|
Gió đưa cây cải về trời
Sự tích của câu ca dao :
Gió đưa cây cải về trời,
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
Câu sau lẽ ra phải là :
Rau răm ở lại chịu "đời" đắng cay.
Nhưng c̣ lẽ v́ dân gian đọc trại sau này ra thành chữ "lời" …
Nếu hiểu hai câu này một cách đơn giản mộc mạc là câu chuyện nói về một
người chết đi để cho người c̣n sống ở lại phải chịu lời đay nghiến chi
chiết, thí dụ như là chuyuện ngày xưa có ông chồng kia có hai người vợ
lẽ. Rồi v́ tranh căi sao đó mà một người phải qua đời (Cây cải về trời)
và người c̣n sống ở lại th́ phải chịu lời ch́ chiết của ông chồng (chịu
lời đắng cay) v.v... th́ có lẽ không đúng.
Theo sự tích lịch sử dân gian th́ hai câu này có xuất xứ ở tại vùng
Quảng Trị & Thừa Thiên.
Sự tích như sau:
Vào thời vua Lê Hiển Tông (1740- 1786), lúc ấy nhà Lê đă đến kỳ tàn mạt,
cho nên giặc giă nổi lên khắp nơi. Ba anh em nhà Tây Sơn gồm Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ dấy quân tại vùng B́nh Định (1775) và thành lập
nhà Tây Sơn, chiếm đóng đàng trong (ngoài Bắc) và đánh đuổi Nguyễn Ánh
phải bỏ chạy vào Nam, rồi lại phải chạy ra Côn Đảo (Pulau Condor). Lúc
ấy, Nguyễn Ánh thua đến thất điên bát đảo nhiều trận, quân sĩ tan ră gần
hết. Thế cùng lực tận Nguyễn Ánh xin với giám mục Bá Đa Lộc (Pignau De
Behaine) đem con trai của ông là Hội An, tên tục là Cải, làm con tin,
mang theo về Pháp để xin viện binh đánh Tây Sơn (… cơng rắn cắn gà nhà
nhiều lần với Pháp không xong, sau này Nguyễn Ánh lại thông với quân
Xiêm, cơng rắn về nhà. Bị vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh trận Rạch Gầm-
Xoài Mút (1785) , đóng cọc ḷng sông và dùng hoả công đánh vỡ tan chiến
thuyền Xiêm, máu chảy đỏ cả ḍng sông, thây chất thối sông. Việc này xảy
ra trước việc Hoàng tử Cảnh.
Khi đó, mẹ của Hội An (tức Cải) là bà Phi Yến, tên tục là Răm là một
người trung liệt bèn căn ngăn rằng: - "Việc đánh nhau với Tây Sơn là
việc trong nước, chỉ nên chiêu mộ quân lính đánh lại. Chớ nên rước người
ngoại quốc cơng rắn cắn gà nhà, sau này sẽ gây tai họa, ngoài ra c̣n sẽ
bị dân chúng chê cười."
Nguyễn Ánh chẳng những không nghe, mà c̣n nổi giận, cho rằng bà Phi Yến
thông đồng với Tây Sơn, trong lúc nổi giận, thét quân lính mang bà ra
chém. Các cận thần phải xúm lại can xin, Nguyễn Ánh mới nguôi ngoai và
sai mang bà Phi Yến giam vào hang đá, chờ sau này dẹp xong Tây Sơn sẽ
xét tội.
Khi bị đem đi giam, bà Phi Yến chỉ đem theo ít lương khô, chỉ đủ ăn
trong mươi ngày thôi.
Vài ngày sau, đại quân Tây Sơn kéo tới đánh. Nguyễn Ánh cực chẳng đă
đành phải mang gia quyến và một ít tàn binh lên thuyền chạy ra Phú Quốc
rồi sau lại chạy ra Côn đảo.
Khi lên thuyền, cậu Cải Hội An đ̣i ra hang đá mang mẹ theo cho được, nếu
không th́ cậu nhất định xuống thuyền ở lại với mẹ.
Nguyễn Ánh giận dữ, cho rằng con trai ḿnh cũng là ḍng phản phúc, theo
mẹ mà thông đồng với giặc, bèn ném cậu xuống biển, mà nói: - "Mày muốn
phản tao, th́ xuống biển mà theo mẹ mày."
V́ vậy, cậu Cải Hội An chết đuối. Dân làng thấy vậy bèn vớt xác cậu vào
bờ, đem chôn cất tử tế.
Do đó dân làng mới làm câu ca dao:
Gió đưa cây Cải về trời,
Rau Răm ở lại chịu đời đắng cay.
Hai câu muốn than van cho bà Phi Yến. Cậu Cải Hội An chết tức tửi, mẹ
cậu là bà Phi Yến tức Răm c̣n sống. Chịu đời đắng cay, cô quạnh, con
chết, chồng bỏ. Làm thân phận đàn bà có hai nỗi khổ lớn nhất trong đời:
con chết, chồng bỏ.
Bà Phi Yến gặp cả hai cảnh ngộ khổ đau này.
Khi con chết, chồng bỏ, bà có làm bài thơ oán than cho số mệnh như sau:
Đốt nén hương thề lạy hóa công,
V́ can mắc tội tiếng thông đồng.
Ngai vàng một thuở ngồi chưa vững,
Hang đá ngh́n năm lệ nhỏ hồng.
Máu chảy ruột mềm đau phận thiếp,
Nồi da xáo thịt thỏa t́nh ông.
Sầu sông thảm núi hờn hoa cỏ
Con hỡi hồn con, chồng hỡi chồng.
Khi bà mất, dân làng đồn là vào những đêm mưa to gió lớn, họ nghe vọng
từ trên trời xuống tiếng hai mẹ con khóc than v́ số phận đắng cay của họ.
Sau này, dân làng tin là hai mẹ con bà hiển thánh, thường hay cứu độ dân
và lập đền thờ cả hai mẹ con trong vùng.
Rồi truyền tụng ca dao và trại thành ra "lời" đắng cay …
Tuy nhiên, câu chuyện vẫn là một sự tích, cho dù là lịch sử, và như vậy
chưa chắc là đúng hẳn hoàn toàn.
Có bản khác giải thích như sau:
Ông Bút Ch́ ở ṭa soạn đă giải thích (Làng Văn 26, trang 94), tôi xin đi
sâu vào chi tiết hơn nữa:
Sách Việt Nam Phong Sử của Nguyễn Văn Mại (tủ sách Cổ Văn, phủ Văn Hóa,
Sài G̣n 1972, trang 126), do Tạ Quang Phát phiên dịch, ghi như sau:
Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
"Thơ phong sử này thuộc tỷ.
Cải rau cải có thể làm dưa, tháng mùa đông
bắt đầu gieo hột mà trồng.
Trời, thiên triều, triều nhà Thanh bên Tàu.
Nước ta trải các đời đều chịu triều đ́nh Trung Quốc phong cho, cho nên
gọi Trung Quốc là thiên triều.
Răm, thứ rau có vị cay, mọc ở chỗ đất
thấp. Theo Sử kư, Nguyễn Thị Kim, người ở làng Tỳ Bà, huyện Lương Tài,
là cung phi của vua Lê Mẫn Đế.
Lúc ấy quân Tây Sơn chiếm cứ thành Thăng Long, vua Lê Chiêu Thống và
Hoàng Thái Hậu với cung phi chạy lên Cao Bằng, nếm mọi nỗi đắng cay.
"Đến khi vua Chiêu Thống sai người sang cầu cứu với nhà Thanh th́ trước
hết bí mật khiến người hộ tống Thái Hậu và Nguyên Tử (con trai trưởng
của vua) đi sang Tàu.
"C̣n Cung Phi Nguyễn Thị Kim đi theo không kịp, phải buồn hận trở về, âm
thầm ẩn tránh trong dân gian lo việc làm ruộng nuôi tằm, dệt vải để sống
bằng sức lực của ḿnh.
"Ngày xưa sống với phấn sáp cung trang, ngày nay nàng trở thành người
đàn bà quê với áo vải hoa gai, vua th́ chạy đi, nước th́ tan mất, nỗi
đắng cay không xiết được, cho nên làm thơ phong dao để tự ví ḿnh.
Cải, là thứ rau có vị đắng, ví với Thái Hậu
Rau răm cũng có vị đắng, ví với Cung Phi
“Ư nói là Thái Hậu đi xa sang Thiên Triều chưa biết kham khổ ra sao. Một
ḿnh Cung Phi ở lại trong đất giặc chiếm đóng phải chịu những nỗi cay
đắng ấy. Đấy cũng là lời than thở.
“Về sau vua Chiêu Thống ở Yên Kinh bị bịnh mà chết.
Sau khi lấy được nước và định quốc đô, Triều Nguyễn ta xin nhà Thanh đưa
linh cữu vua Lê Chiêu Thống về nước.
"Cung Phi Nguyễn Thị Kim đến trước linh cữu lạy khóc rồi uống thuốc độc
mà chết. Thương thay! Trung thần liệt nữ từ xưa đều thế” (trích dẫn
nguyên văn).
Post ngày:
10/19/17 |