| |
|
- MÃ SỐ
DNA CỦA TỔ HÙNG VƯƠNG
Để hiểu rõ truyền thuyết, huyền sử và cổ sử
Việt ta hãy thử đi tìm mã số DNA hay mã số di truyền học (genetic
code) của Hùng Vương. Muốn thế trước hết ta phải đi tìm bản thể của
Hùng Vương dựa trên DNA. Bản thể phải dựa vào “tế bào gốc” của các
Tổ Hùng tức là ta phải dựa vào tế bào cuống nhau, tế bào màng nhau,
tế bào bọc con của Hùng Vương. Truyền thuyết kể rằng Mẹ Tổ Âu Cơ
sinh ra một bọc trứng chim nở ra trăm Lang Hùng. Tại sao Mẹ Tổ Âu Cơ
lại sinh ra một bọc trứng chim? Theo truyền thuyết Mường Việt cổ bà
Ngu Cơ (Âu Cơ) là con Nai sao. Nhìn vào hàng trên Gà, Bầu, Cọc
(Hươu) của bàn Bầu Cua Cá Cọc tức ngành dương, ngành Lửa, ta thấy
con Nai thuộc dòng con hươu Cọc (Hươu Nọc, Hươu Đực, Hươu Mặt Trời,
Lộc Tục) Kì Dương Vương. Kì Dương Vương là con của Bầu Đỏ Đế Minh
(Bầu là bầu trời, Đỏ là lửa, lửa bầu trời là ánh sáng tức Minh),
thuộc ngành Lửa thế gian con Gà. Gà là hình bóng thế gian của thần
Mặt Trời Viêm Đế. Như thế Mẹ tổ Âu Cơ có dòng máu bầu nên đẻ ra một
bầu, một bọc trứng và có dòng máu Gà là một loài chim nên bọc trứng
là bọc trứng chim (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc). Bọc trứng này mang
hình bóng của Trứng Vũ Trụ (Cosmic Egg), Bọc Trứng Tạo Hóa, Sinh
Tạo. Các vua Hùng thế gian (đây có thể là Hùng Vương của lịch sử) vì
thế có một khuôn mặt vũ trụ, tạo sinh, tạo hóa. Nói một cách khác
các vua Hùng thế gian đội lốt các vua Hùng Tạo Hóa, vũ trụ. Các vua
Hùng lịch sử đội lốt các vua Hùng truyền thuyết. Các Lang Hùng sinh
ra từ bọc Trứng Vũ Trụ hiển nhiên có bản thể là Bầu (bọc, nang), bầu
Tạo Hóa, bầu vũ trụ, bầu trời, Trứng Vũ Trụ. Tại sao bọc trứng chim
của Mẹ Tổ Âu Cơ chỉ sinh ra toàn con trai mà không có con gái ? Mẹ
Tổ Âu Cơ thuộc dòng lửa (dương tính), chim (chim có một khuôn mặt là
dương, đực) và nhìn theo diện dòng thái dương mặt trời Viêm Đế nên
bọc trứng chim này mang dương tính trội (dominant), vì thế mới sinh
ra toàn là con trai Lang. Bọc vũ trụ dương tức Khôn dương (IO) nên
là bọc Khí, bầu Gió dương, tức Đoài vũ trụ. Theo Dịch Đoài tầng vũ
trụ ứng với số 3 và Đoài tầng thế gian ứng với con số 11 (Dịch có 64
quẻ chia ra làm 8 chu kỳ tuần tự, ta suy ra các quẻ trừ đi 8 hay
cộng thêm 8 cho ra các số khác cũng vẫn là một quẻ cùng tên chỉ khác
là ở các tầng khác nhau). Vậy mã số di truyền thứ nhất của Hùng
Vương mang khuôn mặt vũ trụ là con số 3 và khuôn mặt thế gian là số
11. Mẹ Tổ Âu Cơ có dòng máu Tốn gió âm từ phía bên ngoại Khảm Thần
Long (Rồng Nước) và Khôn Vụ Tiên (chim Le Le). Di thể (gene) Tốn gió
âm này của mẹ Âu Cơ truyền xuống Hùng Vương ở ngành dương, lửa trở
thành di thể Đoài vũ trụ khí gió dương (Tốn OII là khuôn mặt âm của
Đoài IIO). Theo Dịch Tốn vũ trụ ứng với số 6 và Tốn thế gian là 14.
Vậy mã số di truyền thứ nhì của Hùng Vương mang dòng máu mẹ vũ trụ
là con số 6 và mẹ thế gian là con số 14. Như thế Hùng Vương ngành
Lửa dòng mẹ là Đoài/Tốn (3/6 hay 11/14).
Vì có mạng gió Đoài vũ trụ, dòng máu gió âm
Tốn của mẹ nên Hùng Vương dòng lửa mới đóng đô ở Phong châu tức châu
Gió và có chim biểu là con Cò Gió, Cò Lả, Cò Lang tức Cò Trắng (Lang
có một nghĩa là trắng như chứng bị lang da, da hóa trắng, chứng
vitiligo). Cò Gió Lang Hùng Vương có mẹ là U Cò (có tác giả cho rằng
Âu Cơ là biến âm của U Cò). U cò Âu Cơ có mạng Tốn gió âm là Cò Gió
cái nên phụ nữ Việt, con cháu Âu Cơ mới mang hình ảnh “Cái cò lặn
lội bờ ao, phất phơ hai dải yếm đào gió bay”. Có Gió Lang Hùng Vương
có cha là Cò Nước, Cò Nác, Cò Lạc. Cũng vì có khuôn mặt là Cò Gió,
Cò Lang, Cò Trắng nên mới có địa danh Bạch Hạc (Cò Trắng) bên bờ
sông Thao (Lô), kinh đô cũ Phong châu của nước Văn Lang:
Hùng Vương đô ở Phong châu,
Ấy nơi Bạch Hạc, hợp dòng Thao Giang.
Đặt tên là nước Văn Lang.
Chia mười lăm bộ, bản chương cũng liền...
(Lê Ngô Các, Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử
diễn ca).
Khuôn mặt gió dông Đoài vũ trụ này đi với
truyền thuyết Phù Đổng thiên vương. Đây là vị thần hay vị anh hùng
văn hóa có cốt là sấm dông tố, có mạng Đoài vũ trụ (vì thế mới giúp
Hùng Vương thứ 6 có mạng Đoài/Tốn đánh giặc Ân) (xem bài viết về Phù
Đổng Thiên Vương).
Mặt khác, Đoài thế gian là Bầu thế gian, là
bầu, bọc nước ấm tức ao đầm, ruộng nước (bầu có một nghĩa là ao, đầm
như bầu sen = ao sen = đầm sen). Hùng vương thế gian có một khuôn
mặt là ao đầm nên mới có thủ đô lấy tên là Việt Trì (Ao Việt) ở đất
Phong châu, có địa danh là Hạc Trì (Ao Cò).
Ở cõi Tạo Hóa, Sinh Tạo, đi đôi với khuôn mặt
gió âm Tốn, Lạc Long Quân có khuôn mặt sinh Tạo cõi trời là Nước-Lửa
cõi trời là Mây-Chớp tức sấm mưa Chấn. Chấn vũ trụ là số 1. Ở cõi
thế gian, đi đôi với khuôn mặt thế gian Non (Núi âm) của Âu Cơ (Mẹ
Tổ Âu Cơ có dòng máu Nai ngành Lửa, Núi dương Kì Dương Vương Hươu
Cọc tức Cấn Non nên bà đem 50 con lên núi về quê nội), Lạc Long Quân
thế gian có một khuôn mặt là Chấn thế gian tức Biển. Theo Dịch số 9
là số Chấn thế gian tầng 2 (1 + 8 = 9). Vậy mã số di truyền theo
dòng máu cha của Hùng Vương vũ trụ là con số 1 và Hùng Vương thế
gian là con số 9. Hùng Vương thế gian theo dòng cha có mã số di
truyền là số 9.
Ngoài ra qua hình ảnh hai con số 6 và 9, ta
cũng thấy rất rõ Âu Cơ Tốn 6 và Lạc Long Quân Chấn 9 ngược nhau như
hai con số 6 và 9. Số 6 và số 9 kết hợp chồng lên nhau thành hình số
8. Trong toán học số 8 để nằm ngang có một khuôn mặt vô cực, dùng
làm ký hiệu vô cực. Điều này cũng xác nhận thêm một lần nữa là Trăm
Lang Hùng có một khuôn mặt Hư Vô, Vô Cực, Vũ Trụ. Hai số 6 (Âu Cơ)
và 9 (Lạc Long Quân) hôn phối với nhau dưới dạng chuyển động, sinh
tạo sinh ra hình nang Thái Cực hay Trứng Vũ Trụ (ở dạng âm dòng Lạc
Long Quân) tức đẻ ra bầu, bọc Trứng Vũ Trụ Trăm Lang Hùng. 
Bọc Trứng Hùng Vương Vũ Trụ (hay nang hay đĩa
Thái Cực) cho thấy rõ như ban ngày là Hùng Lang chia ra làm hai
ngành âm dương, nước lửa. Năm mươi Lang Hùng theo mẹ lên núi và 50
người còn lại theo cha xuống biển. Năm mươi người theo mẹ lên núi
ứng ngành lửa (phụ nữ Việt, con cháu Âu Cơ mang dòng máu dương nữ)
với phần dương, lửa mầu trắng có hình số 6 (số 6 là số chẵn số âm,
số mẹ) thuộc dòng Lửa, Núi Dương Kì Dương Vương là các vua Mặt Trời
Nọc Lửa hừng rạng thuộc hệ Nọc, Lửa (Viêm Đế, Đế Minh, Kì Dương
Vương). Các vua Hùng Vương thế gian ngành này là Hùng Li hay Hùng Kì
hay Hùng Âu thuộc hệ phái Kì Dương Vương. Năm mươi Lang theo cha
xuống biển ứng với phần âm, nước, mầu đen có hình số 9 (số 9 là số
lẻ, số dương, số cha) thuộc dòng Nòng, Nước dương, (Thần Nông, Lạc
Long Quân, Hùng Vương ngành âm) thuộc hệ phái An Dương Vương. Phái
nam Việt Nam, con cháu Lạc Long mang dòng máu âm nam (nên các ông
Việt âm nam phải biết thân biết phận với các bà dương nữ!). Các vua
Hùng thế gian này là Hùng Lạc hay Hùng An. Vì thế về sau mới có dạng
kết hợp giữa Hùng Âu và Hùng Lạc tạo ra nước Âu Lạc.
Đọc truyền thuyết và cổ sử Việt, ta cũng thấy
các vị Hùng Vương thường gắn bó chặt chẽ với con số 18. Ví dụ như
các vua Hùng trị vì 18 đời kéo dài suốt khoảng thời gian 2622 năm,
trong truyện Sơn Tinh và Thủy Tinh, mỵ nương Ngoc Hoa đời Hùng Vương
thứ 18 lấy Sơn Tinh, Lang Liêu vị công tử thứ 18 làm ra bánh chưng,
công chúa Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử lúc 18 tuổi, vân vân...
Tại sao Hùng Vương lại gắn bó mật thiết với
con số 18 ? Dĩ nhiên con số này phải liên hệ ruột thịt với bản thể
Hùng Vương nghĩa là liên hệ với các mã số di truyền vừa mới nói ở
trên. Vậy ta cần phải tìm ý nghĩa con số 18 này trong Dịch lý dựa
vào các mã số di truyền 3, 6, 9.
Trước hết, như đã biết 100 Lang Hùng đẻ ra từ
bọc Trứng Vũ Trụ nên có mạng Đoài vũ trụ. Số 3 là số Đoài vũ trụ.
Vậy ta hãy nghiên cứu ma phương có số trục là số 3
Ma phương 3/18 (lưu ý trong ma phương này số
1 còn tương đương với 10 và số 2 tương đương với 11).
Xin nhắc qua một chút về ma
phương. Ma phương (magic square) là gì? Nói nôm na giản dị là hình
vuông thần kì có 9 ô, trong mỗi ô có một con số. Đọc theo tất cả các
chiều, 3 con số cộng lại đều bằng nhau. Ma phương 3/18 có con số 3
là con số trục nằm ở ô giữa hình vuông và cộng các con số theo các
chiều lại bằng 18.
Như thế trăm Lang Hùng có mạng Đoài vũ trụ
ứng với ma phương 3/18. Năm mươi Lang theo mẹ có dòng máu Tốn thuộc
ngành lửa Càn Li. Số 6 là số Tốn. Như thế 50 Lang theo mẹ lên núi
ứng với ma phương có số trục là số 6 tức ma phương 6/18. Ma phương
6/18 có con số 6 là con số trục nằm ở ô giữa hình vuông và tổng cộng
các con số đọc theo các chiều lại bằng 18.
Ma phương 6/18
(lưu ý trong ma phương này cũng giống như
trong ma phương 3/18, số 1 còn tương đương với 10 và số 2 tương
đương với 11).
Năm mươi Lang theo cha Lạc Long Quân xuống biển,
nước dương, Chấn. Số 9 là số Chấn thế gian. Như thế 50 Lang theo cha
xuống biển ứng với ma phương có số trục là số 9 tức ma phương 9/18.
- lưu ý trong ma phương này
cũng giống như trong ma phương 3/18, 6/18, số 1 còn tương đương với
10 và số 2 tương đương với 11).
Tóm lại trăm Lang Hùng Đoài vũ trụ có ma
phương 3/18. Năm mươi lang Hùng Đoài/Tốn (6) ngành mẹ, Lửa, Đế
Minh-Kì Dương Vương có ma phương 6/18 và năm mươi lang Hùng Đoài/Cấn-Chấn
(9) ngành cha, Nước, Lạc Long Quân-An Dương Vương có ma phương 9/18.
Cả ba khuôn mặt Hùng Vương đều có con số 18. Mặt khác ba ma phương
18 có ba số trục là 3 (Đoài Hùng Vương vũ trụ) 6 (Tốn, dòng máu mẹ
Âu-Cơ) và 9 (Chấn, dòng máu cha Lạc Long Quân) cộng lại là 3 + 6 + 9
= 18. Như thế rõ như ban ngày con số 18 là một mã số di truyền học của
Hùng Vương. Điều này giải thích tại sao trong truyền thuyết và cổ sử
Việt, ta thấy con số 18 gắn bó với Hùng Vương.
Cũng cần nói thêm một điều lý thú nữa là ta
có con rùa nước ngọt, rùa ao đầm Đoài thế gian (bản thể của Hùng
Vương thế gian) có tên là con ba ba (ta có món ăn nấu giả ba ba vì
kiêng ăn thịt vật tổ). Ta biết con rùa có mai hình vòm vũ trụ, bầu
trời nên là biểu tượng cho hư vô, vũ trụ ruột thịt với Dịch như ta
thấy bên cạnh Phục Hy thường có con rùa và con rùa có mai “ba thước
vuông” của Việt Thường trên có khắc chữ nòng nọc ghi lại vũ trụ tạo
sinh từ thuở mở ra trời đất... (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).
Rùa ba ba là rùa nước ngọt ao đầm Đoài thế gian nên được đặt tên
theo Dịch Hùng Vương. Ba ba có các nghĩa như sau: ba (3) ứng với ma
phương 3/18, là khuôn mặt Hùng Vương vũ trụ , ba cộng ba là 6 ứng với
Tốn 6, với ma phương 6/18 là khuôn mặt Hùng Vương dòng lửa, dòng mẹ
và ba nhân ba là 9. Số 9 là số Chấn, ứng với ma phương 9/18, là
khuôn mặt Hùng Vương dòng nước, dòng cha. Rùa ba ba là rùa Hùng
Vương. Trên Bàn Bầu Cua Cá Cọc, con Cua tương đương với con rùa ba
ba vì cua và rùa đều có mai hình vòm biểu tượng cho vòm vũ trụ, vòm
trời, bọc khí gió. Con Cua là biểu tượng mang tính dân gian, bình
dân của Hùng Vương trong khi rùa ba ba mang tính biểu tượng bác học
của Hùng Vương (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc).
Như thế, hiển nhiên con số 18 là mã số di
truyền học của Hùng Vương. Hiểu như thế rồi ta hãy thử phân tích vài
con số 18 liên hệ với Hùng Vương trong truyền thuyết và cổ sử Việt.
Trước hết là Hùng Vương làm vua được 18 đời.
Con số này thật ra thay đổi. Trong số các ngọc phả Hùng Vương hiện
còn giữ lại ở Vĩnh Phú nơi có đền Hùng, có quyển ghi là 17 đời, có
quyển ghi 18 đời và nếu tính cả Kì Dương Vương và Lạc Long Quân, có
quyển ghi đến 29 đời... Nhưng phần lớn các nhà văn hóa Việt Nam chọn
con số 18. Vấn đề Hùng Vương làm vua được 18 đời này đã được các nhà
nghiên cứu cổ sử Việt tranh cãi rất nhiều. Đa số đồng thuận cho rằng
đây là 18 dòng vua, 18 triều đại, trong mỗi triều đại có nhiều vị
vua, không phải chỉ là 18 vị vua Hùng mà thôi (vì nếu lấy khoảng thời
gian 2622 năm chia cho 18 ông vua thì mỗi vị cai trị trên một trăm
năm). Trần Huy Bá nghiên cứu các ngọc phả Hùng Vương đếm được đến 43
vị vua Hùng. Có người cho rằng con số 18 này lấy từ 18 vị vua Hùng của
nước Sở (Nguyễn Phương). Riêng tôi, tôi nghĩ là con số 18 này dù là
truyền thuyết hay dù là lịch sử đều có nguồn gốc từ Dịch lý, từ mã số
di truyền của Hùng Vương. Thật vậy những con số 17, 29 đời ghi trong
các ngọc phả Hùng Vương khác nhau đều có thể giải thích bằng Dịch. Nếu
trong ngọc phả viết 17 đời thì con số 17 là con số Chấn tầng 3 (số 1
là Chấn tầng 1, số 9 là Chấn tầng 2 và 17 là Chấn tầng 3, tầng nước
thế gian). Ngọc phả này tính theo Hùng Vương thuộc dòng An Dương
Vương, Lạc Long Quân thế gian có bản thể Chấn nước. Ngọc phả ghi 29
đời thì số 29 là số Li tầng 4 (số 5 là Li tầng 1, 13 là Li tầng 2,
21 là Li tầng 3 và 29 là Li tầng 4). Ngọc phả này tính theo dòng Kì
Dương Vương (vì thế mới ghi là gồm cả Kì Dương Vương là vậy) thuộc
dòng mẹ Âu Cơ. Còn con số 18 đời hiển nhiên bao gồm cả hai ngành của
Hùng Vương như đã thấy qua các ma phương ở trên.
Còn khoảng thời gian trị vì của họ Hồng Bàng
thế gian kể từ Kì Dương Vương trở xuống thường cho là dài 2622 năm
(Đại Việt sử ký toàn thư), con số này cũng đã gây ra nhiều tranh luận
giữa các nhà nghiên cứu truyền thuyết và cổ sử Việt từ trước tới nay.
Kết quả cũng không đi tới đâu. Tôi lại dựa vào Dịch lý. Phân tích số
2622 có hai số đầu 26 là số Khảm tầng 4. Khảm hôn phối với Li ứng với
Kì Dương Vương. Hai số cuối 22 là số Tốn tầng 3. Tốn là bản thể của
Âu-Cơ thuộc dòng lửa Càn Li, nếu nhìn theo diện thế gian là dòng Kì
Dương Vương. Vậy con số 2622 năm trị vì của họ Hồng Bàng thế gian
này tính từ Kì Dương Vương đến Hùng Vương, tính theo dòng lửa đất thế
gian Kì Dương Vương, tính theo Hùng Kì, Hùng Âu. Giản dị chỉ là thế.
Lưu ý con số 2622 là số chẵn, số âm vì tính theo dòng mẹ. Trong một
ngọc phả Hùng Vương viết thời gian này dài 2535 năm (Trần Huy Bá).
Phân tích ta thấy số 25 là số Chấn tầng 4 ứng với Lạc Long Quân và
35 là số Đoài tầng 5. Con số trong ngọc phải này tính theo Lạc Long
Quân dòng An Dương Vương tức Hùng An hay Hùng Lạc. Ta cũng thấy con
số 2535 là số lẻ, số dương vì tính theo dòng cha.
Kế đến, trong truyện Sơn Tinh Thủy Tinh, nàng
my nương Ngọc Hoa con vị Hùng Vương thứ 18 lấy Sơn Tinh. Sơn Tinh là
Thần Núi Tản Viên như thế con số 18 này dựa vào ma phương dòng lửa
núi dương Kì Dương Vương tức dòng mẹ Âu-Cơ ứng với ma phương 6/18.
Đây là lý do Hùng Vương dòng núi Li mới gả con cho Sơn Tinh, Thần
Núi Dương có mạng Li cùng một dòng nọc, lửa và cũng giải thích tại
sao Sơn Tinh giúp Hùng Vương thứ 18, đời cuối cùng, đánh lại An
Dương Vương dòng nước Thủy Tinh.
Mặt khác tên Ngọc Hoa có nghĩa là “Đá Quí đẹp
như Hoa”. Đá tương đồng bản thể với núi dương, núi đá Sơn Tinh. Ngọc
là một thứ đá quí cùng dòng tộc với núi đá. Vì vậy mà Ngọc Hoa mới lấy
Thần Núi Sơn Tinh.
Trong truyện Bánh Chưng, vào đời Hùng Vương
thứ 6, Lang Liêu vị công tử thứ 18 làm ra bánh chưng. Hùng Vương thứ
6 mang dòng máu Tốn số 6 của Âu Cơ thuộc ngành Lửa, Hùng Kì, Hùng Âu.
Lang Liêu là công tử thứ 18 ứng với ma phương dòng ngoại 6/18. Dưới
diện hình thể, bánh chưng làm theo hình vuông đất âm ruộng đồng (mặt
vuông chữ điền). Trong chữ Nòng Nọc, hình vuông là dạng dương hóa, dạng
thái dương của nòng vòng tròn O. Hình vuông là O thái dương, O Lửa,
U Thái dương tức Âu Cơ Thái dương Thần Nữ của chúng ta (Khai Quật
Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Ta cũng thấy rõ O Lửa (II) là OII (Tốn),
là Âu Cơ có khuôn mặt Tốn số 6. Về hình học, hình vuông có bốn cạnh
do bốn que nọc ghép lại nên có nghĩa là bốn. Theo biến âm v=b, vuông
= buông = bốn. Hán ngữ tứ (bốn) viết với khung hình vuông. Theo Dịch,
số 4 là số Cấn, đất âm (non, đồng ruộng). Như trên đã biết Cấn là
dòng máu núi non về phía nội lửa Kì Dương Vương của Âu Cơ. Ta cũng
thấy theo duy âm, bánh chưng ruột thịt với U, Âu-Cơ qua hình ảnh chiếc
bánh chưng gói theo hình cái vú gọi là bánh ú của Miền Trung. Với v
câm, vú = ú, u (vú là chỗ phồng u lên, ú lên ở ngực phái nữ). Vú, u
cũng có nghĩa là mẹ. Ta cũng biết bánh chưng đi đôi với bánh dầy. Nếu
bánh chưng là biểu tượng của Âu-Cơ thì lúc này bánh dầy là biểu tượng
của Lạc Long Quân. Tại sao gọi là bánh dầy? Theo biến âm d=t (dựa =
tựa), dầy = tầy = thầy. Bánh dầy là bánh Thầy Lạc Long Quân trong
khi bánh chưng là bánh U, bánh Ú Âu-Cơ. Bánh dầy hình tròn thường mầu
trắng biểu tượng cho bầu trời, bầu vũ trụ tròn, cho mặt trời nòng âm
biểu tượng của Lạc Long Quân đi với bánh chưng vuông ruộng đồng đất
âm Âu-Cơ. Nhiều nơi ở miền Bắc còn làm bánh dầy nhuộm mầu hồng tím
biểu tượng cho mặt trời lặn Lạc Long Quân.
Công chúa Tiên Dung con vua Hùng vương thứ 3
lấy Chử Đồng Tử lúc 18 tuổi.
Hùng vương thứ 3 có mạng Đoài vũ trụ ứng với
ma phương 3/18. Vì thế mà Tiên Dung đến tuổi 18 gặp và lấy Chử Đồng
Tử. Công chúa Tiên Dung có Dung là Dong (bao dung = bao dong) có
nghĩa là bao, bọc (lá dong dùng bọc, gói bánh chưng) có dòng máu gió
âm Tốn (6). Hiển nhiên Chử Đồng Tử, Cậu Bé Ven Sông thuộc dòng nước
Chấn (9), Hùng Lạc, Hùng An (An Dương Vương). Bất chấp sự chống đối
của vua cha Tiên Dung vẫn lấy Chử Đồng Tử vì duyên tiền định đã khiến
hai người gặp nhau trong lúc trần truồng. Cái duyên tiền định này
chính là cái lẽ trời, cái lý hòa hợp âm dương của trời đất, vũ trụ,
càn khôn. Tiên Dung 6 hôn phối với Chử Đồng Tử 9 là hình bóng của Âu
Cơ 6 hôn phối với Chấn 9 tạo thành Trứng Vũ Trụ, Nang Thái Cực mang
hình ảnh bọc Trứng Hùng Vương như đã thấy qua hình ở trên. Tiên Dung
và Chử Đồng Tử là một thứ âm dương, càn khôn hòa hợp tạo thành Nhất
Thể.
Tiên Dung mạng khí gió vòm vũ trụ, vòm trời
có vật biểu là cái nón lá hình vòm và Chử Đồng Tử có Chử là bờ nước,
Chử biến âm với cừ là cái cọc cắm ở bờ nước. Chử Đồng Tử là Câu con
Trai sống bên bờ nước chính là nghĩa của chiếc cừ, chiếc cọc cắm ở bờ
nước là “cọc nước” nên có vật biểu là cây gậy tre tròn (gậy tròn
mang âm tính dòng âm, nước). Do đó Tiên Dung và Chử Đồng Tử mới được
một tu sĩ trao cho một cây gậy tre và một chiếc nón lá và bảo “linh
thiêng ở những vật này đây”. Tới một đêm kia, khi bị quân của vua
cha vây hãm, hai người lấy cái nón âm để lên cây gậy dương để xem
linh ứng ra sao. Âm dương giao hòa. Dông tố nổi lên, hai người vụt bỗng
bay lên trời (về với Đoài vũ trụ). Vùng đất ở đó sụt xuống thành một
cái đầm gọi là Chằm Nhất Dạ (Đầm Một Đêm). Ao đầm là Đoài thế gian.
Điểm này ăn khớp hoàn toàn với bản thể bầu, bọc, Trứng Vũ Trụ, Sinh
Tạo của hai người kết hợp lại thành nhất thể. Ở cõi trên là Bọc khí
gió Đoài vũ trụ và ở cõi thế gian là bọc, bầu nước ấm ao đầm.
Trước khi chấm dứt cũng xin nói tới một con số
mà các nhà văn hóa Việt Nam đã tốn rất nhiều giấy mực là con số 15
trong câu sử ghi rằng nước Văn Lang chia ra làm 15 bộ. Theo tôi, dù
là truyền thuyết hay lịch sử thì con số 15 này cũng ứng với ma
phương 5/15. Con số 5 là con số nằm giữa chín con số từ 1 đến 9 nên
ma phương 5/15 là ma phương trục của chín ma phương ứng với 9 con số.
Ma phương 5/15 là ma phương trục của vũ trụ, của Tam Thế ứng với Lạc
Thư. Vì thế ma phương này được nghe nói tới nhiều nhất. Số 5 cũng là
số Li có một khuôn mặt biểu tượng cho Núi Trụ Thế Gian, Núi Vũ Trụ,
Cõi Giữa Thế Gian, Trục Thế Giới ứng với Li Kì Dương Vương. Vì thế
15 bộ của nước Văn Lang tính theo họ Hồng Bàng thế gian kể từ Kì
Dương Vương trở xuống thì 15 bộ này là “chính quyền trung ương”,
“cái trục quyền hành” cai quản tất cả các đại tộc, bộ tộc của liên
bang Văn Lang, của họ Hồng Bàng thế gian.
Kết Luận
Hiển nhiên, rõ như “Con cua tám cẳng hai càng,
Một mai hai mắt rõ ràng con cua” là những con số 3 (11), 6 (14), 9
(17), 18... là mã số di truyền học chính yếu của Hùng Vương. Như thế
mỗi khi gặp những con số này (cũng như những con số liên hệ âm dương
của chúng) trong truyền thuyết và cổ sử Việt, ta cần phải tìm ý
nghĩa của mỗi con số theo mã số di truyền học hay DNA của Hùng Vương.
Nới rộng ra, như đã viết nhiều lần và trong tác phẩm Ca Dao Tục Ngữ
Tinh Hoa Dân Việt, tất cả các con số, những ngày tháng vía, giỗ, kỵ,
kỉ niệm trong văn hóa Việt Nam đều phải hiểu theo nghĩa của Dịch lý.
Một lần nữa, muốn hiểu thông suốt văn hóa Việt,
ta phải dựa vào Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo, vào Dịch để tìm hiểu.
Không nhìn dưới lăng kính Dịch học thì không bao giờ hiểu thấu triệt
được văn hóa Việt.
Để chấm dứt cũng xin bật mí là trống đồng Ngọc
Lũ I là trống Hùng Vương hay trống Văn Lang hay trống Hồng Bàng của
lịch sử. Trống Ngọc Lũ I có vành chính yếu là vành số 10 có 18 con
cò bay và 18 con chim nước đứng. Như đã thấy ở trên, con số 18 là mã
số di truyền của Hùng Vương, là con số căn cước của Hùng Vương. Mười
tám con cò bay là 18 con cò gió Đoài/Tốn, 18 cò Lang, cò Trắng hay bạch
hạc (ứng vối thủ đô tên là Bạch Hạc) hay cò Lả (ứng với điệu hát Cò
Lả của con dân Hùng Vương dòng gió Đoài/Tốn) ứng với ngành Hùng
Vương dòng lửa, dòng mẹ Tốn. Còn 18 chim nước đứng ứng với ngành
Hùng Vương Đoài/Cấn-Chấn dòng nước, dòng cha Chấn. Ta cũng thấy vành
số 10 với số 10 nằm ngay bên trái của số 11, Đoài thế gian, như thế
rõ như ban ngày vành số 10 có một khuôn mặt âm của Đoài 11 thế gian.
Nói một cách khác vành số 10 là vành liên hệ ruột thịt với Đoài thế
gian, vành liên hệ với Hùng Vương thế gian. 18 con cò bay và 18 con
chim nước đứng ở vành số 10 mang một khuôn mặt Đoài thế gian ao đầm
tức Hùng Vương thế gian. Các nhà văn hóa Việt Nam hiện nay gọi 18
con cò trên trống đồng Ngọc Lũ I là cò Lạc hay chim Lạc là sai. Đây
là 18 con cò Lang, cò Gió Hùng Vương mầu trắng, có bờm gió:
Con cò trắng toát như bông,
Gió bay lất phất chòm lông trên đầu.
(ca dao).
Ngoài ra trống Ngọc Lũ I là trống Đoài/Tốn thế
gian có mặt trời có 14 nọc tia sáng (số 14 là số Tốn thế gian) ứng với
Hùng Vương thế gian ngành Lửa Âu Cơ dòng Tốn (xem Giải Đọc Trống Đồng
Âm Dương Đông Nam Á).
--------------------------------------------------------------------------------------------------
Tài Liệu Tham Khảo.
.Nguyễn Xuân Quang:
-Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt (Y Học
Thường Thức, 1999).
-Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt (Y Học Thường
Thức, 2002).
-Tiếng Việt Huyền Diệu (Hừng Việt, 2004).
-Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc (Hừng Việt, 2004).
-Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á (đang
in).
.Lê Ngô Các, Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử
diễn ca.
.Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Lĩnh Nam chích quái (NXB
Văn Hóa, 1960).
.Nguyễn Phương, Lịch Sử Lạc Việt, Đại Học, số
30, 1962.
- BS Nguyễn Xuân Quang
26 tháng 04 năm 2007
|
|