| |
Giải thích thành ngữ - tục ngữ: (Theo “Kể chuyện thành ngữ tục ngữ”)
Chết đứng như Từ Hải
H́nh
tượng Từ Hải trong truyện Kiều của Nguyễn Du đă để lại cho nhân dân ta những
ấn tượng sâu sắc. Đây là một bậc trượng phu khác người. Cái diện mạo “râu
hùm, hàm én, mày ngài, vai năm tấc rộng thân mười thước cao” đă thể hiện
một con người có sức mạnh vô song. Hơn thế nữa Từ là kẻ ngang tàng, “dọc
ngang nào biết trên đầu có ai”. Không chịu luồn cúi triều đ́nh phong kiến,
Từ đă dấy binh khởi nghĩa. Với tài thao lược “gươm đàn nửa gánh non sông
một chèo” chàng đă lập nên một vương quốc, một triều đ́nh riêng. Trong con
mắt của triều đ́nh phong kiến chính thống, Từ là kẻ phiến loạn, là giặc mang
tội bất trung. Tội ấy đáng chém đầu. Nhưng với một vương triều mạnh, với một
con nguời tài giỏi như Từ, đánh đổ đâu dễ dàng. Chúng nghĩ ngay kế mua chuộc
và dụ hàng. Nhà vua cử tên tổng đốc trọng thần “mặt sắt đen ś” Hồ Tôn Hiến
làm nhiệm vụ này. Hồ Tôn Hiến nghĩ ngay ra diệu kế. Bấy giờ, nàng Kiều sau bao
năm lưu lạc đă thành vợ của Từ Hải. Hồ Tôn Hiến dùng vàng bạc mua chuộc Kiều
mong nàng t́m cách thuyết phục Từ Hải quy hàng triều đ́nh. Cả tin lại chán
ghét cảnh bèo dạt mây trôi, Kiều đành nhận lời. Bởi nghe lời Kiều, Từ Hải đă
quy hàng. Những tưởng triều đ́nh sẽ ban thưởng chức tước như đă hứa, nhưng
tráo trở thay nhân cơ hội này, Hồ Tôn Hiến đă giết Từ Hải. Người anh hùng đă
chết, chết trong sự oan ức. Từ chết đứng “trơ như đá, vững như đồng, ai lay
chẳng chuyển, ai rung chẳng dời”.
Từ h́nh ảnh chết đứng của Từ Hải
như vậy, trong tiếng Việt xuất hiện thành ngữ “chết đứng như Từ Hải”.
Thành ngữ này c̣n một biến thể khác là “như Từ Hải chết đứng”. Về ư
nghĩa, thành ngữ “chết đứng như Từ Hải” biểu thị trạng thái đứng đờ ra
của con người khi bị tác động đột ngột, không ứng xử kịp, nhất là trước những
niềm vui nỗi buồn, sự đau khổ bất ngờ.
NÓI TOẠC MÓNG HEO
Nói toạc móng heo là nói thẳng, nói thật không úp mở quanh co.
Ư nghĩa chung của thành ngữ này là như vậy, song cơ chế nảy sinh ư nghĩa đó lại không đơn giản. Như đều biết, móng heo (móng lợn) là một loại sừng cứng bao bọc kín hết ngón chân lợn. Cái vỏ bọc bên ngoài vừa vững, vừa kín như vậy, hẳn là khó ḷng biết rơ cái được bảo vệ ở bên trong. Vậy th́, muốn biết ngón chân heo chỉ có cách làm toạc móng. Quả nhiên,
làm toạc móng heo, một mặt là làm mất cái che đậy bên ngoài, mặt khác làm bộc lộ rơ hoàn toàn phần bên trong của chân heo. Có lẽ v́ thế, đă toạc móng heo với sự liên hệ ư nghĩa “làm mất cái vỏ bề ngoài, làm rơ cái bên trong”. Sự liên hệ này đă đưa vào trong nội dung ư nghĩa của thành ngữ hai nét nghĩa: nói không che đậy, nói trắng ra.
Thành ngữ nói toạc móng heo c̣n có biến thể là nói toạc móng lợn, song biến thể này ít được sử dụng.
THÀNH NGỮ-TỤC NGỮ |
Con cà con kê |
(Người Viễn Xứ) |
Trong giao tiếp hằng ngày, chúng ta thường gặp một số người có thói quen nói dài, nói dai, nói hết chuyện này đến đến chuyện khác. Thói quen đó đă được dân gian đúc kết lại bằng một thành ngữ rất cô đọng: “Con cà con kê”.
V́ từ “con” mà từ trước đến nay vẫn có hai cách hiểu khác nhau về thành ngữ đó.
|
Gà -tranh Đông Hồ |
Nhiều người cho rằng “con cà con kê” là một thành ngữ có sự kết hợp của hai từ cùng có ư nghĩa trong tiếng Việt và tiếng Hán, đó là “cà” (trong tiếng Việt cổ “cà” nghĩa là “gà’) và “kê’ (tiếng Hán có nghĩa là “gà”). Nghĩa đen của thành ngữ này hiểu một cách nôm na là: dài ḍng, luẩn quẩn và trùng lặp, “hết con gà lại quay lại con gà”.
Lại có người giải thích theo một cách khác rằng “cà” và “kê’ trong thành ngữ nêu trên không phải là “gà” mà là “cây cà” và “cây kê”. Cà gieo thành đám. Trăm ngh́n cây con mọc lên. Kê gieo thành đám như mạ. Cây cà, cây kê đến tuổi trồng, người ta nhổ lên, bó thành từng bó nhỏ rồi đưa đi trồng. Công việc trồng cà, trồng kê đ̣i hỏi tỷ mẩn. Vào những ngày mưa, việc tỉa cà , kê ra
từng cây một rất rề rà. Từ đó, nghĩa đen của thành ngữ này là: dài ḍng hết cây cà lại sang cây kê, không dứt.
Hai cách giải thích đều có lư lẽ riêng khá thuyết phục. Nhưng cách giải thích thứ hai phù hợp với cách dùng phổ biến hiện nay của mọi người. |
THÀNH NGỮ-TỤC NGỮ |
Sư tử Hà Đông |
(Người Viễn Xứ) |
Thoạt nghe, không ít người nghĩ rằng, trong nội dung câu thành ngữ “Sư tử hà Đông” có điều ǵ đó liên can đến đất Hà Đông xưa của Việt Nam. Chuyện thực lại không phải như vậy. Chẳng ra là chuyện “râu ông nọ cắm cằm bà kia”
Số là, ở đất Vĩnh Gia bên Trung Quốc đời nhà Tống có một người đàn ông tính nết thất thường, họ Trần tên Tháo, tự là Quư Thường. Lúc c̣n nhỏ, Tháo rất thích chơi tṛ đấu kiếm và nghe kể chuyện về các anh hùng hảo hán một cách say mê, khâm phục.
Lớn lên Tháo thích lân la đến bên các chí sĩ giang hồ để học hỏi các môn vơ nghệ và cùng họ ngao du nay đây mai đó. Tháo cũng tự liệt ḿnh vào cùng một hạng với những bậc chí sĩ kia và lúc nào cũng tỏ ra sẵn ḷng làm việc nghĩa, giúp bạn, cứu người.
Lạ thay vừa bước sang tuổi trung niên Trần Tháo bỗng thay tính đổi nết. Tháo chán ghét cuộc sống giang hồ và lạc vào văn chương, chữ nghĩa và lui về sống ẩn dật. Trần Tháo thường cùng Tô Thức luận bàn về bút pháp và sự thành bại của cổ kim, rất thích đạo Phật, đă từng ăn rau, ở chùa, không màng ǵ đến thế sự. Vợ Tháo là Liễu Thị, tính hung hăn, hay ghen. Mỗi lần Tháo mở tiệc mời
khách, nếu có ca kỹ đến hát xướng mua vui th́ Liễu Thị ở nhà trong, máu ghen nổi lên, lấy gậy đánh sàn sạt vào tường, gầm thét om ṣm, khách không chịu nổi phải bỏ ra về. Tô Thức nhân đấy có thơ đùa Trần Tháo rằng:
|
Đánh ghen -tranh Đông Hồ |
Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền
Đàm không thuyết hữu dạ bất miên
Hốt văn Hà Đông sư tử hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
Dịch nghĩa:
Ai hiền như cư sĩ đất Long Khâu
Bàn về thuyết không thuyết có của nhà Phật đêm không ngủ
Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống lên
Gậy chống rơi khỏi tay, ḷng bàng hoàng quên phắt đi hết
Câu thơ trên dựa theo câu thơ của Đỗ Phủ (nhà Đường)
Hà Đông nữ nhi thâm tính Liễu
(người con gái đất Hà Đông tên Liễu)
Tô Thức mượn chữ hà Đông để chỉ Liễu Thị, vợ Tháo. C̣n sư tử hống là tiếng Phật dùng để nói về sự uy nghiêm của Phật tổ, nói giọng thuyết pháp của Phật âm thanh chấn động thế giới như sư tử gầm. nay Trần tháo thích đàm luận đạo Phật, Tô Thức bèn mượn tiếng nhà Phật để đùa, chỉ cái tính hung hăn hay ghen của Liễu Thị.
Từ tích trên, trong tiếng Việt, thành ngữ “sư tử Hà Đông” nhằm ám chỉ những người phụ nữ có tính ghen tuông dữ tợn, khi nổi máu tam bành có thể làm cho các đức ông chồng kinh hồn, táng đởm khiến bao dũng khí của giới mày râu tiêu tan thành mây khói cả. |
Chạy như cờ lông công |
(Người Viễn Xứ) |
|
Lính thú ngày xưa |
Cờ là biểu tượng cho một quốc gia, một dân tộc, một tổ chức, một ngành nghề, thậm chí c̣n là tín hiệu cho một mệnh lệnh. Cờ thường được làm bằng vải nhưng cũng có khi bằng lông chim, lông thú, đôi khi c̣n được làm bằng cành cây giống như cờ bằng bông lau của Đinh Bộ Lĩnh ngày trước.
Cờ lông công trong thành ngữ “chạy như cờ lông công” là cờ làm bằng lông con công. Đây là loại cờ hiệu của những người lính trạm xưa kia, thường dùng khi chạy công văn hỏa tốc.
Ngày nay, ngoài việc truyền đạt các mệnh lệnh, công văn bằng các phương tiện thông tin vô tuyến, hữu tuyến, người đưa tin c̣n được sử dụng các phương tiện giao thông khác như máy bay, ô tô, xe lửa…
Nhưng ngày xưa, công việc này chỉ được thực hiện nhờ sức người và sức ngựa. V́ vậy, nhà nước phong kiến mới đặt ra các trạm và tuyển mộ các loại lính trạm, phu trạm. Từ trạm nọ đến trạm kia là một cung đường. Thông thường, người lính trạm khi chạy công văn hỏa tốc phải vượt hai đến ba cung đường trong một ngày. Người đời nh́n thấy cờ hiệu lông công của những người lính trạm ở
khắp các nẻo đường của Tổ quốc. Bao giờ họ cũng vội vàng, tất tả, người chạy đi, kẻ chạy lại, cả người cả ngựa đều đẫm mô hôi. Công văn vừa chuyển đi lại có công văn khác đến. Sự đan chéo, liên tục của các công văn, mệnh lệnh tạo nên sự đan chéo, dồn dập của những lá cờ hiệu lông công. V́ vậy, “chạy như cờ lông công” trước hết được hiểu là “chạy rối rít, chạy loạn xạ”
|
Lính ngày xưa |
Nhưng có lẽ cũng từ một thực tế là những người mang cờ hiệu lông công mặc dù chạy ngược xuôi rối rít nhưng chẳng phải là để vận chuyển hàng hóa nặng nhọc ǵ. Với con mắt người đời, đấy là một việc làm không cần thiết. C̣n tính khẩn cấp của công văn lại cũng chẳng liên quan ǵ đến họ.
Có lẽ v́ lẽ đó mà thành ngữ ”chạy như cờ lông công” c̣n có một sắc thái nghĩa nữa là “chạy rông, chạy rối rít, chạy không đạt kết quả ǵ”. |
Cáo mượn oai hùm |
(Người Viễn Xứ) |
Cáo th́ chỉ “bắt nạt” được gà, c̣n hùm (hổ, cọp) là chúa tể của muôn loài!. Hùm giỏi giang ở đâu th́ chưa biết nhưng cái khoản tục ăn th́ không ai bằng (ăn như hùm) và gian ác th́ cũng đáng được xếp hạng “miệng hùm nọc rắn”. Vô phúc con vật nào, kể cả con người, để nó vồ được th́ chỉ có nước mà về …chầu tiên tổ. Vậy nên trong tiếng Việt đă
sinh ra câu “cáo mượn oai hùm” để chỉ hạng người luôn mượn thế kẻ mạnh, nấp dưới ô quyền lực đi hù dọa, ḷe bịp người khác hoặc lấy đó làm lá chắn để thỏa sức lộng hành.
|
Cáo |
Thành ngữ này vốn bắt nguồn từ một câu chuyện kể về sự gian ngoan, ma lanh của cáo đă khéo uốn ba tấc lưỡi để lừa “thầy hùm”, con hùm th́ đúng là “to đầu mà dại” (!)
…Có một c̣n hùm đói mồi, đang lang thang trong rừng kiếm ăn th́ gặp ngay con cáo. Hùm sướng rơn và chắc mẩm phen này được bữa chén no say. Nhưng con cáo gian ngoan đă nói ngay với hùm rằng: “Này, cái ông hùm, ông hổ kia ơi! Ông đừng có mà ăn thịt tôi. Thượng đế đă giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Ông mà ăn tôi là làm trái ư của thượng đế! Không tin, ông cứ đi đằng trước, tôi đi
đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Và Hùm đă làm theo. Quả nhiên, chúng đi đến đâu, mọi thú đều chạy tán loạn. “Sự thật”, đó đă làm cho hùm tin lời cáo và đương nhiên cáo đă thoát chết! Hùm đâu biết rằng những con vật kia sợ ḿnh, sợ từ cái bóng của ḿnh, chứ đâu có sợ cáo!...
|
Hùm |
Trong dân gian bên cạnh thành ngữ “cáo mượn oai hùm” c̣n có cách nói “cáo đội lốt hổ uy” với nghĩa tương tự nhưng ít dùng.
Trong tiếng Việt, sự “tinh khôn, ranh mănh, quỷ quyệt” đă trở thành một trong những nghĩa phổ biến của từ “cáo”. Ví dụ : “Thằng cha ấy cáo lắm”
Đúng là “Những phường cáo mượn oai hùm ghê thay” |
Bắt cá hai tay |
(Người Viễn Xứ) |
|
cá |
Hễ một người nào đó v́ ḷng tham muốn có được nhiều thứ trong cùng một lúc, hoặc để ăn chắc, không được thứ này th́ được thứ khác, hoặc vừa làm điều này ở đây rồi lại làm điều đó ở nơi khác nữa (theo lẽ thường anh ta chỉ được làm ở một nơi), th́ sẽ bị mọi người gọi một cách mỉa mai là kẻ “bắt cá hai tay”.
“Bắt cá hai tay” được hiểu ở đây với nghĩa đen là mỗi tay bắt một con cá và kết quả là tuột mất, chẳng bắt được con nào (v́ mỗi tay bắt một th́ không chắc chắn). Chẳng thế mà ca dao Việt Nam đă từng khuyên nhủ mọi người:
“Xin đừng bắt cá hai tay
Cá lội dưới nước, chim bay lên trời”
Từ nghĩa đen cụ thể đó, nhân dân ta đă dùng thành ngữ này với nghĩa rộng hơn để chỉ những người có tư tưởng “nước đôi”, hoặc tham lam, ôn đồm, muốn có nhiều thứ, muốn làm nhiều việc cùng một lúc, không được việc này th́ được việc khác, kết quả hoặc là không được ǵ, “xôi hỏng bỏng không” hoặc được chắc một thứ nhưng thường bị chê trách là tham lam, khôn ranh
|
Bán cá mũi thuyền |
(Người Viễn Xứ) |
Mỗi lần thuyền đánh cá về bến, dân buôn cá đổ xô xuống để mua cá tươi. Cá cứ đong bằng rổ, xếp đầu mũi thuyền. Dân mua cá đứng trên bờ, mặc cả với chủ thuyền.
|
Thuyền về bến |
Thỏa thuận được giá th́ chuyển cá từ mũi thuyền lên bờ. Bên nhận cá, bên lấy tiền. Người đánh cá quay thuyền rời bến. Người mua cá gánh cá lên chợ. Mua cá ở thuyền rẻ hơn nhiều so với ở chợ.
Cùng một phần cá được chia. Người khéo bán hoặc cả gan giữ cá, chờ lên bờ mới bán, có khi tiền thu được bằng cả hai phần được chia. Người non gan bán ngay trên thuyền, thu được ít hơn. “Bán cá mũi thuyền” là thành ngữ chỉ hành vi bán cái ǵ đó nóng vội, thiếu cân nhắc, rẻ và đă trao tay là xong, dứt khoát không trả lại.
Gần nghĩa với “bán cá mũi thuyền” là thành ngữ “đá qua be thuyền’, tức là bán cà hoặc trao đổi hàng hóa qua be thuyền để chỉ sự trao đổi vội vàng, chênh lệch giá trị hoặc t́nh trạng phủi tay cho xong việc. |
|