|
Ngàn Năm Văn Hiến
Trích từ:
http://www.datviet.com/forums/showthread.php?t=43359
Các
nhà khảo cổ học và nhân chứng học đă t́m thấy
những dấu tích của con người trên lănh thổ Việt
Nam cách ngày nay hàng chục vạn năm.
Trên sườn núi Đọ - Thanh Hóa (c̣n có các tranh
luận về niên đại của di tích này) và tại các địa
điểm Hang G̣n, Dầu Dây (Đồng Nai), đă phát hiện
được những công cụ đá thô sơ của sơ kỳ thời đại
đá cũ. Di cốt người vượn (archanthropus) cũng đă
t́m thấy trong hang Thẩm Hai và Thẩm Khuyên (Lạng
Sơn). Đó là những chiếc răng hóa thạch có những
đặc điểm gần với răng người vượn Bắc Kinh (Sinanthropus
pekinensis), nằm trong di cốt một quần động vật
thời kỳ trung kỳ cách tân (Pléistocène) cách
ngày nay khoảng 30 vạn nặm. Như vậy cách đây
hàng chục vạn năm, đă có những bầy người vượn
sinh sảng rải rác trên ba miền Bắc, Trung, Nam
Việt Nam.
Tại hang Thẩm ồm (Nghệ An), t́m thấy răng hóa
thạch của một loài người vượn sống cách ngày nay
14-25 vạn năm, đang trên quá tŕnh tiến hóa từ
người đứng thẳng (homo erectus) lên người hiện
đại (homo sapiens).
Tiếp theo đó, di cốt người hiện đại đă được phát
hiện ở hang Hùm (Yên Bái) có niên đại 8-14 vạn
năm, rồi ở Kéo Lèng (Lạng Sơn), Soi Nhụ (Quảng
Ninh), Thung Lang (Ninh B́nh). Những phát hiện
trên cho thấy quá tŕnh chuyển hóa từ người vượn
thành người hiện đại diễn ra khá sớm trên lănh
thổ Việt Nam. Đó là những trang mở đầu của lịch
sử thời nguyên thủy Việt Nam.
Từ văn hóa Sơn Vi phát triển lên văn hóa Ḥa
B́nh - Bắc Sơn thuộc thời kỳ nguyên đá mới (protonéolithique)
và sơ kỳ đá mới (néolithiqueférieur) tồn tại
cách đây trên dưới 1 vạn năm. Văn hóa Ḥa B́nh -
Bắc Sơn phân bố trên địa bàn rộng của Đông Nam á
gồm cả Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma,
Malaisia, đông Sumatra, song cuội nguồn là Việt
Nam. Cư dân Ḥa B́nh - Bắc Sơn đă biết trồng
trọt và Việt Nam cũng như Đông Nam á được coi là
một trung tâm nông nghiệp vào loại sớm nhất của
loài người bên cạnh trung tâm Trung Đông, Trung
Mỹ, Pêru. Đó là bước mở đầu của "cuộc cách mạng
đá mới" mà thành tựu chủ yếu là sự phát sinh
nông nghiệp.
Văn hóa Sơn Vi (Vĩnh Phú) thuộc hậu kỳ thời đại
đá cũ, có niên đại cách đây 11-18 ngh́n năm,
phân bố rất rộng trong các hang động và thềm
sông cổ từ Lao Cai đến Nghệ An. Những nhóm cư
dân nguyên thủy này sinh sống bằng hái lượm và
săn bắt trong một hệ sinh thái miền nhiệt - ẩm
với một thế giới động vật và thực vật phong phú,
đa dạng.
Đến hậu kỳ đá mới cách đây khoảng 4-5 ngh́n năm,
các di tích văn hóa tiền sử phân bố rộng khắp
lănh thổ Việt Nam trên các địa h́nh khác nhau,
từ Bắc chí Nam, từ miền núi rừng cao nguyên phía
tây đến châu thổ ven biển và hải đảo phía đông
đó là văn hóa Hạ Long (Quảng Ninh), văn hóa Bàu
Tró (Quảng B́nh), văn hóa Cầu Sắt (Đồng Nai)...
và các di vật t́m thấyở hầu khắp mọi nơi. Đây
cũng là thời kỳ biển lui và h́nh thành các đồng
bằng châu thổ ven biển. Từ các miền g̣ đồi, miền
chân núi, cư dân nguyên thủy tiến xuống chinh
phục vùng châu thổ, phát triển nền nông nghiệp
trồng lúa nước. Trên cơ sở kinh tế trồng lúa
nước kết hợp cới các loại cây trồng khác, kết
hợp với các nghề thủ công, với hái lượm, săn bắn
chăn nuôi, đấnh cá, cuộc sống của con người dần
dần ổn định với những xóm làng nông nghiệp định
cư dựa trên qua hệ thị tộc mẫu hệ. Đó là cuội
nguồn xa xưa của nền văn minh Việt Nam cổ truyền
Thời kỳ dựng nước đời Hùng
Vương và An Dương Vương
Từ thời đại đồ đá tiến lên thời đại kim khí
- thời đại đồ đồng và đồ sắt - là một chuyển
biến lớn lao của lịch sử nhân loại. Đó là
thời kỳ cách mạng luyện kim, thời kỳ xuất
hiện những nền văn minh và nhà nước đầu tiên,
và cũng là thời kỳ mở đầu sự nghiệp dựng
nước của dân tộc.
Trên lănh thổ Việt Nam, nền văn minh sớm
nhất là nền văn minh sông Hồng gắn liền với
nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, với quá
tŕnh h́nh thành nước Văn Lang đời Hùng
Vương và nước Âu Lạc đời An Dương Vư
Di tích văn hóa Đông Sơn phân bố rộng khắp
miền Bắc Việt Nam trên lưu vực sông Hồng,
sông Mă, sông Lam. Văn hóa Đông Sơn tồn tại
trong khoảng 7-8 thế kỷ trước công nguyên
đến 1-2 thế kỷ sau công nguyên, thuộc thời
kỳ thịnh đạt của đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt. Đó
là sự hội tụ của nhiều chặng đường dẫn đến
Đông Sơn.
Trên lưu vực sông Hồng, khảo cổ học đă xác
lập được một phổ hệ gồm 3 giai đoạn trước
Đông Sơn diễn ra trong thiên kỷ 1 trước công
nguyên:
Giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên thuộc sơ kỳ
đồng thau.
Giai đoạn văn hóa Đồng Đậu thuộc trung kỳ
đồng thau.
Giai đoạn văn hóa G̣ Mun thuộc hậu kỳ đồng
thau.
ở vùng đông bắc từ văn hóa Hạ Long ở vùng
sông Mă từ văn hóa Hoa Lộc, Đông khối, ở
vùng sông Lam từ văn hóa Bàu Tró, cũng có
những giai đoạn văn hóa dẫn đến Đông Sơn.
Những ḍng văn hóa đó có quan hệ giao lưu
với nhau, nhưng cũng mang những dáng vẻ khác
nhau phản ánh cuộc sống của những nhóm cư
dân - bộ tộc hay liên minh bộ lạc - trên
những địa bàn khác nhau. Đến văn hóa Đông
Sơn th́ các loại h́nh địa phương vẫn tồn tại
nhưng tính thống nhất văn hóa trở nên bao
trùm và chi phối. Dù thuộc di tích nào, ở
địa phương nào, văn hóa Đông Sơn vẫn mang
những đặc trưng chung biểu thị trong các
loại h́nh di vật gồm công cụ (ŕu, cuốc,
xẻng, lưỡi cày...) vũ khi (ŕu chiến, dao
găm, mũi giáo, mũi tên...), đồ dùng vàọ
trang sức (thạp, thổ, ṿng tay, khuyên
tai...) trong kỹ thuật chế tác và trong nghệ
thuật trang trí. Di vật tiêu biểu nhất của
văn hóa Đông Sơn là trống đồng Đông Sơn nổi
tiếng (trống đồng loại 1 theo phân loại của
Heger). Trống đồng t́m thấy trong một khu
vực rộng lớn bao gồm cả miền Nam Trung Quốc,
bán đảo Đông Dương, Thái Lan, Malaysia,
nhưng miền Bắc Việt Nam được coi là một
trung tâm phát sinh lớn nhất. Văn hóa Đông
Sơn vừa có cội rễ bản địa, vừa qua giao lưu
và hội nhập, tiếp thụ một số ảnh hưởng văn
hóa bên ngoài từ phương bắc và từ phương n
Quá tŕnh thống nhất văn hóa Đông Sơn cũng
là quá tŕnh liên kết các nhóm cư dân Việt
cổ - người Lạc Việt và người Âu Việt - thành
một cộng đồng quốc gia với một h́nh thái nhà
nước sơ khai. Đó là nước Văn Lang đời Hùng
Vương và tiếp theo là nước Âu Lạc đời An
Dương Vương
Đây là một thời đại để lại dấu ấn rất sâu
đậm trong kư ức của nhân dân Việt Nam với
bao huyền thoại và truyền thuyết lưu truyền
rộng răi trong dân gian từ đời này sang đời
khác. Truyền thuyết Lạc Long Quân lấy Âu Cơ
sinh ra bọc trăm trứng nở ra trăm con, được
coi như tổ tiên chung của cộng đồng dân tộ
Truyền thuyết trầu cau, bánh chưng, bánh dày,
Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thánh Dóng phá giặc Ân
phản ánh cuộc sống lao động và chiến đấu của
người Việt cổ. Ngày 10 thang 3 âm lịch được
coi là ngày Giỗ tổ của cả dân tộc. Người
Việt Nam từ bao đời nay vẫn luôn luôn nhắc
nhở nhau :
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba
Nước Văn Lang và Âu Lạc và ra đời trên một
nền tảng kinh tế đă phát triển, chủ yếu là
nông nghiệp trồng lúa nước đạt đến tŕnh độ
dùng lưỡi cày bằng đồng thau và sức kéo của
trâu, ḅ. Chăn nuôi có chó, lợn, gà, vịt,
trâu, ḅ, voi. Nghề thủ công có đúc đồng,
luyện sắt, làm đồ gốm, đan lát , mộc, dệt,
sơn... Nhà cửa, trang phục, nhiều phong tục
tập quán, sinh hoạt văn hóa c̣n được ghi lại
bằng h́nh ảnh trên các di vật Đông Sơn, nhất
là trên trống đồng. Tiếp nối nước Văn Lang,
nước Âu Lạc ra đời vào nửa sau thế kỷ III
trước công nguyên, c̣n để lại dấu tích của
kinh đô Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) với ba
ṿng thành dài trên 16 km.
Văn
Hóa Sa Huỳnh, ốc eo và sự ra đời của nước
Champa, Phù Nam
Văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngăi) phân bố trên
địa bàn miền Trung từ nam đèo Hải Vân đến
đông Nam Bộ. Các di tích văn hóa này thường
được phát hiện trên vùng g̣ đồi và cồn cát
ven biển, phát triển liên tục từ sơ kỳ đồng
thau đến sơ kỳ đồ sắt, với thời gian tồn tại
trong khoảng thiên niên kỷ 1, 2 trước công
nguyên. Những di vật thường t́m thấy là mộ
chum, đồ gốm tô màu đỏ và màu ch́, đồ trang
sức. Vào giai đoạn cuối, đồ sắt rất phát
triển với các loại di vật như dao, ŕu,
thuổng... Văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ giao
lưu với văn hóa Đông Sơn ở phía bắc và lan
tỏa ảnh hưởng sang Thái Lan và vùng hải đảo.
Cư dân Sa Huỳnh biết trồng lúa nước và các
loại cây ăn quả, biết luyện kim, làm đồ gốm,
dệt vải kết hợp với nghề rừng, nghề biển.
Văn hóa Sa Huỳnh là cơ sở dẫn đến sự thành
lập nước Champa cổ vào thế kỷ đầu công
nguyên
Văn hóa ốc Eo là một nền văn hóa nổi tiếng ở
miền Nam Việt Nam. Trên lưu vực sông Đồng
Nai và sông Vàm Cỏ, những thập kỷ gần đây đă
phát hiện một hệ thống di tích khảo cổ học,
cũng phát triển tuần tự từ sơ kỳ đồng thau
đến sơ kỳ đồ sắt trong khoảng thiên niên kỷ
2 đến vài thế kỷ trước công nguyên. Tiếp
theo đó, vào những thế kỷ đầu công nguyên,
văn hóa ốc Eo ra đời và để lại một loạt di
tích trải rộng từ miền tây Hậu Giang qua
vùng Đồng Tháp Mười đén thượng lưu sông Đồng
Nai. Đó là những di tích kiến trúc tôn giáo
như đền tháp (chỉ c̣n nền móng), di tích mộ
táng, di chỉ cư trú với dấu tích cọc gỗ của
nhà sàn...
Những di tích ấy chứa đựng nhiều vật liệu
kiến trúc bằng gạch đá, nhiều đồ gốm cùng
rất nhiều đồ trang sức bằng đá quư, vàng,
bạc chạm khắc tinh vi, những tượng bằng gỗ,
đất nung, đồng thau ; những con dấu, đồng
tiền và những lá vàng có khắc chữ cổ. Trong
những di tích gần ven biển cổ c̣n t́m thấy
những di vật ngoại nhập như tượng và đồ
trang sức mang đậm phong cách ấn Độ, nhưng
gương đồng Trung Quốc đời Đông Hán, những
huy chương Antonius (152), Marius Aurelius
(161-180) của La Mă văn hóa ốc Eo hướng ra
biển Đông và có quan hệ giao lưu mật thiết
với Trung Quốc, ấn Độ và với cả thế giới La
Mă.
Văn hóa ốc Eo tồn tại từ đầu công nguyên đến
thế kỷ VI, VII. Đó là dấu tích của vương
quốc một thời thịnh đạt được sử sách ghi
chép với tên gọi là nước Phù Nam, có thể bao
gồm nhiều tiểu quốc.
Đông Sơn cùng Sa Huỳnh, ốc Eo là ba trung
tâm văn minh sớm nhất trên lănh thổ Việt nam
thời cổ đại. Những nước Văn Lang - Âu Lạc,
Champa, Phù Nam trải qua nhiều biến thiên
lịch sử, cuối cùng đă hội nhập vào lịch sử
Việt Nam mà ḍng chảy chủ lưu là Văn Lang -
Việt Nam
Hơn Ngh́n Năm Thách Thức và
Quật Khởi
Khi các tộc người trên lănh thổ Việt Nam vừa
mới h́nh thành nhà nước th́ ở phương bắc đế
chế Tần (221-206 trước công nguyên) thành
lập và bắt đầu bành trướng xuống phương nam.
Cư dân Văn Lang - Âu Lạc đă bền bỉ chiến đấu
chống lại cuộc xâm lược đại quy mô của đé
chế Tần, giữ yên bờ cơi. Chính trong cuộc
kháng chiến này, người Lạc Việt và người Âu
Việt đă thắt chặt quan hệ liên kết, và từ
nước Văn Lang lập ra nước Âu Lạc. Người chỉ
huy cuộc kháng chiến thắng lợi là Thục Phán
trở thành vua nưóc Âu Lạc với danh hiệu An
Dương Vương.
Nhưng đến năm 179 trước công nguyên, nước Âu
Lạc bị Triệu Đà - vua nước Nam Việt ở Nam
Trung Quốc -thôn tính. Từ đó người Việt bị
ch́m đắm trong một thời kỳ mất nước kéo dài
hơn ngh́n năm (179 trước công nguyên - 938).
Các triều đại Trung Quốc từ Hán (206 trước
công nguyên - 220) đến Tùy (581 - 618),
Đường (618 - 907) đă áp dụng nhiều thủ đoạn
đàn áp nhằm dập tắt ngọn lửa đấu tranh của
người Việt và thục hiện nhiều chính sách
đồng hóa nhằm sáp nhập đất nước Âu Lạc vào
lănh thổ Trung Quốc. Năm 111 trước công
nguyên, triều Hán thôn tính nước Champa, mở
rộng đé chế vào đến nam Trung Bộ.
Sau nhiều cuộc khởi nghĩa, người Chăm giành
lại đất nước và thành lập nước Champa độc
lập vào cuối thế kỷ thứ II. Cuộc đấu tranh
của người Việt lâu dài và gian nan hơn nhiều.
Mùa xuân năm 40, dưới sự lănh đạo củ hai nữ
anh hùng Trưng Trắc, Trưng Nhị, cuộc khởi
nghĩa của người Việt thắng lợi. Chính quyền
độc lập Trưng Vương ra đời, nhưng 2 năm sau,
cuộc kháng chiến bị thất bại.
Tiếp theo đó, nhiều cuộc khởi nghĩa bùng nổ,
nhưng hoặc bị đàn áp, hoặc giành lại được
chính quyền một thời gian rồi bị thất bại.
Đó là khởi nghĩa Bà Triệu (248), khởi nghĩa
Lư Bí (542), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722),
khởi nghĩa Phùng Hưng (767)... Khởi nghĩa Lư
Bí cũng đă thắng lợi, lập ra nước Vạn Xuân
độc lập, nhưng rồi cuối cùng bị thất bại
(602).
Vào thế kỷ thứ X, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa
thành công, lập ra chính quyền tự chủ họ
Khúc (905-930) rồi chuyển sang chính quyền
tự chủ họ Dương (931-937) dẫn đến chiến
thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lănh đạo năm
938 đánh bại cuộc xâm lược của quân Nam Hán.
Đén đây th́ sự nghiệp giải phóng đất nước
mới giành được thắng lợi quyết định, chấm
dứt hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc.
Mất nước hơn ngh́n năm mà không bị đồng hóa
và cuối cùng tự đấu tranh giành lại chủ
quyền, đó là trường hợp hiếm có trong lịch
sử. Nguyên nhân giải thích thành công đó là,
một mặt, trước Bắc thuộc, nước Văn Lang - Âu
Lạc đă là một thực thể quốc gia đạt đến
tŕnh độ văn minh và cố kết cộng đồng bền
chặt. Mặt khác, dưới nền thống trị nước
ngoài, người Việt biết ǵn giữ và phát huy
vốn văn hóa cổ truyền đồng thời biết tiếp
thụ và tiêu hóa những thành tựu văn hóa bên
ngoài, kể cả của nước xâm lược, để tăng thêm
tiềm lực của đất nước. Trong thời kỳ này, từ
Trung Quốc, Nho Giáo, Đạo Giáo, chữ Hán,
nghề làm giấy, một số kỹ thuật nông nghiệp...
, và từ ấn Độ. phật giáo, kỹ thuật chế thủy
tinh, hương liệu... đă truyền vào Việt Nam.
Vào đầu công nguyên, Luy Lâu (Hà Bắc) trở
thành một trung tâm Phật giáo do các sư tăng
ấn Độ trực tiếp truyền bá bằng đường biển
trước khi Phật giáo thịnh đạt ở Trung Quốc
ảnh hưởng xuống phía nam.
Trong cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, làng
xă người Việt giữ một vai tṛ trọng yếu. Đó
là thế giới riêng của người Việt với những
quan hệ cộng đồng chặt, tính tự trị cao mà
chính quyền đô hộ Trung Quốc không thể nào
can thiệp và chi phối được. Trong làng xă,
người Việt bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống, tiếp thu có gạn lọc những yếu
tố văn hóa ngoại nhập phù hợp với cuộc sống
của ḿnh và liên kết lại trong cuộc đấu
tranh giành lại đất nước. Có nhà sử học đă
nhận xét rằng, trong hơn ngh́n năm Bắc thuộc,
Việt Nam mất nước nhưng không mất làng, và
chính các làng tự trị đó là những "pháo đài
xanh" phát huy hiệu quả to lớn trong cuộc
đấu tranh ǵn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và
giải phóng dân tộc.
Kỷ Nguyên Văn Minh Đại Việt
Sau khi giành lại độc lập, trong thế kỷ thứ
X, đất nước c̣n đứng trước nhiều khó khăn do
hâạu quả hơn ngh́n năm Bắc thuộc để lại.
Dưới các vương triều Ngô (939-965), Đinh
(969-979), Tiền Lê (980-1009), chính quyền
độc lập c̣n non trẻ, các thế lực cát cứ
nhiều lần trỗi dậy, đặc biệt quan trọng là
loạn Mười hai sứ quân (965-968) đă làm sụp
đổ triều Ngô. Từ phương Bắc, triều Tống
(960-1279) cũng lăm le xâm lược. Cuộc kháng
chiến chống Tống do Lê Hoàn lănh đạo đă
khẳng định chủ quyền quốc gia và cuộc đấu
tranh dẹp loạn Mười hai sứ quân của Đinh Bộ
Lĩnh đă xác lập nền thống nhất đất nước. Đó
là những thắng lợi trọng đại tạo lập điều
kiện đưa đất nước bước vào thời kỳ phục hưng
và phát triển mạnh mẽ dưới các vương triều
Lư (1010-1225), Trần (1226-1400), Hồ
(1400-1407), và Lê (1428-1527) với tên nước
Đại Việt (Đại ngu dưới triều Hồ) và kinh
thành Thăng Long (Hà Nội). Đó là kỷ nguyên
văn minh Đại Việt và nền văn hóa Thăng Long
rực rỡ trong lịch sử Việt Nam.
Nông nghiệp trồng lúa nước vẫn là nền tảng
của văn minh Đại Việt. Nhiều công tŕnh khai
hoang của nhà nước (đồn điền), của quư tộc (trang
trại, điền trang) và của nông dân (lập làng)
được thực hiện thành công, mở rộng đất đai
trồng trọt và xóm làng xuống vùng đồng bằng
ven biển, vùng trung du và miền đất chưa
khai phá phía nam. Hệ thống đê sông, đê biển
do nhà nước quản lư được xây dựng quy mô lớn
và hàng năm được bồi trúc, bảo vệ tốt. Nhiều
kênh đào được mở mang để phát triển giao
thông đường thủy và để tưới tiêu cho đồng
ruộng.
Trong nông thôn nhiều làng thủ công nghiệp
ra đời và hệ thống chợ làng phát triển. Cùng
với nông dân, tầng lớp thợ thủ công, thương
nhân có xu hướng tăng nhanh, nhưng cuộc sống
vẫn gắn bó với nông nghiệp. Trong quan hệ
buôn bán với trong nước và nước ngoài, một
số thành thị và thương cảng trở nên phồn
thịnh, tiêu biểu là Thăng Long (Hà Nội) và
Vân Đồn (ngoài hải đảo, Quảng ninh).
Trong hoàn cảnh độc lập và phát triển, nền
văn hóa dân tộc cùng bước vào thời kỳ phục
hưng. Di sản văn hóa cổ truyền được kế thừa
và nâng cao trên cơ sở lao động sáng tạo của
nhân dân và giao lưu văn hóa với nước ngoài.
Nền văn hóa Thăng Long đă cống hiến nhiều
công tŕnh và nhiều tên tuổi làm phong phú
và rạng rỡ nền văn hóa dân tộc.
Trong thời Lư, Trần, Phật giáo cùng Đạo giáo,
Nho giáo đều được tôn trọng trong tinh thần
bao dung tôn giáo của vương triều và của
nhân dân. Ngoài ra các ḍng Phật giáo du
nhập từ bên ngoài, vua Trần Nhân Tông sáng
lập ra phái Trúc Lâm là một thiền phái Việt
Nam. Cuối Trần, một số trí thức Nho giáo bắt
đầu bài xích Phật giáo, và sang thời Lê, Nho
giáo được đưa lên địa vị độc tôn. Đó cũng là
lúc chế độ quân chủ tập quyền chuyển sang mô
h́nh Nho Giáo.
Nền giáo dục và thi cử cũng bắt đầu được xây
dựng từ thời Lư với việc mở khoa thi đầu
tiên năm 1075 và lập Quốc Tử Giám năm 1076.
Chữ Hán được sử dụng như chữ viết chính thức
của vương triều, nhưng từ chữ Hán, người
Việt sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng
Việt, Văn học chữ Hán, chữ Nôm đồng thời
phát triển và để lại nhiều tác phẩm gắn liền
với tên tuổi nhiều danh nhânvăn hóa, tiêu
biểu là Lư Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần
Quang Khải, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trăi...
Bộ quốc sử đầu tiên mang tên Đại Việt sử kư
được Lê Văn Hưu biên soạn và hoàn thành năm
1272.
Văn ḥa dân gian là cơ sở chủ yếu của văn
hóa dân tộc cũng được hồi sinh và phát triển
gắn liền với nhiều sinh hoạt phong phú, đa
dạng của các làng xă. Hội làng thường được
tổ chức vào mùa xuân và mùa thu là dịp biểu
thị tập trung các sinh hoạt văn hóa dân gian
như đua thuyền, đấu vật chọi gà, ném c̣n,
đánh phết, tŕnh diễn hát chèo, hát tuồng,
múa rối nước... Múa rối nước là một nghệ
thuật sân khấu dân gian độc đáo của xứ sở
sông nước, ao đầm và của nông nghiệp lúa
nước, chỉ t́m thấy ở Việt Nam và đă phát
triển mạnh từ đời Lư.
Trong 5 thế kỷ phục hưng này, nước Đại Việt
cũng phải nhiều phen cầm vũ khí chống ngoại
xâm, lập nên nhiều vũ công hiển hách. Đó là
kháng chiến chống Tống lần thứ II
(1075-1077) dưới triều Lư do Lư Thường Kiệt
lănh đạo, ba lần kháng chiến chống Mông -
Nguyên (1258, 1285, 1287-1288) dưới triều
Trần và vị thống soái kiệt xuất là Trần Quốc
Tuấn. Bài thơ của Lư Thường Kiệt ra đời
trong kháng chiến chống Tống được coi như
bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Kháng chiến chống Minh năm 1406-1407 do
triều Hồ lănh đạo bị thất bại vàaất nước bị
triều Minh đô hộ trong 20 năm (1407-1427).
Nhưng trong thời Minh thuộc đó, nhân dân
ĐạiViệt nổi dậy khởi nghĩa gần như liên tục,
và cuối cùng, khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427)
do Lê Lợi - Nguyễn Trăi tổ chức và lănh đạo
đă hoàn thành sứ mạng giải phóng dân tộc,
bảoảmm cho đất nước tiếp tục những trang sử
của kỷ nguyên văn minh Đại Việt. B́nh Ngô
đại cáo của Nguyễn Trăi nêu cao ước vọng của
dân tộc : "mở nền muôn thuở thái b́nh"
Kỷ nguyên Đại Việt đă để lại những thành tựu
trên cả hai lĩnh vực xây dựng và bảo vệ đất
nước, vừa rực rỡ văn trị, vừa chói lọi vơ
công. Đó cũng là thời kỳ nâng cao cố kết dân
tộc, tổwng thành của ư thức dân tộc và định
h́nh tính cách dân tộc Việt Nam.
Trích từ webside Datviet (Không thấy tên tác
giả) |