|
Giải Thích Tục Ngữ, Thành Ngữ ABC
Trong đám cưới, đám ma, v́ bận
trăm công ngh́n việc nên gia chủ khó tránh khỏi những điều sơ xuất mọi
người cũng dễ thông cảm và lượng thứ.
Việc hiếu lễ được mọi người thông
cảm, bỏ qua thiếu sót; việc hiếu hỉ khó có thể thoả măn, chiều ư tất cả
mọi người.
Bán gà ngày gió, bán chó ngày mưa
Ư muốn nói làm việc ngược đời;
cũng có nghĩa thêm là không gặp thời hoặc không chọn đúng thời cơ để
tiến hành công việc.
- Chỗ ở có yên th́ việc làm
mới ổn định.
Có người hiểu rằng: An Cư và
Lạc Nghiệp chỉ là hai vế trong một câu, giống như câu “Mẹ tṛn, con
vuông” hay “Vợ đẹp, con khôn”. Cách sắp xếp thành ngữ của cha ông ta
thường vẫn đối nhau như vậy. Nếu hiểu như thế, th́ “An cư lạc nghiệp”
chỉ mang ư nghĩa diễn tả cuộc sống thanh b́nh, người người vui với công
việc của ḿnh, như ư câu thơ:
“ Thời thịnh trị an cư lạc nghiệp
Khắp muôn nhà đều hát khúc hoan ca.”
Cách hiểu thứ hai hơi khác một chút, cho rằng: Có ‘an cư’ th́ mới
‘lạc nghiệp’. Nghĩa là, có ổn định chỗ ăn chỗ ở th́ mới an ḷng mà lo
công việc sinh kế hoặc phát triển thương mại.
Chúng ta thường nghe câu “an cư lạc nghiệp”, ư nói
trước khi bắt tay vào một công việc làm ăn th́ nên ổn định nơi ăn chốn
ở. Đây là một lời nhắc nhở hay một kế hoạch để an tâm v́ một khi đời
sống gia đ́nh ổn định th́ tất cả thời gian và tâm huyết sẽ được dành cho
công việc làm ăn. Từ “An cư” lâu nay vẫn thường chỉ nơi cư chú của thế
xác là những ngôi nhà, mỗi người đều cần một ngôi nhà mới yên tâm. Khi
đó ta mới ổn định và thoát khỏi cảnh nay đây mai đó. Điều này thấy rất
rơ trong thời bao cấp, vào thời đó hộ khẩu cư trú là một mối lo quá lớn
đối với mỗi người dân, nó là điều đầu tiên quan trọng và cần thiết để có
cuộc sống ổn định. Khi đă “An cư” rồi th́ cần “Lạc nghiệp”.
“Lạc nghiệp” muốn nói: có nghiệp th́ mới lạc, mới sung
sướng. Nhiều khi ta đi làm chỉ với mục tiêu duy nhất là kiếm tiền, chứ
chưa phải xây dựng sự nghiệp cho ḿnh. Không chỉ có vậy, nhiều người v́
đồng tiền trước mắt, mà liên tục thay đổi công việc với những mức lương
cao hơn và quên lo xây dựng sự nghiệp, quên những thú vui khi được làm
việc. Họ không quan tâm tới năng khiếu bản thân, quên đi mất con người
thật của ḿnh và đánh mất bản thân lúc nào không biết, họ chỉ cần công
việc đó cho họ thu nhập cao. Nhưng đó có phải thực sự là điều mà tất cả
chúng ta đều mong muốn hay không. Ta có tiền để làm ǵ, có xe để làm ǵ,
có nhà để làm ǵ….?
Tất cả những điều đó đều nhằm một mục đích cuối cùng
là để an tâm và vui sướng. Nhưng ta không biết rằng cái vui sướng nhất
là cái vui khi được làm việc đúng năng khiếu, đúng đam mê, đúng sứ mệnh
của ḿnh. Chỉ có điều đó mới giúp ta có cảm giác sung sướng lâu dài và
bền vững. Tiền bạc mới chỉ là tạo tiền đề để sung sướng và thường đó chỉ
là cảm xúc tức thời (nhậu, mua đồ vật….). Cái sướng tức thời không sung
măn, không kéo dài, nhiều khi c̣n để lại hậu quả xấu. Ông cha ta đă từng
nói “Phong độ là nhất thời, đẳng cấp là măi măi”. Ta không thể sống với
những sung sướng hạnh phúc tức thời như vậy mà cái ta luôn hướng đến là
cảm giác sung sướng và hạnh phúc liên tục, lâu dài. Chính v́ vậy, “An cư”
ngoài ư nghĩa có một nơi cư trú cho thể xác c̣n cần một nơi cư trú cho
tâm hồn ḿnh. Nhiều khi cái xác đă có nơi cư trú nhưng cái tâm vẫn chưa
được an v́ chưa t́m ra cái mệnh của ḿnh để mà trú ngụ, để mà phấn đấu
suốt đời. An cư cần được hiểu theo nghĩa tâm linh, đó là t́m được nơi cư
trú cho linh hồn. Và nơi cư trú cho tâm hồn của chúng ta chính là “sứ
mệnh” và “giá trị cốt lơi” của ta. Khi chúng ta t́m ra sứ mệnh của ḿnh,
t́m ra được ư nghĩa đích thực của bản thân, ta biết ḿnh làm ǵ để gia
tăng giá trị cho cuộc sống, mang lại ư nghĩa cho cuộc sống, cho xă hội,
lúc ấy chúng ta mới thực sự t́m được nơi cư trú cho tâm hồn ḿnh, điều
đó giúp cho ta b́nh an. “An cư” cao nhất là an mệnh, t́m được sứ mệnh
cho ḿnh. Khi đó chúng ta sẽ an tâm làm việc, lúc ấy sự an vui mới là
đích thực nhất ta mới có thể ổn định suốt đời và măi măi an vui.
“An cư – Lạc nghiệp” cũng như việc chúng ta khám phá
ra sứ mệnh, tài năng của ḿnh và khẳng định sự nghiệp của ḿnh, khi đó
ta sẽ đạt được hạnh phúc và thành công đích thực. Khi chúng ta “an cư
lạc nghiệp” là ta có ngôi nhà vững chắc, an lành cho chính con người
ḿnh, chắc chắn ta sẽ lạc nghiệp làm ăn phát tài, thăng quan tiến chức,
hạnh phúc và thành công.
Tiếng Anh: To
live and work in peace and contentment.
-
Ăn Bắc Mặc Nam
-
Ăn Bắc Mặc Kinh
Nói “ăn Bắc” là nói người miền Bắc kén món ăn và cách ăn, c̣n người miền
Nam th́ việc ăn uống dễ lắm. Nói “mặc Nam” là nói người miền Nam ưa ăn
mặc sơ sài, sao cũng được, không coi trọng h́nh thức bề ngoài lắm như
người ngoài Bắc. Cứ nh́n cái áo tứ thân với cái áo bà ba th́ biết. Tất
nhiên đây là nói về cái thời xa xưa, c̣n bây giờ th́… mọi sự đă đổi thay
hết ráo.
Thật ra câu nầy nguyên thủy là
Ăn Bắc Mặc Kinh
Ngày xưa người ở Huế (Kinh đô của VN) ăn mặc rất kỹ lưỡng, ngay cả những
người buôn thúng bán mẹt cũng phải mặc áo dài! Ngày nay th́ không c̣n
nữa.
Bán Gà Ngày Nắng, Bán Chó
Ngày Mưa
Bán gà, bán chó vào những ngày đó
không được giá v́ mưa rét nên lông của chúng xù lên trông xấu mă.
Ư nói người sống ngay thẳng, trung
thực th́ không sợ điều ǵ.
Cây bị chết đứng là cây bị thối ruột từ bên trong
Người ngay không làm ǵ xấu xa sai trái ở trong ḷng nên không sợ bị ”
chết ” đứng là v́ thế.
Tiếng Anh: A clean hand wants no
washing
-
Cha nào con nấy
-
Nói về sự giống nhau của các thế hệ thành viên trong
gia đ́nh.
Tiếng Anh: Like
father, like son
Chỉ sự ăn uống nhậu nhẹt nói
chung, nay người này mời, mai người kia tiếp đăi lại cho tương xứng.
Rộng hơn, nói lên lối sống cánh hẩu, thích bè cánh, có đi có lại
giữa những con người tham lam, vụ lợi.
- Trong cuộc rượu đăi khách,
trước tiên chủ nhà thường rót chén mời khách uống. Chén rượu từ tay
người chủ rót để mời khách ấy gọi là chén thù. Uống xong, khách lại
tự tay rót chén rượu nâng lên mời chủ để đáp lại tấm ḷng thân t́nh,
nồng thắm của người chủ dành cho ḿnh. Chén rượu do khách rót nâng
lên mời chủ ấy là chén tạc. Dân gian đă chớp lấy một chi tiết nhỏ
trong cuộc tạc thù giao tiếp nhau để biểu trưng cho toàn cuộc vui
với không khí thân mật, cởi mở giữa chủ và khách, giữa những người
dự tiệc với nhau.
“Vợ chồng chén tạc chén thù
- Bắt nàng đứng chực tŕ hồ hai nơi”
- (“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Ư nghĩa của thành ngữ chén tạc chén thù thường chỉ
hạn hẹp ở sự hàm chỉ việc tiếp rượu trong cuộc ăn uống vui vẻ, thân
mật. Tuy nhiên, đôi lúc người Việt cũng mở rộng giới hạn này ra.
Theo đó, chén tạc chén thù được dùng để chỉ sự ăn uống nhậu nhẹt nói
chung, nay người này mời, mai người kia tiếp đăi lại cho tương xứng.
Và, rộng hơn thế nữa, thành ngữ chén tạc chén thù c̣n nói lên lối
sống cánh hẩu, thích bè cánh, có đi có lại giữa những con người tham
lam, vụ lợi.
Điều đáng chú ư là thành ngữ chén tạc chén thù vốn là
kết quả của sự tương hợp hai danh ngữ (chén tạc + chén thù) nhưng
trong hoạt động ngôn ngữ th́ thành ngữ này lại thường hành chức với
tư cách là vị ngữ.
Thành ngữ chén tạc chén thù có một số biến thể khác
là chén thù chén tạc. Ư nghĩa và cách sử dụng hai dạng thức này hoàn
toàn đồng nhất.
Trong tiếng Việt, gần nghĩa với thành ngữ chén tạc
chén thù là các thành ngữ chén chú chén anh, chén bác chén chú.
Chỉ lũ cam tâm làm tay sai cho
kẻ thù.
Cách diễn tả thành ngữ như trên là thoả đáng. Tuy nhiên, xét về mặt
chữ nghĩa đôi điều c̣n khiến chúng ta phải băn khoăn. Trong dạng
thức chó mái chim mồi th́ “chim mồi” đă rơ nghĩa và dễ hiểu. Đó là
loại chim người ta nuôi làm “mồi” để dử bắt đồng loại. Nhưng chó mái
là ǵ, quả thật là khó hiểu. Xem ra, trong tiếng Việt chỉ có từ mái
dùng để chỉ giống cái, nhưng tiếc thay từ này không được dùng để chỉ
cái giống đối với loài chó, mà chỉ dùng cho gà, vịt, ngan, ngỗng tức
là cho loài chim nói chung mà thôi. Có lẽ do thấy dạng thức chó mái
chim mồi có lí do không ổn như đă thấy mà nhiều người chuyển sang sử
dụng dạng thức chó má chim mồi.
Dạng thức chó má chim mồi chẳng những không khắc phục được cái sai
lệch của dạng chó mái chim mồi mà c̣n sa vào một bất hợp lí khác.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy, trong khi chim mồi là một tổ hợp từ
chuyên biệt về nghĩa th́ chó má lại là một từ có nghĩa tổng hợp, chỉ
loài chó nói chung. Đây là lí do cơ bản làm cho chó má không tương
hợp được với chim mồi. Và do đó dạng thức chó má chim mồi không
chỉnh trong sự đối ứng theo từng cặp giữa các thành tố tạo nên thành
ngữ.
Bên cạnh các dạng thức vừa nêu trong tiếng Việt c̣n có dạng chó máy
chim mồi cũng được dùng nghĩa tương tự.
Thoạt tiên, nghe đến chó máy cũng hơi lạ và khó hiểu. Nhưng thực ra,
máy trong chó máy lại là một động từ thường dùng để chỉ hành động ra
hiệu cho kẻ khác biết điều ǵ đó như trong máy nhau đi về, máy cho
người khác biết để tránh xa. Do đó, chó máy là loại chó chuyên đi
đánh hơi, ra hiệu cho chủ biết điều cần phát hiện, t́m kiếm. Với
nghĩa này, chó máy là cách nói khác của chó săn mà thôi, và hoàn
toàn tương hợp với chim mồi về từ loại cũng như ư nghĩa. Như vậy,
phải chăng chó máy chim mồi là dạng đúng, dạng chính xác. Tuy nhiên,
do chỗ từ máy khó hiểu, hay gây nhầm lẫn mà người Việt có xu hướng
ít dùng và thay v́ vào đó, người ta hay dùng dạng chó săn chim mồi
để chỉ lũ cam tâm làm tay sai cho kẻ thù.
Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào
Điều
đáng chú ư ở thành ngữ này là từ mỉu.
Mỉu là biến thể ngữ âm
của từ miu.Trong
đời sống hàng ngày cũng như trong sách vở, chúng ta chỉ gặp từ miu (hoặc
miêu). Vậy trong thành ngữ trên, tại sao không phải là miu như
chúng ta vẫn thường biết mà lại là mỉu?
Một trong những đặc điểm của thành ngữ là tính chất đối của các ư, các
vế... Chẳng hạn như thành ngữ "lươn
ngắn chê chạch dài", ư
nghĩa “lươn
ngắn” đối với ư nghĩa “chạch
dài”; và đặc biệt là sự đối ứng chi tiết giữa các thanh: lươn (thanh
bằng) đối
với chạch (thanh trắc), ngắn (thanh
trắc) đối với dài (thanh
bằng).
Trở lại thành ngữ trên, hai vế mèo
nào và mỉu
nào đối với nhau (qua từ
cắn). Thực chất ở cả hai vế đều là mèo cả.
V́ vậy không có sự đối ứng về loài (như
giữa lươn và chạch). Nhưng ở hai vế này có sự đối ứng của thanh: mèo (thanh
bằng) đối với mỉu(thanh
trắc). Chính vỏ ngữ âm của từ mỉu đă
gợi cho vế
thứ hai mang nét nghĩa nào đó khác với vế thứ nhất, mà nếu là từ miu th́
không thể có được. Và như vậy,mèo và mỉu tuy
là một song người ta vẫn cảm thấy ở chúng có cái ǵ đó khác nhau. Mặt
khác, sự biến âm “miu” thành “mỉu” tạo cho thành ngữ bao hàm sắc thái
hài hước nhẹ nhàng.
Ví hành động phụ bạc, thiếu
t́nh nghĩa, có cái mới th́
quay ra rẻ rúng, vứt bỏ cái cũ..
Là câu để chỉ những người không bền chặt, có cái mới, hay người mới
th́ quên cái cũ, người cũ.
Hoặc ám chỉ những người chỉ
thích kết giao với những người mới chỉ v́ họ có những thứ mà ta ko
có đc,những người đó thường wên đi những người bạn thân của ḿnh.
Tiếng Anh: New one in,
old one out.
Trong nhà có cả con trai con
gái th́ mới tốt, mới đầy đủ.
1. Ư nghĩa thành ngữ
Người dân quê Việt nam hay dùng những h́nh ảnh rất quen thuộc trong
đời sống và đôi khi rất tầm thường để nói lên cái ǵ xa xôi, trừu
tượng, có khi rất thâm thúy. Những kinh nghiệm và suy tư này đă được
đan dệt trong những câu ca dao tục ngữ, trong đó có câu “Có nếp có
tẻ”.
Ư nghĩa của thành ngữ này là trong nhà có cả con trai con gái th́
mới tốt, mới đầy đủ. Mặc dầu người ta có khuynh hướng “trọng nam
khinh nữ”, thậm chí người ta c̣n chủ trương “Nhất nam việt hữu, thập
nữ viết vô”, nghĩa là trong chỉ một con trai thôi cũng là có con,
c̣n 10 đứa con gái cũng kể là không có con, bởi v́ người ta có quan
niệm là :
- Con gái là con người ta
- Con dâu mới thực mẹ cha mua về.
Tuy thế, ngày nay trong gia đ́nh ai cũng muốn “có nếp có tẻ” nghĩa
là phải có con trai con gái th́ mới tốt, mới hài ḥa.
2. Giải thích câu thành
ngữ
Ở thành phố người ta ít để ư đến vấn đề “nếp hay tẻ”, nhưng ở thôn
quê th́ nếp và tẻ có giá trị khác nhau, phải biết lựa chọn.
Trong đời sống thực tế “nếp” được coi trọng hơn “tẻ”. Cơm tẻ là món
ăn thường ngày, c̣n nếp th́ đôi khi, vào những dịp nào mới có. Về
mặt giá trị, nếp quí hơn tẻ. Đem so sánh nếp với tẻ th́ chắc chắn có
sự đánh giá trọng khinh, hơn kém.
Gạo nếp thường để nấu xôi, làm các thứ bánh như bánh chưng, bánh tét,
bánh rán, bánh dầy, bánh trôi nước, bánh ít các loại. Gạo nếp cũng
được dùng để nấu rượu : rượu nếp mạnh và ngon hơn rượu tẻ, gía cả
lúc này là 35.000 đồng/lít.
C̣n gạo tẻ th́ dùng nấu cơm thường ngày, làm bánh như bánh bèo, bánh
cuốn, bánh gị, bánh đúc… Gạo tẻ cũng được dùng nấu rượu, kém rượu
nếp nhưng ngon hơn rượu bắp, giá mỗi lít là 18.000 đồng.
Tuy có sự phân biệt về giá trị, nhưng trên quan điểm thực tiễn của
nhân dân, sự đánh giá lại không chỉ có một chiều đơn giản như vậy.
Gạo tẻ là gạo ăn thường ngày, là nhu cầu thường xuyên không thể
thiếu. Gọi là tẻ đấy, là cái thường ngày đấy, nhưng ai dám nghĩ là
tầm thường, nhưng rất quan trọng . Người ta thường nói :
- Cơm tẻ là mẹ ruột
Hay :
No cơm tẻ vỏ vẻ mọi sự.
Cơm tẻ bữa nào cũng ăn nhưng chưa ai chán, không biết chán; trong
khi đó người ta có thể chán ngấy đối với cơm nếp.
Cho nên, dù cứ cho rằng trong thực tế nếp là hơn tẻ đi th́ trong
thành ngữ này điều đó cũng không được nói tới. Ở đây chỉ nhấn mạnh
đến sự cần thiết của cả hai, không nên thiếu một bên nào.
Một căn cứ rất có ư nghĩa để hiểu như vậy là trật tự của các yếu tố
trong thành ngữ. Không ai nói “Có tẻ có nếp”, mà chỉ nói “Có nếp có
tẻ”. Trật tự đó rất tế nhị, v́ nó nói lên rằng : dù là có nếp rồi,
nghĩa là có được thứ quư hơn rồi – so với tẻ – th́ chưa được coi là
đủ, vẫn cần sự có mặt của tẻ nữa.
Ở thành ngữ này, cái từ nếp, tẻ chỉ có tác dụng biểu thị quan hệ
khác biệt và cùng hiện diện, chứ không biểu thị quan hệ so sánh.
Cũng tức là tuy có dùng nếp – tẻ thật đấy, nhưng không phải để phân
biệt đối xử “nhất bên trọng nhất bên khinh”. Muốn được như vậy,
thành ngữ đă khéo sử dụng một trật tự có dụng ư (Hoàng văn Hành, Kể
chuyện, Thành ngữ, Tục ngữ, tr 159).
Cố đấm ăn xôi,
xôi lại hẩm
" cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm". chuyện rất khó làm biết
ḿnh năng lực yếu mà vẫn cố t́nh làm,v́ "bệnh sỹ",tham đũa bỏ mâm. kết
quả tất yếu là không thành mà đem cực vào thân, người đời chê cười....hay
c̣n gọi là " yếu mà c̣n ra gió"
Có cùng mới có biến, có biến
mới có thông, có thông mới được lâu bền.
Nguyên văn đầy đủ của câu thành ngữ trên là: Cùng
tắc biến, biến
tắc thông, thông
tắc cửu.
“Cùng tắc biến, biến tắc thông” đấy là triết lư thể hiện
sự biến dịch trong kinh dịch: sự vật luôn có hai mặt âm dương, trong
dương có âm, trong âm có dương, âm phát triển đến cực âm th́ sinh dương,
dương tăng đến cực dương th́ sinh âm, cứ như vậy vận hành lưu chuyển.
Nguyên lư trên cũng được đề cập đến trong trong đạo đức
kinh của Lăo Tử: “Vạn vật trong thiên hạ từ CÓ mà sinh ra; CÓ lại từ
KHÔNG mà sinh ra”.
Người Trung Quốc tin rằng nếu một người đă xuống đến tận
đáy sâu th́ chỉ c̣n một cách là đi
trở ngược lên.
Tiếng Anh: When
the going gets tough, the tough gets going.
Ám chỉ việc những kẻ làm ăn bất nghĩa phải
trả giá.
Ngày xưa, có hai anh chàng làm nghề cày thuê cuốc mướn ở cùng
chung một làng, nhà họ cũng ở gần bên nhau. Một người tên là
Thiên, người kia tên là Địa.
Họ giống nhau ở chỗ anh nào anh nấy đều nghèo rớt mùng tơi và
đều mồ côi cha mẹ từ lúc nhỏ, có điều Thiên rất sáng dạ và tinh
khôn, bảo ǵ hiểu nấy, c̣n Địa th́ không được thông minh như bạn,
nhưng bản tính hiền lành chân chất và không làm mích ḷng ai bao
giờ.
Một hôm, Địa nói với Thiên rằng:
- Nếu chúng ta cùng như thế này măi th́ không biết bao giờ mới
cất đầu lên được. Tôi thấy anh là người sẵn có khiếu thông minh,
nếu anh được học hành đàng hoàng th́ chắc ngày sau sẽ có kết quả
tốt. Tôi đă có cách rồi, từ nay anh khỏi cần đi làm nữa, cứ cố
tâm lo việc đèn sách. Tôi sẽ gắng sức làm thêm để lấy tiền nuôi
anh ăn học. Lúc nào anh thành tài, thi đậu làm quan to, đôi ta
sẽ chung hưởng phú quư.
Thiên nghe vậy th́ trong bụng mừng lắm, nhưng ngoài mặt vẫn ra
vẻ ngần ngừ suy xét:
- Thế cũng được, nhưng ai lại bám vào anh măi? Một ḿnh anh làm
lụng th́ chắc là cực nhọc lắm!
Địa thật thà bảo:
- Có sao đâu, tôi có sức hơn anh mà, để những người thông minh
như anh đi làm lụng vất vả th́ phí quá đi. Tôi chịu cực được!
Miễn sao sau này anh được công thành danh toại rồi th́ đừng quên
tôi nhé!
Thiên liền trả lời:
- Làm sao mà quên được công sức của anh. Tôi là người chứ có
phải là con vật đâu!
Địa nghe bạn đoan chắc như vậy th́ trong bụng vững tin lắm, v́
biết Thiên có chí, chắc sẽ thành tài.
Thế rồi kể từ ngày đó Địa tận lực đêm ngày làm thuê để nuôi bạn
ăn học. Thấy Thiên học mỗi ngày mỗi tiến, anh chàng lại càng
hăng hái làm việc nhiều hơn, không quản chi khó nhọc.
Cứ như thế hết năm này sang năm kia, cả hai vẫn chưa ai lo bề
gia thất, Địa vẫn cứ chăm chút lo lắng cho bạn yên ḷng học tập.
Sau mười năm đèn sách, Thiên lần lượt đậu các khoa thi Hương,
thi Hội, thi Đ́nh và giành luôn chức Trạng nguyên.
Hắn được nhà vua bổ làm quan to, cai quản cả một vùng, có dinh
thự nguy nga, có kẻ hầu người hạ đông đúc và được mọi người rất
trọng vọng.
Được tin bạn ḿnh thành đạt như ḷng mong ước, Địa rất sung
sướng. Lập tức, anh chàng đem trâu và cày về trả chủ, rồi anh
bán phăng ngôi nhà đang ở, lấy một số tiền mua đồ lễ t́m vào
dinh của bạn.
Ngờ đâu sự đời là thế, lúc cơ hàn th́ có bạn có ta, lúc nên danh
th́ quay lưng ngoảnh mặt. Khi Địa t́m đến nơi th́ Thiên đă thay
ḷng đổi dạ, không muốn nhận lại bạn cũ nữa. Hắn c̣n dặn quân
canh cấm cửa không cho Địa vào.
Địa bị đuổi nên tủi thân, lủi thủi ra về. Vừa đến bờ sông, anh
chàng ngồi xuống, nước mắt rơi lă chă, nghĩ đến ḷng người đen
bạc, số phận hẩm hiu, bây giờ có muốn về làng cũng không được
nữa v́ nhà đă bán mất rồi…
Cảm thông cho anh chàng hiền lành thật thà, Bụt liền hiện lên
giả làm người khách qua đường, đứng lại hỏi anh:
- Làm sao mà con khóc vậy? Bộ con không biết xấu hổ ư?
Địa nghe Bụt hỏi th́ kể lại đầu đuôi mọi việc. Bụt liền hóa phép
cho anh một chiếc đ̣ và dặn rằng:
- Con cứ ở đây chở khách qua lại trên sông này cũng đủ ăn rồi,
khỏi phải đi làm thuê nữa.
Địa khấu đầu lạy tạ vị ân nhân đáng kính, khi ngẩng lên th́
không thấy ông ta đâu nữa. Biết là thần tiên phù giúp ḿnh nên
Địa nghe lời, ở lại đó dựng tạm một túp lều nhỏ, mỗi ngày chống
đ̣ ngang đưa khách sang sông.
Việc làm của anh chàng chỉ vừa đủ nuôi miệng, không để dành được
đồng tiền nào, cho nên khi đến ngày giỗ cha, Địa cũng chẳng biết
lấy ǵ mà cúng.
Chiều hôm ấy, sau khi chở mấy người khách sang bờ bên kia, Địa
vừa chèo thuyền về đến nửa sông th́ lại nghe có tiếng gọi đ̣.
Anh cho đ̣ quay trở lại. Trời lúc ấy đă nhá nhem tối, nhưng Địa
vẫn trông rơ khách là một người đàn bà c̣n trẻ tuổi và rất xinh
đẹp.
Đ̣ vừa cập bến th́ người ấy nói:
- Phiền anh lại chở tôi sang bờ bên kia nhé!
Địa gật đầu rồi lại chống thuyền đi. Nh́n lại thấy người thiếu
phụ không phải người vùng này, cốt cách coi bộ rất quư phái,
trong ḷng muốn hỏi nhưng chẳng dám.
Khi lên bờ, người thiếu phụ nh́n quanh rồi nói với chàng:
- Bây giờ trời đă tối mà đường c̣n xa quá, anh làm ơn cho tôi
nghỉ nhờ qua đêm được không?
Địa bối rối thưa lại rằng:
- Nhà tôi chỉ là một túp lều tranh vách lá, chỉ sợ phu nhân
không được vừa ḷng thôi.
- Có ǵ mà không vừa ḷng? Được anh tốt bụng cho nghỉ lại qua
đêm là may mắn lắm rồi. Tôi biết lấy ǵ trả ơn cho anh đây?
Địa đưa người đàn bà về nhà của ḿnh, trong nhà chỉ độc có một
cái chơng tre, anh liền nhường lại cho người đàn bà ấy nằm, v́
biết lấy đâu ra chỗ nào khá hơn được.
Thấy Địa toan đi kiếm một nơi khác ngủ, người đàn bà liền hỏi:
- Anh ở một ḿnh, chưa có vợ à?
- Chưa. Nghèo khổ như tôi th́ hơi đâu mà nghĩ đến chuyện đó.
- Thế nếu như tôi xin làm vợ anh th́ anh nghĩ sao?
Địa rất bỡ ngỡ, không biết trả lời thế nào cả. Lúc ấy nàng mới
nói:
- Thú thật với anh, tôi là người ở trên cung tiên. Trời thấy anh
là một người tử tế mà lại chịu khổ sở quá nên cho tôi xuống trần
để giúp anh.
Nói rồi nàng hóa phép biến túp lều của Địa thành một dinh cơ rất
đẹp, trong nhà đồ dùng thức đựng đầy đủ, kẻ hầu người hạ từng
đoàn, không thiếu thứ ǵ.
Địa vừa kinh ngạc vừa vui sướng trong ḷng. Nàng tiên lại hóa
phép cỗ bàn linh đ́nh để anh làm giỗ cúng cha rồi bảo chàng:
- Bây giờ ḿnh hăy ăn mặc lụa là gấm vóc cho tươm tất vào rồi
bảo gia nhân khiêng kiệu đến mời anh Thiên ấy sang nhà ḿnh ăn
giỗ.
Nghe nhắc đến Thiên, Địa vẫn c̣n chưa nguôi nỗi buồn:
- Ḿnh mời chi cái thứ bạn bè bất nghĩa ấy?
Nàng nhẹ nhàng bảo chồng:
- Th́ ḿnh cứ nghe theo lời em đi mà! Chuyện cũ chàng hăy bỏ qua
đi, bây giờ chúng ta được sung sướng hạnh phúc như thế này là
măn nguyện rồi, mời anh ấy đến thắp nén hương giỗ cha là hợp quá
đi chứ. Vả lại để cho anh ấy biết ḿnh cũng đâu có thua ai.
Địa nghe lời vợ, lên kiệu cho gia nhân đưa đến thăm dinh cơ của
Thiên. Thấy Địa lần này có người đưa kẻ rước nên hắn tiếp đăi
chàng có phần tử tế hơn nhiều.
- Chẳng hay có chuyện ǵ mà chú đến đây?
Địa cũng lịch thiệp đáp từ:
- Tôi đến mời anh ngày mai đến nhà ăn giỗ thân phụ. Mong anh
nghĩ đến t́nh bạn năm xưa mà đến thắp nén nhang cho thân phụ tôi
vui ḷng nơi chín suối.
Thiên vẫn giữ thói huênh hoang cao ngạo như trước:
- Hà hà… Được thôi! Chú muốn ta đến chơi th́ hăy trải chiếu hoa
từ đây tới nhà, ta sẽ đến.
Địa về kể lại th́ nàng liền bảo:
- Tưởng ǵ, chứ việc ấy có ǵ khó khăn lắm đâu, ḿnh cứ yên tâm
lo nhang đèn cho cha đi.
Nàng tiên lại hóa phép ra thành hàng ngh́n chiếc chiếu hoa trải
một đoạn đường dài từ nhà ḿnh đến dinh cơ của Thiên đang ở.
Thiên không ngờ trong thời gian vừa qua Địa cũng trở nên giàu có
lớn, nên hắn mới quyết định đến xem cho rơ sự t́nh.
Đến nơi, hắn rất lấy làm lạ khi thấy nhà cửa và mọi thứ đồ đạc
của Địa sang trọng ít có nhà nào b́ kịp, hỏi do đâu mà có th́
Địa chỉ cười tủm tỉm bảo là nhờ ơn Trời thôi.
Được một lúc th́ mâm giỗ được dọn ra để mời khách, Địa đưa vợ ra
giới thiệu với bạn cũ và đích thân nàng rót rượu mời từng người.
Thấy nàng vừa đẹp vừa sang, hắn đâm ra mê mẩn và ganh tị với
hạnh phúc của bạn. Khi đă ngà ngà men rượu, hắn lại nổi lên ḷng
tham tới mức mù quáng. Hắn nói với Địa:
- Không ngờ chú mày được sung sướng như vậy. Chú đổi vợ chú cùng
cơ nghiệp này cho tôi, th́ tôi sẵn sàng nhường chức quan cùng
dinh cơ của tôi cho chú. Chịu không?
Địa liền đưa tay can gián:
- Anh say quá nên nói bậy rồi. Ai mà lại làm chuyện lạ kỳ như
thế?!
Nhưng gă bạn bất nghĩa vẫn cứ cương quyết bảo:
- Ta nói thật mà! Nếu không tin th́ cứ bảo lư trưởng ở đây làm
tờ giao ước ngay đi!
Không bao giờ Địa lại muốn như thế, nhưng nàng tiên nói nhỏ vào
tai chồng, xui Địa cứ việc bằng ḷng đi, để nàng tự lo liệu.
Và thế là sẵn có cụ lư trưởng sang ăn giỗ nên hai bên liền làm
tờ giao ước, điểm chỉ hẳn hoi để sau này đừng ai lật lọng.
Giấy tờ giao ước đâu đó xong xuôi th́ Địa gạt nước mắt giă biệt
người vợ tiên, lên vơng về dinh cơ của Thiên mà tâm trạng rối
bời, chẳng biết phải xử sự như thế nào cho phải lẽ với nàng
đây?!
C̣n Thiên th́ quá say rượu nên nằm ngủ một giấc li b́, không
biết trời đất ǵ nữa cả, đến sáng hôm sau hắn mới tỉnh dậy, ngơ
ngác nh́n quanh th́ thấy ḿnh đang nằm trong một túp lều tồi tàn
bên sông, bên cạnh là tờ giao ước với Địa.
Hắn nh́n quanh t́m kiếm, nhưng người vợ đẹp cùng dinh cơ lộng
lẫy ngày hôm qua đă biến mất theo mây về trời, không c̣n chút
dấu vết nào nữa cả.
Hối hận th́ đă muộn, có kêu gào cách mấy cũng uổng công v́ hắn
đă điểm chỉ vào tờ giao ước rồi.
Giờ đây, hắn chỉ biết làm nghề chống đ̣ qua sông thay cho Địa,
c̣n Địa nhờ ơn Trời ban cho nên hóa ra thông minh và khôn ngoan,
làm quan sung sướng măi.
Ngày nay, mỗi khi người ta muốn ám chỉ việc những kẻ làm ăn bất
nghĩa phải trả giá th́ họ thường hay nói câu “Của Thiên trả Địa”
là do sự tích câu chuyện này mà ra.
Tiếng Anh:Ill-gotten,
Ill-spent
Nguồn: tudienthanhngu.com |