|
Gặp Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Ngọc, tức ông Georges Vĩnh
San
|
|
Vietsciences- Mathilde TuyetTran
13/05/2008 |
Những bài cùng tác giả
Danh nhân Việt
Nam
- Ở nhà quê, các cánh đồng hoa dầu đang nở hoa
dưới làn mưa xuân trải dài như những tấm thảm
vàng rực rỡ, óng ánh. Mọi người tất tả gieo,
trồng. Tôi cũng còn vài trăm củ khoai giống để
trồng, nhưng vào một ngày mưa như hôm nay, đất
sét ướt bám dính cả kí lô chung quanh đôi giày,
và trơn tuốt luốt như các tuyến trượt tuyết...đã
đến lúc tôi phải đi gặp gỡ ông Hoàng tử Nguyễn
Phúc Bảo Lộc: Ông Georges Vĩnh San.
-
- Lịch sử đối với tôi là trường học, sách vở,
văn khố, phim, ảnh...cũ kỹ, xơ xác, xa xôi, vàng
úa bởi bụi thời gian. Khi ở trung học, như những
bạn thiếu niên đồng lứa, tôi học, các chương
lịch sử cận đại thời nhà Nguyễn, mà không hiểu
phải học thuộc lòng những điều này để làm gì ?
Những ngày tháng năm sinh, những ngày tháng tử,
những ngày lên ngôi... chẳng có quan hệ gì với
tôi cả.
-
- Bốn mươi năm sau, tôi nhìn lại lịch sử nước
tôi với con mắt khác. Vài người chế diễu công
việc khảo cứu lịch sử và những bài tôi viết, cho
rằng tôi trở thành "bảo hoàng". Không, lịch sử
nhà Nguyễn là một phần của lịch sử Việt Nam và
dân tộc Việt Nam, đã gánh chịu chung một số mệnh,
nhưng bi thảm hơn, vì hoàng tộc là hoàng tộc, họ
còn có phương tiện, và dân...thì là dân, nghèo
khổ và dốt chữ . Thời đại quân chủ chấm dứt tại
Việt Nam năm 1945, với sự cáo chung của Bảo Đại.
Chúng ta đang sống trong tư tường cộng hòa với
các giá trị như Độc Lập, Tự Do, Bình Đẳng và
Nhân Ái.
-
- Ba vị vua nhà Nguyễn bị áp giải đi đày bởi
chính quyền thuộc địa Pháp dưới thời đệ tam Cộng
Hòa Pháp là vua Hàm Nghi tại Alger (Algérie),
Thành Thái và Duy Tân tại đảo La Réunion trong
vùng biển Ấn Độ Dương.
-
- Lúc đi đày, Hàm Nghi mới có 18 tuổi, Thành
Thái 37 tuổi (bị quản thúc đã 9 năm rồi) và Duy
Tân 16 tuổi. Các vua còn trẻ, nhưng có can đảm
chống lại sự thống trị của chính quyền thực dân
thuộc địa.
-
- Đó là một giai đoạn lịch sử giao thời giữa
hai luồng ảnh hưởng văn hóa đối nghịch, đó là
ảnh hưởng của Trung Hoa và ảnh hưởng của Pháp,
mà các thế lực ảnh hưởng của tầng lớp quan lại
trong triều đình theo xu hướng Trung Hoa còn rất
mạnh mẽ. Tiếng Hán của Trung quốc vẫn còn là chữ
viết chính thức của nhà Nguyễn. Mãi cho đến năm
1920, các khóa thi cuối cùng là vào năm 1919,
vua Khải Định mới bãi bỏ các kỳ thi chữ Hán (thi
Hương, thi Hội, thi Đình), chính thức mở đường
cho chữ "Quốc
Ngữ“ viết theo mẫu tự la
tinh, mà các giáo sĩ Bồ Đào Nha, rồi sau đó
Alexandre de Rhodes, Pigneau de Béhaine và những
nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã chuyển âm và phát
triển từ đầu thế kỷ thứ mười bẩy.
-
- Sự can đảm của ba vua được dân chúng kính
trọng và thương mến. Tiếc thay, cả ba vua đều bị
phản bội và công việc kháng chiến không kéo dài
được là bao lâu.
-
- Ngày nay, sự tưởng niệm ba vua không thể
được coi là một công việc đánh lạc hướng dư luận,
vì chính cùng một chiều hướng với tinh thần của
Duy Tân, người ta biết phân biệt ai là bạn của
dân tộc Việt Nam – và những người khác (những
người Pháp yêu chuộng tự do và những người thực
dân theo Pétain). Tướng Decoux là một trong
những trường hợp lạ lùng đã từ chối không theo
lời kêu gọi của phong trào nước Pháp Tự Do
(France Libre), mà dọn đường cho quân Nhật vào
Việt Nam, đem lại những hậu quả tang thương mà
mọi người đều biết.
-
-
- Sự lùng bắt Hàm Nghi và Duy Tân xảy ra một
cách bi thảm vì hai vua trẻ này đã rời khỏi cung
điện và cấm thành để đi kháng chiến. Trong mục
đích cứu vua Duy Tân khỏi bị Pháp xử tử, quan
đại thần Hồ Đắc Trung, theo lời yêu cầu của
những người phụ tá vua đã bị bắt giam vào ngục,
giảm trách nhiệm của Duy Tân và đổ hết tội lỗi
lên đầu các người phụ tá. Vì thế, Trần Cao Vân,
Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn văn Siêu của
phong trào Việt Nam Quang Phục Hội bị xử tử chém
đầu, Duy Tân bị truất ngôi và đi đày khỏi xứ.
-
-
- Các dấu vết của các vua, sau thời Tự Đức,
còn tìm thấy ở Pháp, ở Algérie và ở đảo La
Réunion. Những cuộc gặp gỡ các nhân vật, gọi là,
có trong lịch sử, và những công việc tham khảo
tại chỗ đưa lịch sử nước tôi về gần hơn, sống
động hơn và hiện đại hơn.
-
-
- Ông Georges Vĩnh San và phu nhân, bà
Monique, tiếp đón tôi niềm nở tại nhà riêng. Vừa
trông thấy ông bằng xương bằng thịt, tôi thấy
ông thật có tướng hoàng gia, có phẩm cách trang
nghiêm nhưng khiêm tốn, nhất là hai tai to như
tai Phật, dấu hiệu của sự tốt bụng và rộng lượng.
Giọng ông rất trầm, đều đặn, và cách nói đơn
giản, thành thật tăng thêm vẻ bình tĩnh, tự tin.
-
-
-
-

-
- Georges Vĩnh San là con trưởng của hoàng tử
Vĩnh San và bà Fernande Antier, sinh ngày 31
tháng một năm 1933 tại Saint Denis thuộc đảo La
Réunion. Ông bà Vĩnh San có bốn người con, ba
gái một trai. Sau một thời gian sinh sống ở đảo,
ông bà trở về hưởng hưu tại Pháp.
-
-
-
- Trước khi tôi có dịp đặt câu hỏi về tên của
ông, thì ông đã than thở về cái sự rắc rối hành
chánh này. Một sự luyến tiếc lớn, thổ lộ qua các
câu...“ bà biết không, tôi truyền lại cái tên
này (Vĩnh San) cho các con tôi và cháu tôi,
nhưng năm mươi năm nữa, một trăm năm nữa, sẽ
không ai biết đấy vào đâu...“
-
-

- Hoàng tử Vĩnh San
-
-
-
- Khi bị giải đi đảo, vua Duy Tân trở lại
thành hoàng tử Vĩnh San, bị chính quyền thuộc
địa ghi chép trong sổ sách hành chánh một cách
đơn giản chỉ với tước vị hoàng tử và tên gọi,
hoàn toàn không cần biết đến tông tích của vua,
cũng không cần tìm hiểu danh tánh cho đúng.
-
- Một người bạn Pháp cũng than thở là các tên
họ vua chúa Việt Nam sao rắc rối quá và muốn tôi
giải thích.
-
-
-
- Georges Vĩnh San đáng lẽ phải mang tên hoàng
tử Nguyễn Phúc Bảo Ngọc Guy Georges.
-
- Nguyễn Phúc là họ của ông, xuất phát từ dòng
nhà Nguyễn.
-
- Bảo Ngọc là tên gọi, Guy Georges là tên gọi
theo tiếng Pháp.
-
-
-
Ai là cha của Georges Vĩnh San ?
-
- Kể từ thời Minh Mạng, hoàng đế thứ hai, con
của Gia Long, truyền lệnh đặt tên con trai của
vua theo thứ tự các chữ trong một bài thơ của
ông, thì dân chúng biết chữ theo dõi dễ dàng các
đời vua kế nghiệp qua các tên họ . Minh Mạng
cũng đặt cho mỗi con của Gia Long một bài thơ,
dùng theo cách tương tự, coi như đặt ra các „phòng“
của dòng nhà Nguyễn.
-
-
-
- Bài thơ dùng cho dòng của Minh Mạng có tên "Đế
Hệ Thi“ gồm có bốn câu như sau:
-
-
-
- Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quý Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thoại Quốc Gia Xương.
- Thí dụ: Tên gọi các hoàng tử gồm có hai chữ,
chữ thứ nhất lấy theo thứ tự trong bài thơ, xác
định thế hệ của người đó.
-
- Vua Thành Thái tên là Nguyễn Phúc Bửu Lộc
-
- Vua Duy Tân tên là Nguyễn Phúc Vĩnh San
-
- Ông Guy Georges Vĩnh San tên là Nguyễn Phúc Bảo Ngọc
-
-
-
- Gia phả họ Nguyễn bắt đầu từ thời Nguyễn Bặc
năm 970. Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công dưới triều
nhà Đinh.
-
- Đầu thế kỷ thứ mười sáu, dưới thời nhà Lê
Trang Tông, Nguyễn Kim xin vua Lê vào nam để
tránh sự ám hại của họ Trịnh (Hoành sơn nhất đái,
vạn đại chung thân, theo Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm). Như thế, kể từ năm 1533, Nguyễn Kim khởi
nghiệp dòng chúa Nguyễn. Trong vòng gần ba thế
kỷ, các cuộc chiến tranh liên miên giữa chúa
Trịnh và chúa Nguyễn gieo rắc nhiều khổ sở ai
oán cho dân chúng, đồng thời làm suy yếu quyền
lực của triều đình nhà Lê.
-
-
- Họ Nguyễn Phúc xuất hiện lần thứ nhất với sự
chào đời của một hoàng tử, con của Nguyễn Hoàng,
chúa Nguyễn thứ hai, ngày 16.08.1563. Một bà
vương phi, nằm mộng thấy thần cho chữ „Phúc“,
đặt tên đứa trẻ mới sinh là Nguyễn Phúc Nguyên (hoàng
tử thứ sáu). Trở thành chúa Nguyễn thứ ba,
Nguyễn Phúc Nguyên truyền lệnh đặt Nguyễn Phúc
làm họ cho tất cả các thế hệ sau mình, để tránh
nhầm lẫn với các dòng khác cũng mang họ Nguyễn.
-
- Có hai cách viết, ở miền Bắc viết "Nguyễn
Phúc“, ở Huế và trong Nam viết "Nguyễn
Phước“, phần thì do ảnh hưởng của tiếng nói địa
phương, phần thì theo tục lệ tin dị đoan phải
nói trại đi để tránh xui xẻo cho người mang tên.
-
-
-
- Thêm nữa, mỗi vua có cả thẩy năm tên. (Người
ngoại quốc thường lẫn lộn và không hiểu vì thế)
-
-
- Một thí dụ:
-
- Tên tục: Nguyễn Phúc Chiêu
-
- Tên hoàng tử: Nguyễn Phúc Bửu Lân
-
- Tên hiệu: Thành Thái (niên hiệu)
-
- Tên miếu: Hoài Trạch
-
- Tên vua: Công Hoàng Đế
-
-
-
- Các nhà sử học và dân chúng gọi các vua bằng
niên hiệu.
-
- Niên hiệu
|
- Tên tục
|
- Tên hoàng tử
|
- Thời gian trị vì
|
- Gia Long
|
- Nguyễn Phúc Noãn (Chũng)
|
- Nguyễn Phúc Ánh
|
- 1802-1820
|
- Minh Mạng
|
- Nguyễn Phúc Kiểu
|
- Nguyễn Phúc Đảm
|
- 1820-1840
|
- Thiệu Trị
|
- Nguyễn Phúc Tuyền
|
- Nguyễn Phúc Miên Tông
|
- 1841-1847
|
- Tự Đức
|
- Nguyễn Phúc Thì
|
- Nguyễn Phúc Hồng Nhậm
|
- 1847-1883
|
- Dục Đức
|
- Nguyễn Phúc Ưng Ái
|
- Nguyễn Phúc Ưng Chân
|
- 1883
|
- Hiệp Hòa
|
- Nguyễn Phúc Thăng
|
- Nguyễn Phúc Hồng Dật
|
- 1883
|
- Kiến Phúc
|
- Nguyễn Phúc Hạo
|
- Nguyễn Phúc Ưng Đăng
|
- 1883-1884
|
- Hàm Nghi
|
- Nguyễn Phúc Minh
|
- Nguyễn Phúc Ưng Lịch
|
- 1884-1885
|
- Đồng Khánh
|
- Nguyễn Phúc Biện
|
- Nguyễn Phúc Ưng Kỷ
|
- 1886-1888
|
- Thành Thái
|
- Nguyễn Phúc Chiêu
|
- Nguyễn Phúc Bửu Lân
|
- 1889-1907
|
- Duy Tân
|
- Nguyễn Phúc Hoảng
|
- Nguyễn Phúc Vĩnh San
|
- 1907-1916
|
- Khải Định
|
- Nguyễn Phúc Tuấn
|
- Nguyễn Phúc Bửu Đảo
|
- 1916-1925
|
- Bảo Đại
|
- Nguyễn Phúc Thiển
|
- Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy
|
- 1926-1945
|
-
-
- Guy Georges Vĩnh San thuộc vào đời thứ tám
kể từ Gia Long, xuất thân từ giòng hoàng tộc
chính và là hậu duệ của ba vua Dục Đức – Thành
Thái – Duy Tân. Cha của ông là vua Duy Tân, ông
nội là vua Thành Thái, ông cố nội là vua Dục Đức.
-
-
- Tất cả vua nhà Nguyễn đều xuất thân từ dòng
Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Trong suốt một
thời gian 143 năm mười ba vua nhà Nguyễn đã vạch
con đường định mạng cho cả dân tộc Việt Nam.
-
- Cần nói đến ở đây một điểm nhỏ, thời đại các
chúa Nguyễn kéo dài khoảng 250 năm (1533-1777),
cho đến khi Gia Long xưng Hoàng Đế năm 1802 thì
các người kế vị của Gia Long, không phải chỉ là "vua“,
mà là "Hoàng
Đế“. Như Nã Phá Luân là Hoàng Đế, chứ không phải
vua. Các chúa Nguyễn đã chiếm đất Chàm và đất
Chân Lạp (miền Nam Việt Nam, từ Bình Thuận xuống
đến mũi Cà Mau) và Gia Long đã thống nhất lãnh
thổ Việt Nam (Đàng Trong luôn cả Đàng Ngoài),
lập thành một "đế
quốc“.
-
- Trong cách nói thông thường, thì người dân
chỉ gọi đơn giản là "vua“:
vua Hàm Nghi, vua Duy Tân...
-
-
- Nhưng sau khi Thiệu Trị qua đời, sự yếu đuối
của Tự Đức (hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn,
1847-1883) là một trong những nguyên nhân chính
yếu đưa đến sự bảo hộ hoàn toàn của thực dân
Pháp (tôi đang viết một bài riêng về đề tài này)
và những biến động bi thảm trong triều đình nhà
Nguyễn. Đáng tiếc thay, tấm gương của Gia Long –
một chiến sĩ bền bỉ nhất, thông minh nhất và
mạnh nhất lại không được các người kế vị noi
theo.
-
-
- Một điều dễ hiểu là các vua, chúa đều cần
người nối nghiệp nam phái và họ có tất cả mọi
quyền lực. Họ có rất nhiều vợ, rất nhiều con. Có
thể tôi còn nhầm lẫn trong các con số, nhưng thí
dụ như Gia Long có 31 người con (13 trai, 18 gái),
Minh Mạng có 142 người con (78 trai và 64 gái),
Thiệu Trị có 64 người con (29 trai và 35 gái).
Sự lựa chọn người lên ngôi nối nghiệp thường bị
ảnh hưởng bởi áp lực cũng như các ý đồ thâm hiểm
của các bà vợ vua cũng như các quan đại thần. Vợ
vua, có tước vị hay không có tước vị, thường là
con gái các quan đại thần. Một cô thôn nữ vừa
đẹp vừa thông minh, gặp gỡ một vị vua vừa mạnh
mẽ vừa can đảm chỉ là một câu chuyện lãng mạn,
khác thường.
-
-
- Tự Đức, người có danh tiếng là độc ác và
nóng nảy, không có con nối dõi, nhận ba người
cháu làm con nuôi: Dục Đức, Chánh Mông và Dưỡng
Thiện.
-
- Dục Đức, ông cố nội của Georges Vĩnh San, là
cháu nội của Thiệu Trị, con của Hồng Y, một
người con của Thiệu Trị và anh em của Tự Đức.
-
- Lấy lý do là Dưỡng Thiện, người con yêu quí
còn nhỏ tuổi, Tự Đức chỉ định Dục Đức nối ngôi,
nhưng đồng thời trách Dục Đức là người „thiếu
đạo đức“, và đặt ba quan đại thần là Trần Tiễn
Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm
phụ chánh cho vua.
-
-
- Di chiếu của Tự Đức đồng nghĩa với bản án tử
hình cho đứa con nuôi lớn nhất của ông. Ba ngày
sau khi Tự Đức qua đời năm 1883, hai quan đại
thần Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết, thực
chất nắm tất cả quyền bính trong tay, đổi di
chúc, phế bỏ Dục Đức, thay vào đó lập Nguyễn
Phúc Hồng Dật, một người em, của Tự Đức, hàng
chú của Dục Đức lên ngôi. Hồng Dật trở thành
hoàng đế thứ sáu, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.
-
-
- Dục Đức, hoàng đế thứ năm, bị giam trong học
đường, rồi bị bỏ đói trong ngục cho đến chết.
Dân gọi ông là "Vua ba ngày“.
-
-
- Trong cùng năm đó, dưới quyền lực của Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, triều đình nhà
Nguyễn ký hòa ước Quý Mùi ngày 23.07.1883 bởi
Harmand, De Champeaux, Trần Đình Túc và Nguyễn
Trọng Hợp.
-
-
- Vua Hiệp Hòa có ý muốn chấp nhận sự bảo hộ
của Pháp và loại trừ hai quan đại thần lộng
quyền. Nhưng, Nguyễn văn Tường và Tôn Thất
Thuyết đã ra tay trước. Với sự đồng ý của bà
Hoàng mẹ, bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức, vua Hiệp Hòa
bị bỏ thuốc độc chết, Tường và Thuyết đưa Dưỡng
Thiện lên ngôi. Quan phụ chánh thứ ba, Trần Tiễn
Thành, vì không đồng ý với Tường và Thuyết cũng
bị giết chết.
-
-
- Dưỡng Thiện, tên là Nguyễn Phúc Ưng Đăng,
con nuôi thứ ba của Tự Đức, lên ngôi hoàng đế
với niên hiệu là Kiến Phúc, nhưng thật sự hoàn
toàn không có quyền lực. Sau sáu tháng trị vì,
đến lượt Kiến Phúc cũng bị loại trừ bằng thuốc
độc, chỉ thọ được có 16 tuổi.
-
-
- Ba vị vua bất hạnh, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến
Phúc để lại trong lịch sử một giai đoạn mà dân
chúng gọi là „chín tháng ba vua“.
-
-
- Hai quan đại thần Nguyễn văn Tường và Tôn
Thất Thuyết chọn một hoàng tử nhỏ tuổi lên kế vị,
hầu dễ chi phối: Ưng Lịch, 12 tuổi.
-
-
- Quan toàn quyền Rheinart không đồng ý với sự
lựa chọn này, đòi triều đình Huế phải xin phép
chính thức. Thống tướng Millot gởi đại tá
Guerrier đem 600 quân lính và một đội pháo binh
nặng vào Huế để hăm dọa triều đình. Cuối cùng
triều đình nhà Nguyễn phải trình một văn bản xin
phép viết bằng tiếng Hán và chấp nhận, lần đầu
tiên trong lịch sử, là Guerrier và Rheinart đi
vào cửa chính của cung điện, trước nay chỉ dành
riêng cho hoàng đế, để tham dự lễ đăng quang của
Ưng Lịch, lấy niên hiệu là Hàm Nghi.
-
- Đây là một hành động sỉ nhục nặng nề mà
triều đình nhà Nguyễn buộc lòng phải gánh chịu.
-
-
- Trong khi đó, quan khâm sai Harmand và các
tướng lãnh của quân đội Pháp Bouet, Bichot,
Courbet, Millot, Brière de l'Isle, De Négrier,
Coronnat, Duchesne tiếp tục tấn công miền Bắc
(Tonkin). Các tỉnh Ninh Bình, Sơn Tây, Bắc Ninh,
Yên Thế (xem bài về Đề Thám, viết năm 2007),
Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang lần lượt rơi
vào tay chiếm đóng của Pháp.
-
-
- Đồng thời nước Pháp dùng thế lực ngoại giao
để cô lập Việt Nam. Qua sự trung gian của
Détring, một người Đức tại Trung Hoa, Pháp thành
công trong việc thuyết phục Trung quốc cắt đứt
tất cả mọi giúp đỡ quân sự cho Việt Nam. Hiệp
ước Thiên Tân giữa Pháp và Trung quốc được ký
ngày 18.04.1884 bởi trung tá Fournier và Lý Hồng
Chương (Trung quốc). Cũng qua hiệp ước này Trung
quốc chập nhận sự bảo hộ của Pháp tại Việt Nam
(Tonkin và Annam).
-
-
- Bị cô lập và dưới sức ép của chính quyền
thực dân, triều đình nhà Nguyễn ký hòa ước gọi
là hòa ước Patenôtre, ngày 06.06.1884, bởi
Patenôtre, Nguyễn Văn Tường, Phạm Thuận Duật và
Tôn Thất Phan. Chính hòa ước này đã cho Pháp
quyền thiết lập một chính quyền bảo hộ trên toàn
lãnh thổ Việt Nam. Kể từ đây nước Việt Nam bị
chia làm ba Kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, cai
trị bởi ba đơn vị hành chánh khác nhau, sự di
chuyển và chuyên chở trong ba kỳ bị kiểm soát
chặt chẽ, dân chúng muốn đi lại phải xin giấy
thông hành.
-
-
- Để xóa tan một cách tượng trưng thời đại nhà
Nguyễn và mối quan hệ lâu đời giữa Việt Nam và
Trung quốc, Patenôtre và Courbet, tức tối vì
không đem được bảo vật này về Pháp làm bảo vật
chiến thắng, đòi hỏi triều đình nhà Nguyễn phá
hủy chiếc ấn „Việt Nam Quốc Vương Chi Ấn“ của
Trung quốc trao cho Gia Long năm 1804, khi Trung
quốc công nhận Gia Long là hoàng đế của một nước
Việt Nam thống nhất suốt từ Bắc chí Nam. Hai
quan đại thần Tường và Thuyết ra lịnh nấu chảy
chiếc ấn to mỗi bề khoảng 10 đến 12 phân, bằng
bạc ròng bọc vàng nặng 5 kí lô 900 trước sự hiện
diện của Patenôtre và Courbet vào ngày 30 tháng
tám năm 1884.
-
- Thêm một lần nữa, một hành động nhục mạ nặng
nề gây ra bởi Patenôtre và Courbet mà người dân
Việt không quên được.
-
-
- Thời gian trôi qua, các trận đánh tiếp diễn.
-
-
- Sau khi bắt được Hàm Nghi vào tháng chín năm
1888, nhờ sự chỉ điểm của hai tên phản bội,
Nguyễn Đình Tình và Trương Quang Ngọc, tướng de
Courcy dụ hàng được quan đại thần Nguyễn văn
Tường. Hàm Nghi bị đưa đi đày ở Alger vào cuối
năm 1888, nhưng nhà vua trở thành biểu tượng của
phong trào „Cần Vương“ trong lịch sử. Nguyễn văn
Tường và gia đình bị đem đi đày ở đảo Tahiti.
Ông chết dọc đường áp tải, xác bị vất xuống biển.
Tôn Thất Thuyết chạy sang Tàu, rồi chết già ở
đấy. (Xem bài Thonac
và một bí ẩn của vua Hàm Nghi –
viết năm 2007). Hàm Nghi qua đời năm 1943 thọ 73
tuổi tại El Biar, .
-
-
- Đến lượt hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Kỷ được
Pháp đưa lên ngôi lấy niên hiệu là Đồng Khánh.
Nhưng vua Đồng Khánh, vì thái độ hợp tác với
Pháp, bị dân chúng khinh bỉ. Đồng Khánh cũng chỉ
ở ngôi được có ba năm, qua đời ngày 28 tháng một
năm 1889 vì điên loạn, được 25 tuổi. Sau này,
hai hoàng đế Khải Định và Bảo Đại, hậu duệ của
Đồng Khánh, cũng hợp tác với chính quyền bảo hộ
Pháp.
-
- Sau đó, quan toàn quyền Rheinard chỉ định
người kế vị là hoàng tử Bửu Lân, 10 tuổi, con
của Dục Đức, đang còn ở trong ngục chung với mẹ,
và cho hai quan đại thần Nguyễn trọng Hợp và
Trương quang Đản làm phụ chánh.
-
- Nguyễn Phúc Bửu Lân trở thành hoàng đế thứ
mười ngày 02.02.1889, lấy niên hiệu là Thành
Thái. Nhà vua là ông nội của Georges Vĩnh San.
-
- Tám năm sau, 1907, thấy thái độ chống đối
của Thành Thái, chính quyền thực dân hạ bệ Thành
Thái và quản thúc nhà vua ở Vũng Tàu.
-
- Thành Thái có tất cả là 45 người con (19
hoàng tử và 26 công chúa). Lúc điểm danh các
hoàng tử kế vị thì khâm sai Lévecque thấy thiếu
mất một mệ. Cậu hoàng tử nhỏ, Nguyễn Phúc Hoảng,
7 tuổi, bị cận vệ đi lục và đem đến, nhem nhuốc,
mồ hôi nhễ nhại, trình Lévecque. Cậu hoàng tử
đang mải chơi bắt dế. Thấy vẻ xơ xác, sợ hãi của
đứa trẻ, người Pháp nghĩ rằng, cậu ta sẽ trở
thành một ông vua "dễ dạy“.
-
- Cậu bé Nguyễn Phúc Hoảng lấy tên hoàng tử
Nguyễn Phúc Vĩnh San, và trở thành hoàng đế Duy
Tân, cha của Georges Vĩnh San.
-

-
-
- Georges Vĩnh San:
-
-
- "Cha tôi sinh năm 1898. Ngài được 9 tuổi
lúc đăng quang năm 1907. Nhưng trong ý nghĩ khởi
đầu một thời đại mới, năm sinh của Ngài được sửa
lại cho trùng hợp với năm bắt đầu của thế kỷ hai
mươi, 1900, bởi vậy tuổi của Ngài được tuyên bố
chính thức là bẩy tuổi."
- ...
-
- "Cũng như các anh chị em tôi, tôi mang họ
mẹ, bà ANTIER, cho đến sau khi cha tôi qua đời
ngày 16 tháng 12 năm 1945. Một quyết định của
tòa án vào ngày 22 tháng 7 năm 1946 công nhận
chúng tôi là con chính thức của hoàng tử Vĩnh
San, nhưng đồng thời họ cũng làm ngơ trước
truyền thống đặt tên của triều đình An Nam. Cần
nhấn mạnh ở đây, là trong suốt khi sinh thời và
cho đến khi qua đời, cha tôi xem như kết hôn
chính thức với cô Mai thị Vàng, người được phong
đệ nhất vương phi, con của quan Mai Khắc Đôn,
một trong những phụ đạo của cha tôi. Hội đồng
hoàng tộc ở Huế luôn luôn từ chối lời yêu cầu
xin công bố văn bản ly dị của cha tôi. „
-
- Khi cả hai vua Thành Thái và Duy Tân, cha
và con, bị áp giải đi đày trên đảo la Réunion
năm 1916, có ba bà trong hoàng tộc đi theo vua
Duy Tân: bà Nguyễn thị Định, mẹ vua, bà Mai thị
Vàng, vợ vua và bà Lưỡng Nam, công chúa em vua.
Nhưng ít lâu sau, trong năm 1917, cả ba bà đều
trở về Huế, bỏ lại Duy Tân một mình.
- ....
-
- „Năm 1916 cha tôi là một người trẻ mới
18 tuổi (tuổi thật) và Mai thị Vàng 17 tuổi (bà
sinh năm 1899) ! Thời gian hai người chung sống
với nhau rất ngắn. Nhưng Mai thị Vàng không thể
có con. Thêm vào đó, cuộc sống trên đảo la
Réunion rất cực khổ vào thời ấy. Cha tôi không
được đón tiếp đàng hoàng và chỗ ở rất thiếu
thốn. Chỗ ở của ông không có lấy một vòi nước
tắm. Bây giờ, căn nhà được sửa chữa nhiều lần,
làm đẹp, hiện đại hóa. Nhưng cha tôi không sống
trong một khung cảnh tiện nghi như thế.
-
- Hơn nữa, cha tôi không
hợp tính với cha của Ngài (Thành Thái) và muốn
sống tự lập, Ngài tách ra khỏi gia đình, thuê
một cái nhà khác. Lúc cha tôi quen biết với mẹ
tôi, thì mẹ tôi còn rất trẻ, mới có 14 tuổi,
thời ấy. Cha tôi không có tuổi thơ, cũng không
có thời niên thiếu. Ngài không thể ra ngoài chơi
bi, chơi trong các rãnh nước, gặp bạn bè tán
ngẫu... như mọi thanh thiếu niên khác. Trên đảo,
trong tình trạng lưu đày, thiếu thốn nhiều
phương tiện, nhưng Ngài không còn mang cái gánh
nặng hoàng tộc và tìm được tự do...dù bị kiểm
soát. Nhiều lần, cha tôi bị cảnh cáo bởi viên
toàn quyền, không nên ở ngoài quá khuya, vì vấn
đề an ninh cho Ngài.
-
-
- Trong cách kể của Georges Vĩnh San, tôi nhận
thấy một sự thông cảm sâu xa của một người con
đối với cha của mình. Qua tuổi tác, kinh nghiệm
và khoảng cách với thời sự nóng bỏng, người ta
thường có những cái nhìn khác về quá khứ.
-
-
- "Cha tôi chơi vĩ cầm,
nhưng cái đam mê của Ngài là truyền tin. Ngài
thiết lập các thiết bị truyền tin nơi một chỗ
khác, ngoài căn nhà ở của gia đình, và Ngài
thường ngồi say mê trước cái máy truyền tin thâu
đêm về sáng. Thường thường Ngài về nhà khoảng
một, hai giờ sáng và nhờ mẹ tôi đi mua một tô mì
tàu. Người tàu bán mì suốt ngày đêm, không ngơi
nghỉ. Là một chuyên viên vô tuyến điện, Ngài sửa
chữa tất cả các loại máy phát thanh, và đôi khi
luôn cả máy chiếu phim.
-
- Năm 1940 cha tôi bắt được
hiệu triệu kháng chiến của de Gaulle. Ngài bèn
gọi tất cả các bạn hữu và nói rằng: „ Tôi không
quen biết de Gaulle, nhưng nên theo ông, vì ông
đi đúng hướng.“ Cha tôi rất thân thiết với nước
Pháp, nhưng không phải một nước Pháp của
Pétain.“
-
-
-
- Hoàng tử Vĩnh San bị nhốt trong một trạm y
tế, nơi mà người ta nhốt người điên, trong vòng
40 ngày bởi những nhân vật chính quyền theo
chính phủ Vichy trên đảo.
-
- Nhiều nhà sử học đã viết về sự tham dự của
hoàng tử Vĩnh San trong phong trào kháng chiến
Pháp France Libre. Hoàng tử Vĩnh San được cấp
huân chương kháng chiến Pháp.
-
- Cuộc gặp gỡ lịch sử của hoàng tử Vĩnh San
với tướng de Gaulle diễn ra vào ngày 14 tháng 12
năm 1945 trong vòng khoảng một tiếng đồng hồ,
nhưng nội dung của cuộc gặp gỡ này không hề được
thông báo. Tướng de Gaulle cũng không hề có chỉ
thị về cuộc gặp gỡ này cho bộ phận sĩ quan tùy
tùng.
-
- Rất vui mừng về sự trở về Việt Nam, cùng với
tướng de Gaulle, dự kiến vào tháng ba năm 1946,
hoàng tử Vĩnh San đã thông báo tin này cho người
thân cận. Cựu hoàng Duy Tân, với những ý tưởng
mới, xứng với tên hiệu của ông, Duy Tân có nghĩa
là „bước vào thời đại mới“, hy vọng rằng, con
đường kế thừa nhà Nguyễn sẽ được tiếp nối với
những cải tổ hiện đại.
-
- Tai nạn máy bay trên đường trở về đảo la
Réunion, tìm thấy trên ngọn đồi La Lobaye cách
M'Baiki 35 cây số ngày 25 tháng 12 năm 1945
(Giáng sinh), đã chôn vùi với hoàng tử Vĩnh San
mọi ước mơ và hy vọng của triều đại nhà Nguyễn.
Duy Tân, người thông thạo hai thứ tiếng, Hán và
Pháp, hấp thụ hai nền văn hóa khác biệt, đã để
lại bản di chúc chính trị, xuất bản năm 1947.
-
- Sau khi tai nạn xảy ra, thân xác của Duy Tân
được chôn cất ngày 26.12.2945 bởi Hiệp hội công
giáo tại M'Baiki, nước Cộng Hòa Trung Phi (Phi
Châu).
-
-
-
- Georges Vĩnh San:
-
-
-
-
"Năm
1993 tại San
José ở Californie trong buổi ra mắt cuốn sách
của ông Hoàng Trọng Thược“ với tựa đề „Hồ sơ vua
Duy Tân“ và lễ tưởng niệm sau đó, khi tôi nhìn
thấy nước mắt rưng rưng của những người tham dự
buổi lễ, nỗi xúc cảm của tôi cũng dâng lên như
họ, mà tôi cũng không che dấu được.“
-
-
- De Gaulle rời chính quyền vào ngày 20 tháng
một năm 1946, chưa đầy một tháng sau cái chết
của vua Duy Tân. Về phía Pháp, hồ sơ Duy Tân
được đóng lại.
-
-
-
- Bốn mươi hai năm sau, hài cốt của Duy Tân
được bốc từ nghĩa địa ở M'Baiki và chuyển về
Huế. Lễ quốc táng long trọng được cử hành ngày
06 tháng tư năm 1987 tại Huế. Georges Vĩnh San
và các em tham dự buổi lễ trọng thể này tại cung
điện hoàng gia tại Huế. Duy Tân an nghỉ vĩnh
viễn tại An Lăng, nơi có mộ phần của cha là
Thành Thái và ông nội là Dục Đức.
-
- Duy Tân, bị truất phế bởi Pháp, nhưng không
bao giờ cáo vị, vẫn còn là hoàng đế, điều mà
chính Duy Tân đã nêu lên.
-
-
-
- Bác sĩ Didier FAGNEN viết dưới tựa đề "Hoàng
đế Duy Tân. Một niềm hy vọng lớn của Indochine –
Général de Gaulle " trên trang trên mạng của Hội
các Bác sĩ của Việt Nam ngày 10.10.2006 như sau:
-
-
-
-
Đại tướng de Gaulle có nhiều cảm
tình trân trọng đối với Ông, và quyết định sau
khi đại chiến kết thúc, năm 1945, sẽ đem Hoàng
tử về Pháp, hiện còn đang ở trên đảo La Réunion.
-
„Nếu hoàn cảnh trở nên thuận
tiện tôi ôm ấp một hoài bão bí mật. Đó là dự
tính đem lại cho cựu hoàng Duy Tân những khả
năng tái xuất hiện nếu người kế vị và cùng hoàng
tộc với Ông là Bảo Đại, không thể theo kịp sự
việc tiến triển. Đây là một nhân vật mạnh. Ba
chục năm lưu đày không xóa mờ kỷ niệm của dân
tộc Việt Nam đối với vị vương quyền này“, de
Gaulle viết như thế.
-
-
Đại tướngde Gaulle giải thích
cho đại tướng de Boissieu rằng hoàng tử Vĩnh San
chiếm một vị trí quan trọng vì ông muốn cân bằng
thế lực của triều đình Lào và Cam Bốt khi tái
lập lại ngôi vua ở Huế, một điều danh chính ngôn
thuận, và ông cho rằng Bảo Đại quá mềm yếu và
không được lòng dân.
-
Ngày 25 tháng chín năm 1945,
hoàng tử được thăng chức trưởng đơn vị. Cùng lúc
hoàng tử có những suy nghĩ về tương lai của Việt
Nam và đưa ra ba ý kiến chính yếu:
-
- Thống
nhất ba Kỳ (Tonkin- Annam- Cochinchine)
-
- Độc
lập tối cùng, sau một thời gian chuẩn bị, giao
thời
-
- Liên
hợp chặt chẽ với nước Pháp trong khuôn khổ một
Liên Hiệp Đông Dương (cùng với Lào và Cam Bốt),
mà nước Pháp lãnh trọng trách bảo vệ quân sự và
ngoại giao.
-
-
Đại tướng de Gaulle đồng ý với
chữ "tối cùng“ nhưng muốn thảo luận thêm về giai
đoạn chuẩn bị giao thời. Ông tiếp hoàng tử Vĩnh
San vào ngày 14.12.1945 và cả hai có vẻ cùng
đồng ý về những điểm chính.
-
Hoảng tử viết sau buổi gặp gỡ
này: „Xong rồi, mọi việc đã được quyết định,
chính quyền Pháp đưa tôi trở về ngai vàng Annam.
De Gaulle sẽ đi cùng với tôi khi tôi trở lại nơi
ấy, có thể là trong những ngày đầu của tháng ba
1946. Từ giờ đến đó, sẽ tổ chức thông báo dư
luận của Pháp và Đông Dương; ngày mai đây, tại
Huế, Hà Nội, Saigon, hai lá cờ sẽ phất phới bên
nhau: lá cờ ba màu của Pháp và lá cờ của Việt
Nam với ba sọc ngang tượng trưng cho ba miền“.
-
Hoàng từ hãnh diện "sẽ trở về
quê nhà của mình như khi de Gaulle trở về
Bayeux“.
-
-
-
-
- Nước Pháp suy yếu và trở thành vô tổ chức
sau thời gian bị Đức Quốc Xã chiếm đóng trong
đại chiến thứ hai 1939-1945. Trong khi de
Gaulle, Sainteny và Leclerc tìm kiếm và tìm thấy
một giải pháp hòa bình về chủ đề một Việt Nam
độc lập, tự do trong Liên Hiệp Pháp, thì lời
tuyên bố thừa thãi và vụng về của đô đốc Thierry
d'Argenlieu thành lập chính phủ Cộng Hòa
Cochinchine (la république de Cochinchine) vào
ngày 01.06.1946, gần sáu tháng sau khi de Gaulle
từ chức, đã làm bùng cháy ngọn lửa chiến tranh,
chỉ được dập tắt tám năm sau.
-
-
-
- Một cuộc tranh cãi về lịch sử bắt đầu từ đó
và cũng chứa chấm dứt, trên câu hỏi là có phải
đô đốc d'Argenlieu chỉ tuân theo mệnh lệnh của
de Gaulle, hay d'Argenlieu tự ý quyết định, lãnh
tránh nhiệm lịch sử, sau khi de Gaulle không còn
quyền lực, năm 1946. Những người trung thành với
trường phái chính ttị của de Gaulle đưa ra lập
luận, de Gaulle, một khi đã rời khỏi chính
quyền, đã không còn quyết định về nhưng vấn đề
chính trị đang diễn ra hay sắp diễn ra, như ông
đã có cùng một thái độ năm 1969.
-
-
-
- Hai chi tiết lịch sử khác làm tăng thêm một
sự nuối tiếc cho một giải pháp hòa bình, đã
không thực hiện được trong giai đoạn ấy:
Sainteny là người có nhiều tình cảm thân hữu với
chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại tướng Leclerc, một
thiên tài quân sự, vậy mà lại chủ trương ưu tiên
cho một giải pháp ngoại giao và chính trị !
-
-
-
- Trận chiến Điện Biên Phủ bắt đầu ngày 13
tháng ba năm 1954 và chiến thắng mang tên đại
tướng Võ Nguyên Giáp. Ngày 15 tháng năm 1955 thì
toán lính Pháp cuối cùng rời khỏi mảnh đất Việt
Nam vĩnh viễn. Kể từ khi Rigault de Genouilly
tấn công vào cảng Đà Nẵng năm 1847 thì công cuộc
xâm lăng bảo hộ của chính quyền thực dân Pháp
tại Việt Nam đã kéo dài 108 năm.
-
-
-
- Vinh San, một cái tên lịch sử đè nặng lên
các hậu duệ của nhà vua, nhưng không thể bị quên
lãng !
-
-
-
- ©MathildeTuyetTran, France 01.05.2008
-
-
- * với sự đồng ý của ông Georges Vĩnh San
-
-
- © http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org Mathilde
TuyetTran
|
|
|