Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
Tiếng trống đồng Mê Linh
 

 
 
Ảnh của Viettouch.com
Đền thờ Hai Bà Trưng ở Vĩnh Phú
Tìm hiểu về cổ sử Việt Nam là một đề tài phức tạp, hấp dẫn nhưng cũng gây nhiều tranh cãi.

Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà sưu khảo độc lập Trương Thái Du quanh vấn đề tìm lại manh mối về Hai Bà Trưng.

Nội dung trong bài viết là quan điểm riêng của tác giả. Rất mong nhận được ý kiến tranh luận, phản hồi từ quý vị độc giả trong tinh thần cởi mở, tương kính và lành mạnh.

Lời phi lộ: Bài viết này tiếp tục chuỗi t́m hiểu cổ sử Việt Nam của tác giả và nằm trong hệ thống các hệ quả từ một cách tiếp cận chưa được thảo luận rộng răi. Về cơ bản cách tiếp cận này như sau:

1. Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là Đan Dương (nay thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Sau hàng ngàn năm nam tiến của các đoàn quân đế quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển dần về phương nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ.

2. Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được h́nh thành tại Động Đ́nh Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đă chạy giặc Sở xuống đồng bằng Tây Giang, Quảng Tây, Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đ́nh Hồ là Văn Lang Tây Giang. “Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đă thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc. Không ít cư dân Văn Lang Động Đ́nh Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc). Ở mảnh đất Việt Nam cổ, đoàn lưu dân này vẫn tổ chức xă hội theo mô h́nh Văn Lang Động Đ́nh Hồ, song các nhóm thị tộc mẫu hệ không c̣n liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai. Vua Hùng của họ chỉ c̣n là thủ lănh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi.

3. Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc ḿnh là Đất Nước, khi kư âm bằng Hán tự nó trở thành Âu Lạc. Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. Từ đây sinh ra từ Tây Âu Lạc tương đương với Tây Âu, nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung. Chữ Tây này tồn tại cho đến hôm nay trong trong tên gọi hiện đại của vùng đất này là Quảng Tây. Do đó không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên. Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đă dung ḥa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đ́nh Hồ. Chính cội rễ ấy đă che hết những mối nối kư ức, những khoảng trống và “mưu mô” của sử sách Trung Quốc, biến cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn.

Mặc dù c̣n rất nhiều sai sót, nhầm lẫn và mâu thuẫn trong các bài viết đă phố biến đây đó, tác giả hy vọng cách tiếp cận cốt lơi của ḿnh nên được các nhà sử học chuyên nghiệp tham khảo nghiêm túc. Trong khi vẫn tiếp tục chỉnh lư chiều sâu văn bản cho một tập hợp mới nhằm đi đến xuất bản chính thức, sự mở rộng phạm vi của cách tiếp cận này là cần thiết.

Mùa xuân 2005, tṛn 1962 năm ngày Hai Bà Trưng bỏ ḿnh v́ nước, xin được viết bài này như nén hương ḷng thành kính dâng lên Hai Bà. Mong âm linh liệt mẫu giúp đỡ con cháu Việt Nam của ḿnh làm sống dậy tiếng trống đồng bất khuất của nền văn minh Lạc Việt, để người đời có cái nh́n khác đi với h́nh ảnh sáo ṃn vay mượn “phất cờ khởi nghĩa” của cuộc binh biến mang tên Tự Do mà Trưng Trắc là lănh tụ, là vị Vua Bà bất tử đầu tiên và cũng là cuối cùng của mảnh đất tiền Việt Nam.

1. Thời Hai Bà Trưng, mẫu hệ hay mẫu quyền?

Rất nhiều sử gia đă đồng t́nh rằng theo Thủy Kinh Chú, chồng bà Trưng Trắc tên Thi. Ông chẳng những không hề bị Tô Định sát hại, mà c̣n sát cánh bên phu nhân của ḿnh trong cuộc nổi dậy năm 40. Khi Mă Viện tấn công, đuối sức, ông bà bỏ chạy vào Kim Khê, ba năm sau mới bị bắt. Chuyện tiếp theo như thế nào th́ Thủy Kinh Chú bỏ lửng. Chỉ biết dân gian truyền tụng Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát giang. Có giả thuyết Hai Bà sau đó bị Mă Viện bắt và chém đầu rồi đem thủ cấp về Tàu báo công, cho nên trong đền thờ Hai Bà ở Hát Môn có tục kiêng màu đỏ. Hậu Hán Thư chép bà Trưng Trắc bị xử trảm. Ở đây tôi muốn trả lời câu hỏi: Tại sao sử gia phong kiến Việt Nam lại mượn tay Tô Định khai tử ông Thi?

Ư kiến phổ thông của đa số học giả trong thế kỷ 20 cho rằng các nhà Nho, khi viết sử phải “giết” ông Thi, v́ nếu ông c̣n sống mà bà Trưng Trắc làm vua th́ ngược lẽ… thánh hiền Khổng – Mạnh! Họ cũng thống nhất cư dân Việt cổ h́nh như theo chế độ mẫu hệ - bằng chứng là thuộc tướng của Hai Bà Trưng phái nữ rất nhiều, nào là Lê Chân (thánh chân công chúa), Ngọc Lâm (thánh thiên công chúa), Vũ Thục Nương (bát nàn công chúa), Thiều Hoa (đông quân tướng quân), Diệu Tiên v.v. Giải thích như thế chưa thuyết phục lắm. Theo tôi sự bịa đặt c̣n ẩn chứa hàm ư sâu xa khác, nó làm người ta không chú tâm đến địa điểm của cuộc nổi dậy.

Trưng Trắc và Trưng Nhị đă tập hợp lực lượng và tuyên chiến với Tô Định tại Mê Linh, với sự ủng hộ mạnh mẽ của mẹ ḿnh là bà Man Thiện. Thành công, Trưng Trắc xưng vương và đóng đô cũng tại Mê Linh, nơi chôn nhau cắt rốn của bà. Giả sử Hai Bà Trưng không có em trai. Khi chồng chết, Trưng Trắc (lúc này đang ở bên chồng) về lại quê cùng giữ quyền thế tập với em gái, rồi “Hận người tham bạo, thù chồng chẳng quên… phất cờ khởi nghĩa”. Chuỗi luận thật tṛn trịa, dễ ru ngủ người đời. Thật sự nó đă ru biết bao thế hệ người Việt ngủ ngon hằng ngàn năm.

Quả t́nh ông Thi chẳng bị ai ám hại. Ông là con Lạc tướng Châu Diên, rất “môn đăng hộ đối” với Trưng Trắc, chứ không phải một anh lực điền tứ cố vô thân được gia chủ nuôi và gửi gắm con gái rượu (theo quan điểm phụ hệ sau này). Không có ông bên cạnh Trưng Trắc đánh đuổi Tô Định, sẽ không ai thắc mắc khi lấy vợ ông đi ở rể hay rước dâu về. Nếu lúc ấy người Việt cổ đă theo chế độ phụ hệ, Trưng Trắc phải về nhà chồng. Và nếu hưng binh tất bà sẽ chọn Chu Diên chứ không phải Mê Linh. Do đó ta thấy vai tṛ của kẻ làm dâu trong một gia tộc danh giá thời ấy hơi khác thường.

 Vai tṛ của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là h́nh ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xă hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất
 
Trương Thái Du

Đến đây nên mạnh dạn kết luận khi phối ngẫu với Trưng Trắc, ông Thi phải theo vợ sang Mê Linh. Vai tṛ của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là h́nh ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xă hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất, thậm chí Trưng Nhị c̣n có thể thừa kế cả anh rể ḿnh nữa, điều này hoàn toàn không có ǵ xa lạ với nhiều bộ tộc c̣n chậm tiến trên thế giới ở thế kỷ 20 vừa qua. Giả thuyết này có thể lấy chuyện hôn nhân của Mỵ Châu và Trọng Thủy trước đó hơn 200 năm làm một điểm tựa. H́nh ảnh truyền thuyết An Dương Vương cưỡi ngựa mang Mỵ Châu bỏ chạy khỏi Cổ Loa, cũng mơ hồ cho thấy Mỵ Châu cần được bảo vệ như một “thái tử” trong cơn nguy cấp. Có thể tham khảo thêm bộ sử “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ (năm 233 – 297): “Ở hai huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ và Đô Lung của quận Cửu Chân, anh chết th́ em trai lấy chị dâu”.

Tôi dám khẳng định chắc nịch rằng thời Hai Bà Trưng, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn c̣n theo chế độ mẫu hệ nếu không muốn nói là mẫu quyền. Khái niệm mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như là một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đ́nh mang họ mẹ, chỉ các con gái mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền th́ đi xa hơn, quyền hành gia đ́nh và xă hội nằm tất ở nữ giới, lănh tụ phải là nữ giới. Do đó việc tồn tại các nam thủ lĩnh trong những bộ tộc Việt cổ không hề mâu thuẫn với nội dung mẫu hệ. Nội dung mẫu hệ này xuyên suốt trong hầu hết các văn bản huyền sử Việt Nam, mặc dù nó đă bị chế độ phụ hệ nối tiếp bóp méo, biên tập khá bài bản và công phu.

Rơ nhất phải kể đến truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ với cặp khái niệm “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước”. Trong trật tự lời văn của Lĩnh Nam Chích Quái: “Long Quân nói: Ta là ṇi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, gịng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Rơ ràng mẹ Âu Cơ là Dương chứ không phải Âm. Minh chứng thêm ở đây: tết Đoan Dương (ngày nóng nhất trong năm, dương khí cực thịnh) hay c̣n gọi là Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm lịch cũng là ngày giỗ Âu Cơ. Chế độ phụ hệ dù có bóp méo truyền thuyết theo chiều hướng nào đi nữa vẫn không thể thay ngày giỗ mẹ bằng giỗ cha. Trong câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, cặp “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước” trong truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân đă bị chế độ phụ hệ hoán đổi trật tự một cách rất khéo thành “Mẹ - Nước” và “Cha – Núi (đất)”. Bản thân yếu tố “Thái sơn” rặt Tàu cũng cho thấy đâu là nguyên nhân của sự thay đổi ấy. Sẽ có người phản bác lập luận của tôi: xét theo cấu tạo của bộ phận sinh dục, nếu cho rằng mẹ là dương rất không ổn. Một cách t́nh cờ lưỡng nghi (hào dương và hào âm) của Kinh Dịch có thể tương đương với Linga và Yoni của người Chiêm Thành. Tuy nhiên khi so sánh ngực người nam và người nữ th́ rơ ràng giống cái lại chứa dương tính. Vấn đề giờ đây thu hẹp về các góc nh́n mà thôi.

2. Một cách lư giải toàn cảnh

Năm 111 TCN Lộ Bác Đức diệt Nam Việt, kết thúc gần 100 năm vương triều của họ Triệu. Tượng quận, vùng đất chưa bị xâm lăng, một tên gọi tượng trưng mang tính khái niệm theo cách của nhà Tần (nó tương đương với Giao Chỉ của nhà Chu) bắt đầu được Hán Vũ Đế mở mang. Chín quận mới liệt kê ở Hán Thư là Đạm Nhĩ, Chu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tiếp tục là khái niệm, thứ khái niệm nói lên tính tự cao, tự đại, ḷng tham và chủ nghĩa bành trướng của nhà Hán.

Sau hàng trăm năm dừng lại và khai phá các vùng đất phương nam đă chiếm được và đặt quan trấn nhậm (tức 6 quận trong tổng số 9 quận thuộc Giao Chỉ bộ), đầu công nguyên nhà Tây Hán bắt đầu ḍm ngó xuống ba quận ảo là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lần đầu tiên ta thấy xuất hiện chức danh Thái thú của quận Giao Chỉ là Tích Quang (năm 1 đến năm thứ 5 sau Công Nguyên). Người này chắc chắn chỉ là lănh đạo một sứ bộ có qui mô nhỏ, mang danh nghĩa “thông giao” đến đất mới thăm ḍ, thám thính và xem xét khả năng áp đặt kềm kẹp đô hộ. Công việc của Tích Quang c̣n dang dở th́ Trung Nguyên hỗn loạn v́ Vương Măng cướp ngôi.

Năm 23 Lưu Tú dẹp được Vương Măng tiếm quyền nhưng Trường An đổ nát, hoang tàn trong máu lửa, ông dời đô về phía đông đến Lạc Dương lập nên nhà Hậu Hán. Để nối lại cuộc thám sát mảnh đất Việt cổ, năm 25 Nhâm Diên được cử sang Cửu Chân. Những chính sách mị dân mà Tích Quang và Nhâm Diên áp dụng khi ấy không ngờ c̣n lưu truyền tới tận thế kỷ 20, với vỏ bọc h́nh thức khá ngây thơ. Đến tận Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim gần đây vẫn c̣n viết: “Người ấy (Tích Quang) hết ḷng lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho nên dân trong quận có nhiều người kính phục”. Và “Dân sự quận ấy (Cửu Chân) ái mộ Nhâm Diên, làm đền thờ.”

Năm 34, có lẽ do chủ quan khi nhận định t́nh h́nh sau hai cuộc thám sát, Hán triều cử sứ đoàn do Tô Định cầm đầu xuống đồng bằng sông Hồng để tiến hành thực dân hóa quận Giao Chỉ. Nhiệm vụ của tân thái thú chắc chắn là phải xây dựng bộ máy bóc lột nhằm biến quận Giao Chỉ thành miếng bánh ngon giữa bàn tiệc thực dân, chứ không thể măi măi là mảnh đất ảo trang trí trên bản đồ đại Hán. Có thể Tô Định đă tiến hành vài cuộc khủng bố lẻ tẻ nhân danh thiên tử Tàu và áp Hán luật vào đời sống nhân dân sở tại. Không c̣n những hành động khoan ḥa vờ vĩnh kiểu Tích Quang, Nhâm Diên. Tự do của người bản xứ đă bị xâm hại nghiêm trọng. Trưng Trắc, vị thủ lĩnh tự trị của vùng đất kề cận nơi Tô Định đặt bản doanh chịu sức ép thực dân nhiều nhất đă đứng lên hiệu triệu các thủ lĩnh khác cùng đoàn kết đánh đuổi thù chung.

Hai Bà Trưng nổi trống đồng khởi nghĩa năm 40, dân Việt đồng t́nh hưởng ứng khắp nơi. Tô Định chuồn thẳng về Nam Hải (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) mà không hề có một trận chiến ra tṛ nào để sử sách hoặc dân gian truyền lại. Chi tiết này thêm một lần nữa xác tín bối cảnh được xây dựng ở trên là hợp lư. Qui mô đội quân chiếm đóng của Tô Định rất nhỏ, chẳng thể đánh đấm ǵ được.

Cuộc hành quân về Long Biên của Hai Bà Trưng nhanh chóng thành công. Điều này là tiền đề thuận lợi cho Hai Bà tập hợp được thêm nhiều lực lượng ủng hộ, tiến tới xưng vương rồi đóng đô tại Mê Linh.

Mùa xuân năm 42 Mă Viện mang theo quân thiện chiến sang quận Giao Chỉ. Bằng kinh nghiệm lọc lơi của một tên tướng phong kiến, Mă Viện kiên nhẫn đóng quân tại Lăng Bạc và nghe ngóng t́nh h́nh. Hai Bà Trưng chủ động tấn công trước và thất bại, phải rút về Mê Linh rồi Cấm Khê (chân núi Ba V́). Mă Viện tiếp tục truy kích và tháng giêng năm 43 đă bắt được Hai Bà Trưng. Tàn quân Việt chiến đấu được vài tháng nữa mới tan ră. Dân gian Việt Nam có hai ngày giỗ Hai Bà Trưng là 6.2.43 và 8.3.43 (năm Quư Măo, âm lịch), có lẽ ngày đầu là ngày Hai Bà Trưng bị bắt và ngày sau là ngày họ bị hành h́nh. Ở đây xuất hiện hai khả năng: Một là Mă Viện giữ Hai Bà để dụ hàng nhằm kêu gọi nhóm nghĩa quân chưa buông vũ khí ra tŕnh diện. Hai là Mă Viện thuyết phục Hai Bà kêu gọi nhân dân thuần phục nhà Hán và chấp nhận luật pháp Hán. Dù sao ta cũng biết chắc một điều Hai Bà Trưng đă không chịu thỏa hiệp dù phải bỏ ḿnh.

Sự kiện Hai Bà Trưng anh dũng tấn công Mă Viện dẫn đến một liên tưởng hơi ngoài lề: Hậu Hán Thư không ghi nhận tổng quân số của Mă Viện nhưng chỉ riêng cánh tiến đánh Cửu Chân sau đó gồm hơn hai ngàn chiến thuyền và hơn hai vạn lính. Vậy ít nhất Mă Viện phải thống lĩnh lực lượng gấp rưỡi con số này cho trận đánh với Hai Bà Trưng. Cũng theo sách ấy, Mă Viện đă giết hại cả ngàn quân của Hai Bà Trưng và bắt sống hàng vạn tại Lăng Bạc. Như thế có thể đoán quân của Hai Bà Trưng cũng tṛm trèm con số vài vạn, ngang ngửa với quân Mă Viện. Với lực lượng bề thế nhường ấy, nếu Cổ Loa của An Dương Vương thực sự được xây dựng tại đồng bằng sông Hồng (chứ không phải ở Quảng Tây như giả thuyết của tác giả bài này), th́ tại sao Hai Bà Trưng không củng cố thành cũ để đương đầu với quân viễn chinh. Ngoài thực địa đền Cổ Loa Đông Anh chỉ cách Mê Linh trên dưới 20km đường chim bay, không hề bị sông lớn, suối rộng, núi cao, khe sâu ngăn trở, và Hai Bà Trưng có hơn 2 năm để chuẩn bị một cuộc kháng chiến dài lâu. Như vậy truyền thuyết An Dương Vương và Loa thành từng hiện hữu ở Việt Nam có thêm một nghi chứng phủ nhận.

Xin tạm che giấu cảm tính dân tộc và tinh thần quốc gia (những khái niệm không thể có ở thời Hai Bà Trưng), để đứng trên b́nh diện văn minh mà dè dặt nói: Kết cục cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và Mă Viện có thể tiên liệu trước, chế độ thị tộc mẫu hệ, hay ít ra là tàn dư của nó phải bị khuất phục trước một mô h́nh xă hội tân tiến hơn, để giải phóng sức sản xuất xă hội, phân công lại lao động, đưa con người và lịch sử tiến lên phía trước. Sự thật là Hai Bà Trưng đă phải đương đầu với Mă Viện, một tên tướng xâm lăng nên nguyên nhân thất bại cốt lơi của Hai Bà rất khó được chấp nhận đối với hầu hết người Việt Nam, không phân biệt tŕnh độ nhận thức.

3. Con cháu Hai Bà Trưng ngoài đảo xa

Mùa xuân năm 43 Hai Bà Trưng bị xử trảm. Các tùy tướng của Hai Bà đem tàn quân rút chạy vào Cư Phong, thuộc Cửu Chân (Thanh Hóa). Mă Viện tiếp tục truy kích đến cuối năm 43 th́ hoàn thành cuộc xâm lăng. Một bộ phận nữa phải hàng phục. Tuy nhiên có một bộ phận bất khuất không nhỏ đă lên thuyền ra khơi. Thời điểm cuối năm 43 hoàn toàn hợp lư và là chi tiết quan trọng, v́ trên biển Đông bắt đầu vào đợt gió mùa Đông Bắc. Đây chính là đôi cánh tự do trời đất ban tặng cư dân Việt cổ, đẩy những con thuyền đưa họ đến eo Malacca. Cũng có khả năng nhiều người trốn chạy theo đường bộ, rồi ḥa lẫn vào những bộ lạc sống dọc bờ biển trung bộ Việt Nam ngày nay. Họ đă góp phần xây dựng nên đế chế Chiêm Thành sau này.

Hiện nay có hai cộng đồng thị tộc mẫu hệ, nguồn gốc gần gũi, sống hai bên eo biển Malacca, thuộc hai quốc gia: 1. Cộng đồng thứ nhất là người Minangkabau, sống ở đảo Sumatra, Indonesia. Họ có khoảng 4 triệu người, chiếm ¼ dân số của đảo. 2. Cộng đồng thứ hai sống ở bang Negeri Sembilan, thuộc bán đảo Peninsular, Malaysia. Họ cũng là người Minangkabau. Họ vượt eo Malacca đến đây định cư khoảng từ TK 15 đến TK 16, và ngày nay sống rải rác trên một diện tích khoảng 6,645 km2, dân số hơn 722.000 (số liệu 1991). Negeri Sembilan dịch nghĩa là “Nước (số) chín”. Chữ “nước” ở đây đồng nghĩa với chữ “Nagar - nước, xứ sở” của người Chiêm Thành và chữ “Lạc – nác, nước” của người Lạc Việt xưa. Thủ phủ của Sembilan cách Kuala Lumpur khoảng 64 km.

Nền văn hóa của hai cộng đồng này mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ. Quyền thừa kế nằm hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới. Lănh thổ chung của họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?). Người đứng đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do các trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak Undang. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, các em gái bà này nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (tiếng Bahasa Indonesia lần lượt đọc là t'run ch'chik và t'run nhi). Ngữ âm này, sau biết bao biến đổi qua thời gian, đọc lên vẫn thấy mơ hồ hai cái tên Trưng Trắc, Trưng Nhị [1].

Về đời sống, nam giới có trách nhiệm chính với mẹ và chị em gái của họ trong thị tộc. Nhiều nơi, nam giới chỉ ở với vợ ban đêm, ban ngày trở về với chị em gái ḿnh và những đứa cháu. Nữ giới lập gia đ́nh thường ở lại nhà cha mẹ họ. Những người chị đă lập gia đ́nh luôn có mối liên hệ gần gũi với các em gái chưa lập gia đ́nh, thậm chí họ c̣n ở chung với nhau. Ở Indonesia hôm nay, người Minangkabau là những nhà kinh doanh giỏi. Điều này được tạo nên một phần bởi sắc thái văn hóa Minangkabau. Nam nhi Minangkabau phải rời gia đ́nh đi t́m tương lai. Họ buộc phải thành công. Khắp Indonesia ta gặp rất nhiều các ông chủ lớn nhỏ người Minangkalau. Họ theo đạo Hồi đă vài thế kỷ. Tuy nhiên truyền thống văn hóa và tín ngưỡng đă ḥa hợp một cách đáng ngạc nhiên.

Chế độ thị tộc mẫu hệ hiện tồn tại trong những cộng đồng người Minangkabau luôn lôi cuốn các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử và nhân loại học. Ngành du lịch Indonesia và Malaysia cũng khai thác triệt để tính đặc thù này để thu hút du khách. Trong rất nhiều đoạn phim quảng bá du lịch người Minangkabau đă không dưới một lần tuyên bố tổ tiên họ là người Việt và đă di cư đến Nam Dương bằng thuyền.

Kiến trúc truyền thống Minangkabau cũng khiến không ít người suy tư: “Ở Indonesia, người Minangkabau có những ngôi nhà mái cong rất đẹp, nhịp điệu bay bổng, phong phú, một mặt giống ngôi nhà sàn h́nh thuyền, một mặt lại giống mái cong của đ́nh chùa Việt Nam [2]”.

Xin hăy tham khảo một giai thoại Minangkabau [3]: Ngày xưa có một mối bất ḥa giữa người Minangkabau và người Java, thay v́ giải quyết bất ḥa đó bằng một cuộc chiến với máu đổ không cần thiết, họ thỏa thuận chọi trâu để phân định. Người Java có một con trâu khổng lồ, mạnh mẽ và hung dữ. Người Minangkabau chỉ có một con nghé con. Người Java rất tin tưởng con trâu của ḿnh sẽ đè bẹp chú nghé kia. Vậy mà yếu đă thắng mạnh. Người Minangkabau bỏ đói con nghé nhiều ngày. Trước trận đấu họ buộc một con dao sắc vào đầu nghé. Vào trận nghé đói tưởng trâu là mẹ ḿnh. Lập tức nó rúc vào bụng trâu để t́m vú. Con trâu kềnh càng đă bị chết v́ dao đâm thủng bụng. Và người Minangkabau đă chiến thắng. Cũng theo giai thoại này Minang nghĩa là chiến thắng, kabau là trâu.

Bất kỳ người Việt nào cũng t́m thấy ở câu chuyện trên một thứ ǵ đó thật gần gũi với bản sắc văn hóa đồng bằng sông Hồng. Chuyện dân gian Trạng Quỳnh dùng nghé đấu Trâu của sứ Tàu với truyện trên, có lẽ là hai biến thể của một tư duy chung, một triết lẽ giản dị nhưng nhiều giá trị: Đề cao trí tuệ và ḷng yêu chuộng ḥa b́nh, ḥa hợp, lấy trí thắng lực, hóa giải mâu thuẫn bằng trái tim nhân hậu. Và tôi chợt hiểu, linh vật trâu vàng cho lễ hội thể thao khu vực Đông Nam Á đầu tiên do Việt Nam tổ chức, tức Seagame 2003, đă được chọn bằng tâm thức văn hóa, lịch sử.

Phải chăng người Minangkabau ở Indonesia và Malaysia hôm nay cũng là con cháu của Hai Bà Trưng? Phải chăng cái tên mà hai ngàn năm nay người Việt tôn gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị không phải là tên riêng mà là chức danh của hai hoặc một nhóm người phụ nữ Việt Nam bất khuất? Câu trả lời đang ở một tương lai rất gần.

4. Vua Bà và trống đồng

Xưa từ Hùng ư chỉ thủ lĩnh một vùng. Tùy Thư (thế kỷ VII), thiên Địa Lư Chí Hạ c̣n ghi “Người man (tức người Lạc Việt) ai giàu mạnh là người hùng”. Con vua Hùng là Quan Lang cai quản địa phận trực thuộc, qui mô chắc cũng như làng xă ngày nay. Chữ “Làng” có thể xuất phát từ chữ “Lang” trong “Quan Lang”, người Mường gần đây vẫn c̣n Quan Lang. Vậy có thể hiểu “Hùng” là người đứng đầu thị tộc mẫu hệ. Liên minh thị tộc mẫu hệ sẽ h́nh thành dạng nhà nước sơ khai như Văn Lang, và Vua Hùng hẳn là lănh tụ của nhà nước sơ khai ấy.

Khi lưu vong đến Quảng Tây, các bộ tộc Lạc Việt cổ từ Động Đ́nh Hồ vẫn c̣n gắn kết ở dạng nhà nước sơ khai kia, nó thể hiện trong truyền thuyết xung đột giữa “Thục vương tử” và Vua Hùng. Tuy vậy trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc của An Dương Vương) và 111 TCN (năm Lộ Bác Đức b́nh định Nam Việt), những nhóm người đi tiếp xuống đồng bằng sông Hồng có lẽ đă không thể bảo tồn h́nh thái xă hội Văn Lang cũ. Điều này khá dễ hiểu: Địa bàn mới hoang vu (dù chắc chắn tồn tại ít nhiều nhóm chủng tộc gốc Nam Á du canh du cư với kinh tế hái lượm, săn bắn), thổ nhưỡng ẩm thấp, mùa mưa ngập lụt chia cắt, dân số ít, giao thương trở ngại… Đến đầu công nguyên, ít nhất là t́nh h́nh dân số của các bộ tộc Lạc Việt ở đồng bằng sông Hồng đă được cải thiện. Để chống lại âm mưu nô thuộc của nhà Đông Hán, Hai Bà Trưng đă liên minh các thủ lĩnh vùng lại với nhau đánh đuổi Hán quan, xưng vương.

Ở xă hội Lạc Việt cổ, trống đồng là biểu hiện quyền uy của tù trưởng, tộc trưởng. Cũng Tùy Thư nói: “Khi chiến tranh th́ trống đồng được đánh, người người khắp nơi nghe lời hiệu triệu tụ họp về. Dân Lạc Việt rất phục tùng người sở hữu trống” – đây phải chăng là câu trả lời dứt khoát cho hành xử của Mă Viện với quốc bảo trống đồng. Thật vậy, Mă Viện nam chinh đă phá vỡ liên minh Văn Lang vừa được Trưng Trắc tái lập nhưng buộc phải cho phép dân Việt tự trị ở đơn vị Làng. Thế là sau khi giết hại vợ chồng bà Trưng, Mă Viện vội vàng cho quân lính đi thu gom trống đồng nhằm bẽ găy các cuộc phản kháng tiếp theo (nếu có) từ trong trứng nước. Bản chất gốc của vấn đề xem ra rất kín kẽ, c̣n hiện tượng Mă Viện nấu đồng đúc ngựa cảnh để chơi và dựng trụ làm cột thiên văn quan sát bầu trời, xác định vị trí khu vực vừa chiếm được trên bản đồ đế quốc Hán, chỉ là đám lá ngọn ḷa x̣a che mắt sự thật lịch sử.

Tôi đă gặp rất nhiều người Việt Nam không tin tổ tiên họ là chủ sở hữu của trống đồng, hoặc cho rằng đề cao trống đồng như quốc bảo của dân tộc là thiếu chứng lư. Họ bảo không như người Tráng tại khu tự trị Quảng Tây Trung Quốc (tức hậu duệ những thần dân của An Dương Vương không di cư chạy giặc Triệu Đà xuống đồng bằng sông Hồng năm 179 TCN) vẫn c̣n sử dụng trống cho lễ hội, trống đồng ở Việt Nam chỉ đào được nơi các vỉa đất của quá khứ. Hy vọng nguyên nhân mang tên Mă Viện tôi vừa nêu, sẽ góp phần chứng minh người Việt xưa đă phải đành đoạn chôn trống gửi đến tương lai, mong con cháu ḿnh măi măi trân trọng và giữ ǵn nó

Cùng với việc hủy hoại trống đồng và làm tan ră h́nh thức nhà nước sơ khai trên mảnh đất Việt Nam cổ, Mă Viện đại diện cho nhà Đông Hán cũng chính thức khai sinh đơn vị hành chính tự trị là Làng, Xă. Do được tự trị, tinh thần độc lập và tự chủ của người Việt Nam đă luôn được nuôi dưỡng dưới các nếp nhà sau lũy tre làng. Từ “Làng Nước” sinh ra từ đây. Làng trở thành một đất nước độc lập tự chủ thu nhỏ của những người dân Việt bất khuất. Hơn 800 năm sau, tinh thần ấy lớn mạnh rồi bùng phát để đưa cả dân tộc thoát kiếp nô lệ. Khi người Việt có quốc gia rồi, th́ làng xă lại trở về thế đối lập một cách tương đối với các chính sách chính trị tổng thể của chính quyền trung ương. Để dung ḥa lợi ích nhà nước và làng xă, mỗi làng đă được chính quyền chọn ra một vị thần được ưa chuộng nhất để sắc phong làm Thành Hoàng. Như vậy mâu thuẫn đă được giải quyết ở một mức độ chấp nhận được: ông vua của làng là thánh linh (hoặc một con người có thật đă được thánh hóa), được ông vua của cả nước hợp thức hóa bằng một văn kiện.

5. Kết luận

Người Lạc Việt cổ bắt đầu gần một thiên niên kỷ lưu vong từ chiếc nôi Động Đ́nh Hồ, từ châu Kinh, châu Dương bên bờ Trường Giang khi văn minh Hoa Hạ nam tiến và nước Sở được h́nh thành. Đến Trưng Trắc th́ sức người có hạn, văn minh vật chất sơ sài trong khi sơn đă tận mà thủy th́ mênh mông, đa số họ bắt buộc phải dừng lại, nhẫn nhục chấp nhận thêm tám trăm năm nô lệ nghiệt ngă.

Máu lưu vong trước nghịch cảnh chính trị của tiên tổ người Việt Nam đă hơn một lần bùng phát, già ngàn năm trở lại đây nơi hậu duệ của họ: Khi nhà Trần tiếm đoạt vương quyền, một nhánh họ Lư đă chạy qua Cao Ly. Lê – Mạc đấu đá rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh, bao người phải bỏ xứ xuống khai phá đồng bằng sông Cửu Long trù phú. 1954 và 1975, hàng triệu sinh linh lại lên đường vào nam, hoặc ra biển tỏa khắp năm châu. Ai đó đă có lần so sánh người Việt Nam với dân Do Thái ở góc độ lưu vong, cũng chẳng khập khiễng chút nào.

Tự đặt ḿnh vào bối cảnh năm 40 sau Công Nguyên, tôi bỗng thấy h́nh ảnh sáo ṃn Hai Bà Trưng “phất cờ khởi nghĩa” có vẻ không hợp lư. Nên chăng hăy h́nh dung những hồi trống đồng liên hoàn dưới các nếp nhà sàn hiền ḥa, thôn nối thôn, làng tiếp làng, thị tộc này kêu gọi thị tộc khác cùng đoàn kết trong âm vang tự do dưới sự lănh đạo của Trưng Trắc tiến thẳng về Long Biên, quét sạch bắc quân xâm lược.

Hai Bà Trưng ra đi khép lại thuở bán khai trên đất mảnh đất tiền Việt Nam. Thời điểm này chính là hoàng hôn trước đêm dài nô lệ. Người Việt biết chấp nhận nỗi nhục thiếu tự do để học hỏi, tự hoàn thiện ḿnh. Thỉnh thoảng một vài ngọn đuốc lại bừng sáng mang nhiều cái tên anh hùng như Triệu Thị Trinh, Mai Thúc Loan hay Phùng Hưng. Đáng kể là hơn nửa thế kỷ độc lập của Lư Nam Đế cùng các phụ triều trong giấc mơ Vạn Xuân đầy hiện thực. Đó là những bước tiến vững chắc, không thể phủ nhận của con người và đất nước thời khởi sử, làm bệ phóng cho kỷ nguyên tự chủ bắt đầu với Khúc Thừa Dụ năm 905. Tám trăm năm tṛn bắc thuộc là cái giá quá đắt nhưng không hề vô nghĩa. Dân tộc Việt Nam, văn minh Việt Nam h́nh thành trong gian khó và thử thách đă lớn mạnh vượt bậc. Từ đó về sau phong kiến phương bắc không lần nào hoàn toàn khống chế được họ nữa. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đại diện thực dân châu Âu là Pháp Lang Sa, với ưu thế hơn hẳn họ về sức mạnh vũ khí được sản xuất dưới một nền khoa học kỹ thuật tân kỳ, tổ chức xă hội tư bản tiến bộ, cũng chỉ áp đặt sự đô hộ không đồng bộ của chúng trên mảnh đất này tṛm trèm 80 năm mà thôi.

Nếu không kể đến An Nam Chí Lược (1335) của một kẻ bán nước, từ quyển hiến sử đầu tiên c̣n lưu lại đến ngày này là Đại Việt Sử lược (1377 – 1388), sử gia Việt Nam vừa xem sách Tàu, vừa chấm bút lông vào nước lă để viết về ông Thi. Thậm chí họ c̣n sơ ư nhầm tên chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách! Năm tháng qua đi, sách sử nối nhau ra đời, Bà Trưng Trắc vẫn phải làm một quả phụ bất đắc dĩ, gồng gánh thêm bao nhiêu khái niệm không cùng thời với bà. Lối tư duy suy diễn chủ quan, nô lệ sách Tàu và kinh viện, kết hợp với truyền thống tạo dựng chính sử thiên kiến và không tôn trọng sự thật một cách có hệ thống, vô h́nh chung đă tô son trát phấn lên bà mẹ chân đất được Thủy Kinh Chú mô tả là “vi nhân hữu đảm dũng”. Kết quả là người mẹ vĩ đại của họ chẳng đẹp hơn tí nào. Nó chỉ khiến người đời chạnh buồn cho những đứa con vụng về, xốc nổi và đồng bóng của bà.

Mảnh đất h́nh chữ S có tên Việt Nam ngày nay hiện hữu khoảng 200 đền thờ Hai Bà Trưng. Đó là tuyên bố rơ ràng nhất về vai tṛ lớn lao của Hai Bà trên non sông này. Mọi lư thuyết học thuật cổ kim đều không thể phủ nhận bản chất anh hùng và tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng, vị Vua Bà đầu tiên và cuối cùng của mảnh đất Việt Nam, người mẹ đáng kính của lịch sử Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.

Chú thích

[1] Các ngữ âm dẫn theo gợi ư của Phạm Chánh Trung – Trang web viethoc.org
[2] Văn ngọc: Từ những ngôi nhà h́nh thuyền, www.zdfree.free.fr/diendan/articles/u125vngoc.html
[3] Dẫn theo Dien A. Rice: “Minangkabau Life and Culture”, www.haqq.com.au

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17