|
Những nỗi oan khuất cùng cực mà
không giăy bày được.
Thiện Sỹ là chồng của Thị Kính. Một lần đọc sách mệt, chàng ngủ thiếp đi
từ lúc nào. Thấy trên cằm chàng có sợi râu mọc ngược, nghĩ là điềm gở.
Nhân lúc chồng đang ngủ, Thị Kính
dùng dao cắt sợi râu đó đi. Giật ḿnh thức giấc, chẳng hiểu thực hư ra
sao, chàng lu loa rằng vợ dùng dao định giết ḿnh. Thế là nàng mang tội
tầy đ́nh, bị chồng ruồng bỏ, xă hội lên án. Nỗi oan này, nàng không sao
giăi bày được. Oan ức, đau khổ quá, nàng cắt tóc giả trai đi tu. Những
tưởng nhờ nơi cửa Phật để cơi ḷng được bằng an, và được yên phận với
những tháng ngày c̣n lại, nhưng nào có được như thế. Với vai chú tiểu,
Thị Kính đă làm say ḷng Thị Mầu lẳng lơ. Bao lần tán tỉnh, nhưng Thị
Mầu không sao làm siêu ḷng “chú tiểu”. Bỗng nhiên, Thị Mầu bụng mang dạ
chửa, vu vạ cho “chú tiểu” ăn nằm với chị. Một lần nữa, Thị Kính mang
tội, bị đuổi ra khỏi chùa. Suốt mấy năm ṛng, Thị Kính bồng bế đứa con
Thị Mầu đi xin từng giọt sữa và chịu bao tai tiếng nhục nhă. Cho đến khi
nàng chết, sự thật mới sáng rơ. Dẫu rằng, nàng được về cơi Niết bàn,
nhưng nỗi oan của nàng là một cái ǵ đó quá nặng nề với người đời.
“Oan Thị Kính” là thành ngữ được dùng để so sánh với những nỗi oan khuất
cùng cực mà không giăy bày được.
Bợ đỡ, luồn cúi một cách nhục nhă nhằm được che chở hoặc cầu lợi.
Khi mạnh khoẻ, lành lặn chỉ ham công, tiếc của mà ít quan
tâm đến việc giữ ǵn và chăm lo sức khoẻ, để đến khi bị ốm đau, bệnh tật
người ta mới cảm thấy hối tiếc v́ đă không biết quư trọng bản thân ḿnh.
Sự chủng chẳng không ăn khớp,
không hợp nhau về ư nghĩa cũng như việc làm giữa người này và người khác.
Vợ chồng nhà chẫu chàng không có
sự nhất trí trong việc cho anh nông dân nọ chuộc lại viên ngọc thần.
Thành ra suốt ngày vợ chồng bọn họ cứ “to tiếng” với nhau. Vợ th́ một
mực “chuộc th́ chuộc” (đồng ư cho chuộc), c̣n chồng th́ dứt khoát “chẳng
chuộc” (không cho chuộc). Tiếng kêu ra rả trái ngược nhau của hai loại
chẫu chàng là tiền đề sáng tạo nên câu chuyện về sự bất hoà của vợ chồng
chẫu chàng. Kèm theo câu chuyện dân gian này là sự ra đời của thành ngữ
“ông chẳng bà chuộc”.
Thành ngữ “ông chẳng bà chuộc” biểu thị sự chủng chẳng không ăn khớp,
không hợp nhau về ư nghĩa cũng như việc làm giữa người này và người khác.
Gần nghĩa với thành ngữ “ông chẳng bà chuộc”, trong tiếng
Việt c̣n có thành ngữ “ông nói gà bà nói vịt”. Tuy nhiên thành ngữ này
được sử dụng với phạm vi hẹp hơn. Thành ngữ “ông nói gà bà nói vịt” biểu
thị sự không ăn khớp nhau, không hiểu nhau, mỗi người nói một nẻo. Sự
không ăn khớp nhau ở đây chỉ dừng lại ở phạm vi nhận thức mà nguyên nhân
của nó là do không hiểu ư nhau một cách vô ư thức. Ngược lại, ở thành
ngữ “ông chẳng bà chuộc”, sự không ăn khớp nhau được thể hiện ở cả lời
nói, ư nghĩ và cả ở việc làm. Sự không ăn khớp này là tất yếu và hoàn
toàn có ư thức.
Đứa con hư đốn làm tiêu tán gia sản của gia đ́nh.(Kẻ) ăn chơi, tiêu pha
bạt mạng.
Kẻ tầm thường, thô tục, lỗ măng, cục cằn, không đáng mặt
làm trai.
Phàm: (ăn nói) thô tục, thiếu lịch sự; phu: người đàn ông, tục tử: kẻ
thô lỗ.
-
Không đi buôn th́ không giàu được.
4 chữ này nằm trong 2 câu được các nhà buôn Trung Quốc tuân thủ tuyệt
đối:“Quan phi Thương bất phú
Thương phi Quan bất an”
Thương ở đây là thương nhân, với nghĩa là quan muốn làm giàu phải chơi
với thương nhân. Thương nhân muốn làm ăn yên ổn th́ phải chơi với quan.
Không biết có chuẩn không, nhưng nghe hợp lư và đúng qui luật làm ăn hơn
hẳn.
Tiếng Anh: Nothing ventures,
nothing gains.
Thể hiện sự khó khăn trong mối
quan hệ giữa chính quyền và người dân địa phương.
(Quan
th́ xa, bản nha th́ gần)
Nha là pḥng giấy của các quan.
Nha môn là cửa quan. Nha lại là những người làm việc ở pḥng giấy các
quan. Ngày trước, khi người dân có việc kêu kiện, bọn nha lại thường làm
khó dễ để ṿi tiền. V́ vậy mới có câu thành ngữ này.
Nguồn: tudienthanhngu.com |