Cổng làng
-
Biểu tượng truyền
thống của làng quê Việt Nam
Nguồn Danangpt
Ngày 6/9/2005, 15:49
Một chiếc cổng bằng gỗ cũ kỹ đã tróc sơn, mọt cánh hay một chiếc cổng
xây bằng gạch rêu phong đã mọc đầy là hình ảnh quen thuộc của làng quê
Bắc bộ Việt Nam dù xu hướng đô thị hoá đã len lỏi nơi đây. Những chiếc
cổng làng có vẻ như không còn hợp với những con đường bê tông mở rộng,
với những xe công nông, ôtô tải ra vào phục vụ những nhu cầu thường
nhật ngày càng lớn của người dân nông thôn. Nhưng trong một góc tâm
thức nào đó của người dân, cổng làng vẫn tồn tại như một biểu tượng
thân thương và đặc trưng của mỗi làng quê truyền thống. Hơn nữa, cổng
làng là một trong những biểu tượng văn hoá, bản sắc văn hoá của làng
quê ở châu thổ Bắc bộ Việt Nam.
Trước Cách mạng tháng Tám, ở mỗi làng châu thổ Bắc Bộ thường có một
luỹ tre bao quanh khu thổ cư. Làng tương đối khép kín, chỉ để một hoặc
hai lối ra vào và chỗ này thường dựng một cái cổng làng là giới hạn
giao lưu liên làng và mở ra khu thổ canh. Buổi sáng, cổng làng mở, dân
làng đi chợ búa, công việc, hoặc cùng với trâu bò đi ra đồng cày cấy,
đến tối lặn mặt trời, sau khi dân làng và trâu bò về thôn rồi thì cổng
làng được đóng lại, "nội bất xuất, ngoại bất nhập".
Cổng làng không phải là biểu tượng duy nhất của một làng quê mà nó tồn
tại cùng với cây đa, mái đình. Đối với những người xa xứ, khi về quê
hương, còn cách khoảng 2, 3km là đã có thể nhìn thấy vòm cây đa và
biết rằng mình đã sắp sửa về đến làng. Nhưng về tới gần hơn, qua cổng
làng mới chính thức bước vào mảnh đất chôn rau cắt rốn của mình, và
coi như đã về tới nhà mình vì người trong một làng thường đối xử với
nhau như trong một gia đình.
Cổng làng hai bên có lũy tre, lại mở ra cánh đồng nhiều gió mát, dân
làng thường đến ngồi chơi và nhiều khi cổng làng là nơi giao lưu tình
cảm, trao đổi thông tin. Cổng làng thường tập trung nhiều ở vùng đồng
bằng Bắc bộ như ở tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình,
chủ yếu là những vùng trồng lúa và có văn hoá làng xã. Thực ra, cổng
làng nào cũng vậy, đó là nơi thân thuộc với mỗi người dân. Đi xa nhớ
ngày về sẽ có người đứng đợi ở cổng làng. Thương nhau cũng hò hẹn ở
chốn cổng làng, rồi khi về làm dâu, bước qua cổng làng về nhà chồng,
trở thành một thành viên trong cộng đồng dân cư... Giữ làng tức là giữ
nước, ở nơi cổng làng không ít người con trai đã lấy thân mình để ngăn
giặc. Kể từ khi định đô, lập quốc các triều đại phong kiến đều ra sức
củng cố làng và làng luôn được coi trọng. Mỗi cái cổng làng đều có một
nét văn hoá riêng, tùy theo đặc điểm làng đó. Có làng giàu, có làng
khoa bảng, có làng nghề... tất cả những cái hay cái đẹp đều được các
vị túc nho viết thành câu đối khắc trước cổng. Và đó là một phần của
văn hóa làng.
Mỗi một cổng làng Việt Nam đều có những nét kiến trúc riêng làm tâm
điểm trong cái bố cục hài hòa với không gian của con đường làng, lũy
tre xanh, cây đa, giếng nước, ao làng và những cánh đồng lúa chín.
Kiến trúc cổng làng xưa không cầu kỳ, phô trương, mà chỉ nhằm khẳng
định chỗ đứng của mình trong khoảng không gian làng quê vùng đồng bằng
Bắc Bộ, vốn "nửa kín, nửa hở", mà giới hạn của nó chỉ mang tính chất
tượng trưng. Vẻ đẹp của cổng làng được gắn liền với nền văn minh lúa
nước, mang tính phác họa gợi nên những ước vọng của cộng đồng từ đời
này qua đời khác, nơi như có dáng đứng của cha, có vòng tay của mẹ,
nơi tâm điểm để cho ta lượng đo sức mình khi đi xa và ngược lại nó
cũng là nơi hút về những nỗi nhớ, những hoài niệm về quê hương.
Cổng làng thường là một tam quan xây gạch, không to lắm cũng không lớn
lắm. Cầu kỳ thì đắp ngói với một vài họa tiết dân gian. Con đường đi
qua cổng làng, để lại theo nǎm tháng những lớp bụi quê vô thường, vô
thức chứng kiến không biết bao nhiêu sự kiện lớn của làng. Những đám
rước, đám hội, những buổi tiễn đưa hay hò hẹn như đều được bắt đầu hay
kết thúc ở đây. Nhìn cái vẻ cũ kỹ, quê mùa của nó người quê có thể đọc
được khối chuyện. Có cả niềm hân hoan, nỗi bịn rịn ươn ướt trên mi,
quệt vào vách cổng, sướt trên cột cổng. Có ai mỗi khi xa quê không
ngoái nhìn lại, nhìn lần cuối tam quan làng mình. Tam quan cổng làng
được dùng như một qui ước không gian hơn là một giới hạn địa lý của
làng. Nó chẳng ngǎn che được gì về vật lý lẫn thị giác. Vậy mà làng
không cổng chẳng khác gì nhà không cửa. Nó như một dấu hiệu đánh mốc
trong và ngoài của không gian làng. Cái kiểu đánh dấu này vẫn tồn tại
trong tâm thức người Việt hiện đại. Một buổi giao lưu trong thiên
nhiên, một đám hội hè, hễ có nhiều quần thể khác nhau thì thế nào cũng
dựng cổng, định vị "xác định chủ quyền" dẫu thực tế chẳng có gì ngǎn
cách. Cổng làng như một nghi thức trong cấu trúc môi trường làng. Có
cổng thì ở sát rìa làng, có cổng thì ở tít đầu đường, chỗ giao với cái
quan (đường cái) và làng. Vị trí địa lý, vị trí qui ước cũng chỉ làm
cái việc đánh mốc không gian làng. Tính mập mờ nước đôi dựa trên cái
vô hình, hàm nghĩa hợp với lối tư duy của làng dễ giải thích các hiện
tượng thiên nhiên và xã hội của làng. Nắng mưa, may rủi, được mất, hên
xui dễ được chấp nhận hay bằng lòng với lối nghĩ này.
Bộ mặt những làng quê Bắc bộ ngày nay đã biến đổi nhiều trước sự xâm
thực của làn sóng đô thị hóa ồ ạt. Nhà tầng với nhiều kiểu cách xây
dựng pha tạp đã mọc lên giữa những làng quê bao đời mộc mạc, bình dị,
phá vỡ ít nhiều cái cảnh quan đã là đặc trưng của nông thôn Bắc bộ
suốt mấy trăm năm.
Dẫu vậy, nếu có dịp làm một chuyến nhàn du qua các làng quê miền Bắc
ta vẫn còn ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của những kiến trúc cổ, những chùa,
đình, đền và lǎng miếu, cả những con đường làng nhỏ, quanh co tịch
mịch màu rêu như thể thời gian đã bám chặt vào những lớp vôi vữa,
những hàng gạch xây, đặc biệt là những cổng làng mỗi nơi một vẻ, có
cái đã tồn tại hàng thế kỷ. Cổng làng Bắc bộ như một lời mời chào
thành thật nhất để ta bước vào với đời sống làng quê.
Đi qua các làng, ngắm nhìn các cổng làng, tôi hiểu đó là một phần của
tình yêu quê hương, đất nước. Hàng ngày ta thường quen, thường vô tình
đi qua, chỉ đến khi đi xa hoặc cổng bị phá bỏ, mới thấy hụt hẫng nao
nao nỗi nhớ.
Chúng ta đang cố gắng giữ gìn nét đẹp văn hoá dân tộc. Những xóm làng
nay không còn khép kín trong lũy tre, mà đã hoà nhập thành đô thị.
Nhưng dẫu sao vẫn cần một chốn đi về, để bảo tồn được nét văn hoá
riêng.
Ấn tượng những chiếc
cổng làng ở vùng ven Hà Nội
Dân Trí:
Trên đoạn đường chỉ 2km dọc sông
Tô Lịch, tồn tại hàng chục cổng làng lớn nhỏ khá bất ngờ ở một vùng
ven Hà Nội. Đây chính là những lối vào xã Thanh Liệt, huyện Thanh
Trì, nằm giáp với quận Hoàng Mai.
Dù cách gọi vẫn mang vẻ “quê mùa” nhưng
Thanh Liệt đã thành “phố” từ lâu, khi kiến trúc nhà ống cùng hàng
chục cao ốc xung quanh phát triển với tốc độ chóng mặt.
Dù chiếm không gian khiêm tốn, những chiếc
cổng đã trở thành biểu tượng của làng quê Bắc Bộ vẫn được giữ gìn
cho thấy sự gắn bó của người dân với truyền thống lâu đời.

Cổng vào xóm Vực là cổng lớn nhất trọng loạt cổng
vào xã Thanh Liệt. Trước đây Thanh Liệt có 9 xóm, nay sáp nhật lại
chỉ còn 5 xóm bao gồm: thôn Thượng; thôn Nội; thôn Tràng; thôn Vực;
thôn Văn.

Thanh Liệt xưa còn có tên Quang Liệt, người dân
quen gọi là làng Quang, là một làng cổ chạy dọc sông Tô Lịch kéo dài
khoảng 2 km.

Cổng xóm Bơ (tên gọi cũ). Thông thường đường vào
mỗi xóm lại có một cổng, các cổng này đều hướng ra sông Tô Lịch.


Cổng vào thôn Thượng, được trùng tu vào tháng
8/2000.

Cổng vào xóm chùa Nhĩ, được xây từ năm 1942.

Cổng vào thôn Cự Đông. Mật độ cổng dẫn vào thôn
xóm của xã Thanh Liệt khá dày, có đoạn chỉ vài chục mét lại có một
cổng.

Cổng vào xóm Mụ.

Tính riêng những cổng hướng ra sông Tô Lịch thì
xã Thanh Liệt có 8 chiếc cổng chưa kể những cổng nhỏ ở phía trong
các xóm.

Cổng vào thôn Nội cũng là một cổng lớn của Thanh
Liệt.

Cổng vào xóm Giữa thôn Tràng.

Cũng lại có một cổng khác vào thôn Tràng.

Đây là cổng sau của thôn Tràng, người dân còn gọi
là cổng đồng (cổng để đi ra đồng).


Cổng vào các xóm nhỏ ở bên trong.