng quê hương
mới ngay trên đất Champa xưa trong t́nh trạng đối đầu và chia cắt
kéo dài, quá tŕnh tiếp biến văn hóa (acculturation) theo bước chân
xa dần về phương Nam của người Việt diễn ra như một xu thế tất yếu
không chỉ của quy luật phát triển văn hóa mà c̣n bị tác động bởi
hoàn cảnh lịch sử đầy biến động.
Tín ngưỡng thờ cúng cá ông là một biểu hiện sinh động của quá tŕnh
tiếp biến/thụ ứng văn hóa của tộc người Việt trong bối cảnh lịch sử
ấy…
*
Tục thờ cúng cá ông (tức cá voi/động vật có vú, tên khoa học là
balaenus) vốn có nguồn gốc từ người Chăm. Nhưng cũng có người lập
luận rằng tục thờ cá đă có trong tâm thức người Việt cổ. V́ vậy, tục
thờ cá voi sau này chỉ là sự phát triển của tâm thức đó chứ không
phải “vay mượn” của người Chăm([1]).
Chúng tôi cho rằng tín ngưỡng thờ cá hay dùng cá làm vật phẩm dâng
cúng của người cổ nói chung và tục thờ cúng một loại cá voi cụ thể
là hai vấn đề khác nhau, và khẳng định rằng tục thờ cúng cá ông đang
tồn tại đến hôm nay của người Việt là có nguồn gốc từ tín ngưỡng của
người Chăm. Cố nhiên, vấn đề đó chỉ được giải quyết rốt ráo khi có
những chứng cớ phủ nhận sự liên hệ thiếu căn cứ giữa ư niệm nguyên
thủy về sự gắn bó với loài cá nói chung với tục thờ cá voi sau này,
cũng như đưa ra những chứng cớ thuyết phục tục thờ cá ông là tín
ngưỡng của người Chăm, trong quá tŕnh mở đất mở nước xuống phương
Nam, người Việt đă tiếp thu, Việt hóa và phát triển nó cho phù hợp
với quan niệm và điều kiện của ḿnh.
Sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An cho biết vào đầu thế kỷ 16, dân
chài cửa Việt đă bắt cá voi mắc cạn khi triều xuống để lấy xương của
nó làm xà nóc dựng nhà. Lớp lưu dân người Việt đến Quảng Trị lúc ấy
chưa hề có ư niệm đó là “ngọc cốt của thần linh”, phải được đem vào
khám thờ như sau này ngư dân người Việt đă làm.
Trong hành tŕnh tiến dần về phương Nam lưu dân đă gặp nhiều đền thờ
thần sóng biển, thần Po Riyak hóa thân thành cá voi của người Chăm
mà họ đặt cho cái tên mới là miếu Long Vương (Ông/Long Vương). Những
hiểu biết ban đầu của lưu dân về quan niệm của người Chăm rằng cá
voi vốn là hóa hiện của thần Cha Aih va, thần Sóng biển Po Riyak sẽ
rẽ sóng đến nâng đỡ thuyền ghe bị lâm nạn, sẽ đưa người bị nạn vào
bờ và chính cá voi (chứ không phải là một Long Vương trừu tượng) là
một thế lực linh thiêng, phù trợ cho người đi biển đă đưa lại cho
ngư dân một niềm tin. Gắn bó với biển khơi muôn trùng nhiều giông
băo, niềm tin đó của ngư dân được kiểm chứng từ những hiện tượng có
thật là cá voi cứu người, cứu thuyền lưu truyền trên vùng đất mới…
Ngư dân Việt gọi đền/miếu thờ cá voi của ḿnh bằng cái tên đền/miếu/lăng/dinh
ông. Tên gọi đó rơ ràng có mối liên hệ với miếu Long Vương mà người
Việt đă đặt cho đền thờ thần Sóng biển của người Chăm khi mới tới([2]).
Bởi vậy, trong một chừng mực nào đó cũng có thể nói ông cá voi bằng
xương bằng thịt bơi lặn trên biển rất gần gũi với Long Vương trong
tâm thức của người Việt.
Phương ngữ có câu nói về cá ông: “Tại Nam vi thần, tại Bắc vi ngư”
(tại Nam là thần, tại Bắc là cá). Sách Gia Định thành thông chí của
Trịnh Hoài Đức viết đầu thế kỷ 19 cũng khẳng định thần (cá ông) chỉ
có sự linh ứng “trong nước Nam từ Linh Giang (tức sông Gianh,
Quảng B́nh) đến Hà Tiên” mà thôi, “c̣n các biển khác không có”.
Từ Linh Giang trở vào vốn là đất Đàng Trong của chúa Nguyễn và cũng
là phần đất của Champa xưa. Gần đây, một số tài liệu cho biết phía
Bắc cửa Gianh trên 10km cũng có đền thờ cá ông ở Cảnh Dương, hoặc xa
hơn tại một số cửa sông của Nghệ An, thậm chí Thanh Hóa cũng có miếu
thờ cá ông. Điều này cũng dễ hiểu v́ đó là vùng đất gần với Đàng
Trong hơn, nhất là sự lan tỏa càng dễ dàng khi đất nước không c̣n
chia cắt và dân chúng hưởng ứng, v́ sau khi lên ngôi, vua Gia Long
đă phong sắc cho cá ông/voi là "Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Đẳng
Thần" và cấp “tiền tuất” mai táng cũng như phụng cúng cá ông cho
những làng phát hiện cá ông lụy([3]).
Nhưng từ tục thờ thần biển mà vật linh thiêng hóa hiện là cá voi của
người Chăm để chuyển thành linh vật của người Việt, đi vào tâm thức
và cách thể hiện của người Việt đến mức Việt hóa gần như hoàn toàn
theo bước chân Nam tiến là cả một quá tŕnh và để lại dấu ấn trên
từng vùng đất suốt từ sông Gianh vào đến Hà Tiên. Truyền thuyết về
thần cá voi của người Chăm là do Cha Aih va, Sóng biển hóa hiện, c̣n
theo lưu dân người Việt th́ đó là từ ngàn vạn mảnh áo cà sa của Phật
Bà Quan Âm mà thành. Phật Bà Quan Âm giàu ḷng từ bi hẵn là gần gũi
với tâm linh người Việt hơn vị thần Po Riyak của người Chăm mà họ
chưa biết nhiều…
Do những biến động của lịch sử, sự thay đổi của địa bàn cư trú, hiện
nay đền thờ cá ông của người Chăm c̣n lại không nhiều. Bởi vậy, lịch
lễ cầu đảo của người Chăm hàng năm tại đền thờ Sóng biển ở Mỹ Nghiệp
(thị trấn Phước Dân, Ninh Thuận) hiện nay khó có thể đại diện
để nói lên quan niệm chọn lịch lễ cúng cá ông của người Việt cũng có
nét tương đồng. Thực ra, lịch lễ cúng cá ông của ngư dân cũng mỗi
nơi một khác và không phải đối với miền Trung Trung Bộ hay Nam Trung
Bộ thường diễn ra trong những tháng nhiều mưa băo (được cho quảng
thời gian cá ông dễ lụy), c̣n đối với các tỉnh Nam Bộ thường bắt đầu
hoặc kết thúc một mùa đánh bắt cá tôm. Có khi ngày cúng ông, Nghinh
ông chỉ là ngày vạn chài xin xăm được. Nói thế để biết rằng từ tín
ngưỡng về một vị thần bảo trợ trên biển mà người Chăm chỉ cầu đảo
mong mưa thuận gió ḥa, sóng yên biển lặng th́ người Việt thực hiện
điều đó phải gắn với một thời điểm cụ thể mà họ phải là “nhân chứng”
của thần linh.
Người Chăm thờ thần Sóng biển-Cha Aih va, Po Riyak hóa thân thành cá
voi bơi lặn ngoài biển. Nhưng trong đền thờ cá ông của người Việt là
bộ xương cá voi “thấy tận mắt”, được trân trọng gọi là Ngọc cốt. Ngư
dân tin rằng khi ông lụy (chết) mà thân xác trôi về với làng nào th́
làng đó lắm phúc, nhiều may. Người đầu tiên phát hiện ông lụy được
chít khăn tang đỏ, xem như con trưởng của ông. Người Chăm cầu đảo
hầu mong thần Sóng biển đưa lại mưa thuận gió ḥa. Nghi thức trọng
thể trong ngày vía ông của ngư dân Việt là đám rước với kiệu Nghinh
ông từ ngoài biển về. Đám rước đông hàng ngàn người. Ngư dân mời ông
về trong ngày vía để bày tỏ ư nguyện và ḷng biết ơn ḥa quyện, gắn
bó trong niềm chung vui đầm ấm. Những ngày cúng ông không khí vạn
chài nhộn nhịp như trong ngày Tết. Trên bến, dưới thuyền cờ hoa lộng
lẫy, làng cá tấp nập khách thập phương. Nghi thức, ư nghĩa biểu
tượng chung là vậy, nhưng các bước cúng ông trong ngày vía giữa các
vùng, miền cũng có nhiều điểm khác nhau. Ở Trung Trung Bộ người ta
chủ yếu nghinh/cúng ông trong ngày vía, nhưng ở Nam Bộ, bên cạnh
nghi thức ấy, sau khi đă rước ông về dinh/miếu là khởi cúng Tiền
hiền, Hậu hiền. Lễ cúng những người có công lập làng trước khi vào
Chánh tế-cúng ông, là sự tri ân của cư dân trên vùng đất mới khai
phá, tạo ra nét riêng trong cách bài trí các đối tượng tôn thờ và
thứ tự các bước trong nghi thức cúng ông. Không phải chỉ có thế,
trong nhiều ngôi đền cá ông trên đất Nam Bộ c̣n thờ cả Quan Công,
Thiên Y A Na, Bà Ngũ Hành, trước đền/lăng/dinh ông c̣n thờ tượng
Phật Bà Quan Âm… mà miền Trung không làm như vậy. Ngoài ra, nghi
thức thờ cúng cá ông của các tỉnh Trung Bộ có lễ xuống biển; ở Khánh
Ḥa có tục hèm mang đậm dấu vết của văn hóa Chăm; ở B́nh Thuận có
tṛ diễn bạn chèo Nghinh ông, nhưng ở Nam Bộ không có những nghi
thức này.
Sự phổ biến của tín ngưỡng thờ cúng cá ông đối với các làng cá lâu
đời ven biển không những đă cấu thành một yếu tố văn hóa biển mà c̣n
làm cho yếu tố đó trở nên nổi bật hơn trong văn hóa biển của người
Việt. Nghi thức Nghinh ông đă trở thành một kiểu thức khá phổ biến,
chi phối cách thờ cúng của loại h́nh tín ngưỡng xuất hiện sau nó và
tạo ra những nét tương đồng trong cách thức cúng lễ của cộng đồng
ngư dân. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều đó trong nghi thức
Nghinh Bà Ngũ Hành hay Nghinh Cô từ biển vào tương tự việc Nghinh
ông trên biển, mặc dù Cô vốn là trinh nữ chết oan hay chỉ là một cô
gái bị rơi xuống biển linh ứng báo mộng sẽ che chở cho một vạn chài.
Tục thờ Bà Ngũ Hành đă có từ lâu nhưng Nghinh Bà tương tự Nghinh (cá)
ông th́ chỉ có ở ngư dân… Tất nhiên, “tiềm thức nông nghiệp” biểu
hiện rơ rệt trong nghi lễ cầu mưa, cầu an vẫn được ngư dân thực hiện
trong lễ cúng cá ông bên cạnh lễ cầu ngư với nhiều điểm giống với
nghi thức cúng đ́nh hàng năm…
Tục thờ cúng cá ông của người Việt, từ Trung Trung Bộ vào tới Nam Bộ,
về cơ bản là giống nhau, nhưng sắc thái văn hóa địa phương, vùng
miền không chỉ thể hiện trong cách xây dựng đền miếu, sự bổ sung các
đối tượng thờ cúng do đó có các bước cúng lễ khác nhau mà c̣n để lại
từng dấu ấn trong phần hội lễ.
Nếu như lễ là phần linh thiêng, là lúc con người bày tỏ ư nguyện và
ḷng biết ơn, là lúc để ḷng người đón nhận giao kết niềm tin th́
hội là phần vui chơi, giải trí với nhiều hoạt động rất đa dạng,
phong phú diễn ra tiếp sau phần lễ, cũng có khi xen kẽ sau mỗi nghi
thức cúng lễ. Bên cạnh một số loại h́nh hoạt động mang tính thể thao,
các tṛ chơi dân gian gắn liền với nghề biển thường được tổ chức
trong ngày hội cúng ông từ Trung Trung Bộ vào đến Nam Bộ, như đua
thuyền, đua thúng, đấu vật, kéo dây, trói cua, bắt vịt, đi cà kheo…
th́ các loại h́nh nghệ thuật biểu diễn thường mang dấu ấn vùng miền
rơ rệt. Vùng B́nh-Trị-Thiên thường tổ chức hát ḥ khoan-chèo cạn,
tṛ múa bông... c̣n Nam Trung Bộ, từ Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh
Định, Phú Yên, Khánh Ḥa đến Ninh-B́nh Thuận thường tổ chức hát bả
trạo và hát bội, trong khi ở Nam Bộ không thể thiếu hát bội, xây
chầu và múa lân sư rồng... Tṛ diễn Bạn chèo đưa ông (thực chất
là nghi lễ kỷ niệm một năm ngày ông lụy) chỉ có từ B́nh Thuận
trở ra, nhưng hát bả trạo lại được ngư dân Bà Rịa-Vũng Tàu (vùng
đất Nam Bộ tiếp giáp với Trung Bộ) say mê đón nhận như một phần
quan trọng của ngày hội, mặc dù lễ cúng cá ông các địa phương khác ở
Nam Bộ không tŕnh diễn loại h́nh nghệ thuật này. Nội dung bả trạo
là một bài ca nghề nghiệp của ngư dân trên dăi đất Trung Bộ, theo
nhiều nhà nghiên cứu nó có nét gần giống với một làn điệu dân ca
Chăm. Trong khi đó hát bội với những tích tuồng, cốt truyện có nguồn
gốc Trung Quốc là phần không thể thiếu trong hội cúng ông của ngư
dân Nam Bộ. Người ta tổ chức hát bội ngay trong khuôn viên đền thờ.
Không khí ca hát mừng thần và vui chơi giải trí trong lễ cúng cá ông
của ngư dân Nam Bộ dường như ḥa quyện làm một. Đó có thể là đặc
trưng của lễ cúng cá ông trên vùng đất mới ít giông băo hơn…
*
Với sự góp mặt của cá ông đă làm phong phú thêm đối tượng thần linh
của người Việt, đặc biệt góp thêm một thần linh biển vốn chưa nhiều
trong hệ thống thần linh của người Việt. Tục thờ cúng cá ông không
những đă bổ sung và tạo ra sắc thái mới mà c̣n là mốc đánh dấu bước
phát triển trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Việt. Quá
tŕnh đó như một ḍng chảy từ Trung Trung Bộ vào đến Nam Bộ và có
mối quan hệ chặt chẽ với tiến tŕnh phát triển lịch sử, văn hóa của
vùng đất này. Trong sự phát triển liền mạch đó, tục thờ cúng cá ông
cũng để lại những nét riêng trên mỗi vùng đất, tạo nên sự thống nhất
trong đa dạng, góp phần định h́nh đặc trưng văn hóa vùng đất “mới”.
Việc nghiên cứu nguồn gốc tục thờ cúng cá ông và đặt nó trong tiến
tŕnh lịch sử Nam tiến của người Việt để nh́n nhận giai đoạn phát
triển trước đó và sau này của tín ngưỡng dân gian người Việt cũng là
một cách tiếp cận để nhận diện đặc điểm tín ngưỡng dân gian trước và
sau khi người Việt nam tiến cũng như đặc điểm tín ngưỡng dân gian
hai miền Trong-Ngoài.
Ngày nay, tục thờ cúng cá ông có vai tṛ, vị trí quan trọng trong
đời sống văn hóa, tinh thần và tâm linh của ngư dân ven biển. Lễ hội
Nghinh ông là một hoạt động văn hóa/tín ngưỡng thu hút nhiều ngư dân
và khách du lịch. Sự phát triển của tín ngưỡng này đến thời hiện đại
càng tỏ ra phù hợp với nhu cầu bảo vệ môi trường sinh thái, động vật
nguy cấp… Trong khi nhiều quốc gia tiên tiến vẫn t́m cách săn cá voi
th́ những người dân chài Việt Nam đă bảo vệ loại động vật nguy cấp
đó theo cách của ḿnh, một cách bảo vệ rất văn hóa…
ĐINH VăN HạNH
|