| |
|
Giải ảo
lịch sử về Huyền Trân công chúa
30/09/2014 Huyền Trân công
chúa là một trong những người phụ nữ nổi
tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, được đời
sau nhắc đến cùng với những yếu tố đậm chất
trữ t́nh của một cuộc hôn nhân ngoại giao và
mối quan hệ ly kỳ, trái khoáy với Thượng thư
Tả bộc xạ Trần Khắc Chung. Bài viết của
chúng tôi, xuất phát từ việc phân tích các
nguồn sử liệu và kế thừa các ư kiến của
người đi trước, sẽ thảo luận về những điểm
không logic trong những sự kiện được ghi lại
về nhân vật lịch sử này.
Lễ hội đền Huyền Trân công chúa được tổ chức
hằng năm vào ngày mồng chín tháng Giêng, tại
Trung tâm Văn hóa Huyền Trân, phường An Tây,
thành phố Huế.
Bài viết
v́ vậy khởi đầu bằng việc trích dẫn
nguyên văn những ǵ mà Đại Việt sử
kư toàn thư (từ dưới đây gọi tắt là
Toàn thư) đă chép1.
(...)
[1305], tháng 2, Chiêm Thành sai Chế
Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người
dâng hiến vàng bạc, hương quư, vật
lạ làm lễ vật cầu hôn. Các quan
trong triều đều cho là không nên,
duy có Văn Túc Vương Đạo Tái chủ
trương bàn việc đó, Trần
Khắc Chung tán thành, việc bàn mới
quyết.
(...)
[1306], (...). Mùa hạ, tháng 6, gả
công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm
Thành Chế Mân.
(...)
[1307], (...). Mùa hạ, tháng 5, chúa
Chiêm Thành Chế Mân chết. (Tháng 9)
Thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ
thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng.
Mùa đông,
tháng 10, sai Nhập nội Hành khiển
Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc
Chung, An phủ Đặng Văn sang Chiêm
Thành đón công chúa Huyền
Trân và thế tử Đa Da về.
Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết
th́ bà hậu của chúa phải vào giàn
thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ
công chúa bị hại, sai bọn Khắc
Chung, mượn cớ là sang viếng tang và
nói với [người Chiêm]: “Nếu công
chúa hỏa táng th́ việc làm chay
không có người chủ trương, chi bằng
ra bờ biển chiêu hồn ở ven trời, đón
linh [23a] hồn cùng về, rồi sẽ vào
giàn thiêu”. Người Chiêm nghe theo.
Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy
công chúa đem về, rồi tư thông với
công chúa, đi đường biển loanh quanh
chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh
đô. Hưng Nhượng Đại Vương ghét lắm,
mỗi khi thấy Khắc Chung th́ mắng phủ
đầu: “Thằng này là điềm chẳng lành
đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần
Khắc Chung th́ nhà Trần rồi mất về
nó chăng?”. Khắc Chung thường sợ hăi
né tránh2.
Dựa trên
những ghi chép trong Toàn thư,
hàng loạt các sử thần trung đại cho
đến các sử gia hiện đại đă mặc nhiên
coi những ghi chép trên là không c̣n
điều ǵ phải bàn căi. Các nhà văn,
nhà thơ nhiều đời cũng dựa vào đó để
sáng tác thơ ca, và viết nên những
pho tiểu thuyết lịch sử về mối t́nh
oan trái mang tính tay ba của Huyền
Trân - Chế Mân - Trần Khắc Chung.
Cho đến năm 2013, giáo sư Keith W.
Taylor vẫn nhắc lại câu chuyện trên
mà không có chút nghi vấn ǵ về tính
chất sử liệu và những điểm khúc
khuất đằng sau chuyện này3.
Những sử
liệu về cuộc hôn nhân giữa Huyền
Trân và Chế Mân ở trên có thể thấy
là đă được nh́n qua lăng kính của
người đời sau, cụ thể là qua lăng
kính của Ngô Sĩ Liên với lối sử b́nh
đậm đà tinh thần Nho giáo. Nếu tính
từ thời điểm năm 1306 đến năm Ngô Sĩ
Liên soạn Toàn thư (nửa
cuối thế kỷ XV), quăng cách thời
gian khoảng 150 năm, chúng ta không
biết Ngô Sĩ Liên đă biên soạn đoạn
này trên cơ sở những nguồn sử liệu
nào. Nhưng như những ǵ chúng tôi đă
từng chứng minh, có một nguồn tiếp
thu khá quan trọng của Toàn thư,
đó là truyền thuyết dân gian, như
trường hợp “chú bé mồ côi- cờ lau
dựng nước” của Đinh Bộ Lĩnh chẳng
hạn4.
Có hay
không chuyện Huyền Trân bị hỏa táng?
Như sử liệu trong Toàn thư
th́ lúc Chế Mân chết có khả năng
Huyền Trân đang mang thai.
V́ sao chúng tôi suy luận như vậy?
Bởi theo Toàn thư, đến
tháng chín, Thế tử Chiêm Thành Chế
Đa Da sai sứ thần mang voi trắng đến
tiến cống. Nhiều người nghĩ rằng,
lúc này Chế Đa Da “sai sứ” thật,
hoặc như Ngô Th́ Sĩ lại đồng nhất
Chế Đa Da là Chế Chí (sic, con của
Chế Mân, anh của Chế Đà A Bà Niêm,
Chế Chí là vua nối ngôi sau Chế Mân).
Nhưng thực ra, đây là một nghi lễ
ngoại giao với hàm nghĩa báo tin
cháu ngoại của Trần Nhân Tông (tức
Chế Đa Da) chào đời. Bởi ngay đoạn
sau đó, Toàn thư ghi rằng
đoàn Trần Khắc Chung sang đón Huyền
Trân và thế tử Chế Đa Da về. Như vậy,
Chế Đa Da có khả năng sinh vào tháng
Tám năm đó. Tức là khi Chế Mân mất,
Huyền Trân mới mang thai Đa Da
khoảng bốn tháng. Không có lư ǵ lại
đưa một sản phụ cùng đứa con trong
bụng lên giàn hỏa thiêu?
Mặt khác,
theo Po Dharma, những ghi chép về
tục lệ hỏa thiêu của Chiêm Thành (trong
Toàn thư) là không chính
xác. Thứ nhất, nếu theo truyền thống
Champa, chỉ có bà hoàng hậu chính
thức mới được phép huỷ thân trên
giàn hỏa với đức vua quá cố. Chữ
“chính thức” ở đây nghĩa là “một
người có ḍng máu hoàng gia Champa”
- một hoàng gia với chế độ mẫu hệ (chứ
không phải là mẫu quyền)5.
Trong khi đó, Huyền Trân (được phong
làm hoàng hậu Paramecvari) chỉ là vợ
thứ ba của Chế Mân, hoàng hậu cả là
người Chăm, bà hai là người gốc Jawa.
Thứ hai, theo Dominique Nguyen (tức
Nguyễn Đố), tục lên giàn hỏa là một
vinh dự lớn lao chỉ dành riêng cho
bà hoàng hậu nhằm bày tỏ ḷng thủy
chung của ḿnh đối với chồng, với
điều kiện phải được hội đồng hoàng
gia chấp thuận. Ông cũng cho biết,
trong suốt 18 thế kỷ của tiến tŕnh
lịch sử ở Champa, người ta đă ghi
nhận chỉ có vài bà hoàng hậu được
nhận ân huệ của hội đồng hoàng gia
để lên hỏa đàn chết theo chồng. Thứ
ba, theo luật Champa, lễ hỏa táng
vua mới mất được thực hiện trong
ngày đẹp nhất trong ṿng một
tháng sau khi vua băng hà. Như
vậy, lễ hỏa thiêu đó có lẽ phải được
thực hiện trong tháng Năm hoặc đầu
tháng Sáu năm 1307, trong khi đó, sứ
đoàn Trần Khắc Chung khởi hành vào
tháng 106.
Từ những
lư do như trên, chúng tôi cho rằng,
không có chuyện Huyền Trân bị hỏa
thiêu, v́ thế cũng không có chuyện
giải cứu Huyền Trân như Toàn thư
đă viết.
Có hay
không chuyện Huyền Trân ám sát Chế
Mân?
Với
những lư lẽ đưa ra về nghi thức và
thể chế tùy táng trong Hoàng gia
Champa, Dominique Nguyen có đưa ra
giả thuyết khá thú vị rằng Huyền
Trân đă thực hiện âm mưu ám sát Chế
Mân. Ông viết như sau: “Chúng tôi
không nói là Huyền Trân ám hại Chế
Mân, nhưng chỉ đặt vấn đề ở đây có
chăng Huyền Trân đă làm một việc
phạm pháp nào đó có liên hệ đến cái
chết của Chế Mân thành ra mới t́m
cách chạy trốn. Chính đây mới là
ch́a khóa quan trọng trong vụ t́nh
sử vô cùng bí ẩn của Chế Mân và
Huyền Trân.”7
Dominique Nguyen cũng dùng các chữ
“dùng mưu gian trá” cướp công chúa
về Thăng Long để liệt Ngô Sĩ Liên
vào người cùng quan điểm. Nhưng
dường như nhà nghiên cứu này đă đi
quá xa với giả thuyết của ḿnh, khi
ông đưa ra kết luận rằng: “Một khi
giải pháp quân sự không c̣n hiệu
nghiệm để chinh phạt Champa nữa, vua
chúa Đại Việt lại nghĩ đến mưu đồ đê
tiện hơn, đó là dùng mỹ nhân kế để
phục vụ cho ư đồ chính trị. V́ quyền
lợi chung của dân tộc, vua chúa Đại
Việt không cần nghĩ đến thế nào là
danh dự của một quốc gia, dù là quốc
gia hùng mạnh gấp bội so với lực
lượng quân sự Champa thời đó. Năm
1306, vua Trần Nhân Tông t́m cách
dâng hiến con gái của ḿnh là Huyền
Trân cho vua Chế Mân, một quốc vương
nước ngoài mà tuổi đă già, để đổi
lấy hai châu Ô và Lư. Ngô Sĩ Liên,
tác giả của ĐVSKTT là người đầu tiên
đă lên án nhà Trần. V́ ḷng tham lam
một mảnh đất ở châu Ô và Lư, vua
Trần Nhân Tôn không c̣n biết đâu là
thể diện của vương quốc Đại Việt để
rồi bán đứng trinh tiết con gái của
ḿnh cho một người không cùng giống
ṇi.”8
Cứ cho
rằng Huyền Trân ám sát Chế Mân, th́
chúng ta buộc phải trả lời hàng loạt
câu hỏi. V́ sao Huyền Trân phải giết
chồng ḿnh và cha đứa trẻ mà ḿnh
mang trong bụng? Nếu đă giết Chế Mân,
th́ làm sao có thể thoát được tội
chết? Chế Mân chết th́ Đại Việt được
ǵ, Huyền Trân được ǵ? Hay là sau
khi Chế Mân chết, cuộc đời Huyền
Trân cũng sụp đổ để cuối cùng năm
1308, bà cắt tóc đi tu, c̣n Đại Việt
và Champa lại rơi vào hai chiến
tuyến với những cuộc chiến tranh
liên tiếp kể từ năm 1311.
Thế
nhưng, cũng chính theo Dominique
Nguyen, “bà Tapasi, hoàng hậu gốc
người Jawa cũng trở về nước sau ngày
Chế Mân từ trần.”9 Như
vậy th́ việc các bà hoàng hậu người
ngoại quốc trở về nước ḿnh là một
nghi thức mang tính chế định của
triều đ́nh Champa. Việc Huyền Trân
cùng con trai Chế Đa Da trở về Đại
Việt là theo thông lệ ngoại giao, có
sự ủng hộ và thỏa thuận giữa hai
nước. Theo sự kiện mà Toàn thư
đă ghi về việc cống voi trắng của
Chế Đa Da, th́ rơ ràng đoàn cống sứ
này ngoài việc báo tin “đản sự” (sinh
hạ thế tử), c̣n mang thêm thông tin
“gợi ư” cho triều đ́nh Đại Việt sang
Champa đón công chúa và thế tử trở
về. Đó chính là lư do khiến đúng một
tháng sau, đoàn Trần Khắc Chung đến
Champa. Mặt khác, theo quan niệm của
Hoàng gia Champa (một hoàng gia theo
chế độ mẫu hệ), th́ Chế Đa Da (dù là
con trai, dù là thế tử) th́ cũng chỉ
là một kẻ “khác máu” - không có giá
trị huyết thống và cũng không có tư
cách để thừa kế bất kỳ thứ ǵ từ
triều đ́nh đó10. Việc trả
Chế Đa Da về Đại Việt cùng với Huyền
Trân là một việc không có ǵ đáng
phải bàn căi.
Như vậy,
giả thuyết Huyền Trân ám sát Chế Mân
của Dominique Nguyen chưa có cơ sở.
Và v́ thế cũng không có chuyện nhóm
Trần Khắc Chung phải lập mưu cướp
công chúa về Đại Việt. Toàn thư
đă chép đoạn này trên một truyền bản
tin đồn hoặc huyền thoại thất thiệt
(fakelore) vào đời sau. Câu chuyện
đó chỉ có ư nghĩa đối với những sáng
tác văn học mà hầu như lại rất có
hại đối với lịch sử và sử học.
Và mối
t́nh huyền thoại
Dựa trên
những ghi chép trong Toàn thư,
các nhà văn, nhà thơ thời hiện đại
đă sáng tác rất nhiều câu chuyện văn
học xung quanh cuộc t́nh giữa Huyền
Trân và Trần Khắc Chung. Nhiều người
đă dựng nên câu chuyện t́nh ngang
trái giữa cặp trai tài gái sắc: hai
người có t́nh cảm từ trước đó, nhưng
do lệnh của hoàng đế Nhân Tông, nên
đành “gác lại t́nh riêng v́ việc
nước”11.
Trước
nhất là chuyện “trai tài gái sắc”.
Các nhà biên soạn có thể viện dẫn
rằng có thể hư cấu một số t́nh tiết
trong các tác phẩm nghệ thuật lịch
sử (tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch
sử). Nhưng theo chúng tôi, những hư
cấu nghệ thuật bao giờ cũng nên căn
cứ trên logic lịch sử. C̣n ở đây,
chuyện “trai tài gái sắc” là cố gắng
“gọt chân cho vừa giày” để biện minh
cho “tính chính đáng” của mối quan
hệ giữa hai người. Xét về tuổi th́
Huyền Trân sinh năm 1287, trong khi
vào thời điểm này, Trần Khắc Chung
đă là một trụ cột của triều đ́nh Đại
Việt trong hai cuộc kháng chiến
chống Nguyên Mông (lần hai và ba),
năm 1288 v́ có tài ngoại giao, Khắc
Chung đă sang sứ nhà Nguyên. Như vậy,
về tuổi tác, Khắc Chung hơn Huyền
Trân quăng 20- 30 tuổi.
Mặt khác,
như sử liệu đă dẫn trong Toàn
thư, Trần Khắc Chung chính là
người thuộc phe ủng hộ Trần Nhân
Tông gả Huyền Chân sang Chiêm Thành.
Cho nên, nhiệm vụ đi đón Huyền Trân
được giao cho ông là điều dễ hiểu.
V́ thế không có chuyện “mượn cớ
viếng tang để cướp công chúa về nước”.
Chúng tôi cũng nhắc lại một lần nữa
rằng, đoạn chép trong Toàn thư
từ “theo tục lệ Chiêm Thành,..” đến
“Khắc Chung thường sợ hăi né tránh”
là đoạn có thể được biên soạn thông
qua một nguồn tin phi chính thống.
Bởi đoạn này mâu thuẫn với những chi
tiết ở đoạn trên như đă phân tích.
Với lời b́nh luận của Ngô Sĩ Liên,
đoạn này có khả năng đă xuất hiện
muộn nhất từ giữa thế kỷ XV (cách
thời điểm xảy ra sự kiện 150 năm).
Thêm nữa,
như trên đă phân tích, khi lên
thuyền về Đại Việt, Huyền Trân lúc
ấy mới sinh con được vài tháng, tức
là lúc đó có khả năng c̣n đang ở cữ12.
Thuyền đưa Huyền Trân về nước cũng
không phải là kiểu “thuyền nhẹ“ (như
Toàn thư ghi) chỉ chở được
một vài người để rồi mối t́nh nảy
sinh trong quá tŕnh lênh đênh sóng
nước, mà thuyền ấy phải chở cả một
đoàn gồm: Thượng thư Tả bộc xạ Trần
Khắc Chung (trưởng đoàn), An phủ
Đặng Văn (phó đoàn), cùng các tùy
ṭng, thủy thủ đoàn, thị nữ (để hầu
hạ hoàng hậu),... tổng cộng cũng
phải vài chục người.
Rồi như
ta biết, Huyền Trân xuất gia năm
1308, sau khi về nước một năm. C̣n
Trần Khắc Chung có khả năng cao cũng
là một người theo Phật, hiểu Phật,
cho nên ông mới được vua Trần Anh
Tông (1276 – 1320) sai viết lời bạt
cho sách Thượng Sĩ ngữ lục
của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230- 1291)13,
thầy của đức Điều Ngự Giác Hoàng
Trần Nhân Tông. Đến cuối đời, Trần
Khắc Chung và vợ - Công chúa Bảo
Hoàn - đă cúng ruộng trang Ma Liêu (Đông
Triều) của ḿnh làm của Tam Bảo để
nghĩa đệ của ḿnh là sư Hương Lâm
trông coi14.
Dẫu biết
rằng thời nhà Trần, quan hệ t́nh ái
khá phóng khoáng. Nhiều người cũng
có thể giữ quan điểm cho rằng trên
đời có chuyện ǵ mà không xảy ra.
Mối quan hệ Huyền Trân- Khắc Chung
có thể có mà cũng có thể không. Thực
tế lịch sử thế nào, không ai dám nói
chắc chắn. Người nghiên cứu chỉ dựa
trên sử liệu, c̣n sử liệu th́ lại
được tạo tác bởi nhiều động cơ và
mục đích khác nhau. Trần Nhân Tông
từng bị người đương thời đàm tiếu v́
tội gả con gái cho loài man di mọi
rợ, hay Trần Khắc Chung bị chửi rủa
như loài “chó lợn” (chữ của Ngô Sĩ
Liên) v́ đă động đến công chúa.
Nhưng đến thế kỷ XX, người th́ được
tung hô v́ đem lại hai mảnh đất cho
Việt Nam, người th́ được ngợi ca bởi
việc phá bỏ gông cùm phong kiến, mở
đường cho luyến ái cá nhân. Sau
nhiều thế kỷ, Huyền Trân công chúa
đă đi vào thần điện Việt Nam, trở
thành một vị nữ thần được thờ phụng.
Để kết thúc bài viết này, xin trích
lại lời của bà Trương Mỹ Hoa, nguyên
Phó Chủ tịch nước, khi viếng thăm
đền thờ Huyền Trân công chúa: “Có
những vấn đề của phụ nữ phải được
giải quyết từ quốc gia, có những vấn
đề của quốc gia phải giải quyết từ
người phụ nữ”. Lịch sử không chỉ
sống động bởi sự biến động của các
nguồn sử liệu mà c̣n bởi những mục
đích mà người đời sau sử dụng nó,
một cách hữu thức và vô thức.
-------------------
1 Do
độ dài hạn chế, chúng tôi chỉ lược
dẫn. Các đoạn lược bỏ để trong
(...). Một số thông tin đáng chú ư
sẽ được in đậm.
2
Chính Ḥa thứ mười tám (1697).
Đại Việt sử kư toàn thư. Nội
các quan bản. Bản khắc in. Bản dịch.
1998. Tập 2. Nxb Khoa học Xă hội. Hà
Nội. tr.90-92.
3Keith
Weller Taylor. 2013. A History
of the Vietnamese. Cambridge
University Press. New York. pp.141.
4Trần
Trọng Dương. 2013. Đinh Bộ Lĩnh:
huyền thoại và lịch sử. Tạp chí
Tia Sáng. Số tháng 7/2013.
5Po
Dharma. 2007. Góp phần t́m hiểu
lịch sử Champa. http://www.champaka.info
6Chính
Ḥa thứ mười tám (1697). Đại
Việt sử kư toàn thư. Nội các
quan bản. Bản khắc in. Bản dịch.
1998. Tập 2. Nxb Khoa học Xă hội. Hà
Nội. tr.91.
7Dominique
Nguyen. 2008. 700 năm cuộc t́nh
Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa.
Champaka số 09/ 2008. tr.40-56.
www.champaka.info
8Dominique
Nguyen. 2008. bđd.
9Dominique
Nguyen. 2008. bđd.
10“Như
thế không hẳn Chế Đa Da ở lại sẽ làm
chúa Chiêm Thành mà sự kiện cậu bé
về quê ngoại sẽ chỉ là đánh dấu chấm
dứt một giai đoạn ḥa hoăn của hai
nước v́ t́nh thế bên ngoài trong khi
các vấn đề bên trong giữa hai nước
vẫn chưa giải quyết được. Xung đột
trở lại là điều tất yếu”. [Tạ Chí
Đại Trường. 2009. Bài sử khác
cho Việt Nam. Văn Mới. USA.
Tr.257].
11Viết
Linh. 2005. Chuyện t́nh Huyền
Trân công chúa (Tiểu thuyết
lịch sử). NxbThanh niên. Hà Nội.
Trần Kim Bằng (s.t).
2008. Chèo cổ Trần Huyền Trân.
- Nxb Hà Nội. Hoàng Giác. 1949.
Huyền Trân (nhạc): - In lần thứ 1. –
Nxb Thế giới. Hà Nội.
Hoàng Quốc Hải.
1993.Huyền Trân công chúa (Tiểu
thuyết lịch sử) - In lần 2 có bổ
sung. Nxb Phụ nữ. Hà Nội.
Phạm Minh Thảo.
2007. Huyền Trân công chúa.
Nxb Văn hoá Thông tin. Hà Nội.
Phạm Huy Thông.
1936. Huyền Trân công chúa.
Impr. de Lê Cường. Hà Nội.
Sĩ Tiến. 1942.
Huyền Trân công chúa. (Ca
kịch lịch sử). Hương sơn. Hà Nội.
B́nh An. 1988.
Huyền Trân công chúa (Truyện
tranh); Minh hoạ: Văn Hiếu. Nxb Tổng
hợp Sông Bé. Sông Bé.
Ngọc Đức, Văn Án.
2008. Huyền Trân công chúa Trần
triều. Nxb Văn hoá dân tộc. Hà
Nội.
12Xem
thêm một số biện luận thú vị khác:
“theo phong tục tập quán của người
Việt Nam thời gian “Phong Long” là
ba tháng mười ngày, người ta thường
thường có thói quen treo trước pḥng
sản phụ một nắm lá cây có cây xương
rồng, đó là một dấu hiệu, nhắc nhở
cho người đàn ông biết chỉ được phép
vào pḥng vợ và tư thông sau khi cây
xương rồng này khô đi!“ Lê Vy. Sự
thật Huyền Trân công chúa “tư thông”
với Trần Khắc Chung. (http://www.tinmoi.vn/su-that-huyen-tran-cong-chua-tu-thong-voi-tran-khac-chung-011275185.html)
13Nguyễn
Huệ Chi (chủ biên). 1988. Thơ văn Lư
Trần (Tập II, Quyển Thượng). Nxb
KHXH. H. tr. 593-596.
14Trần
Quốc Cương (viết). 1348. Thiên Liêu
sơn Tam Bảo địa. Đặt tại núi Thiên
Liêu (núi Thung) xă Yên Đức, huyện
Đông Triều. Quảng Ninh.
Nguồn: Nguyên Khôi - Tia Sáng
Post ngày:
10/19/17 |
|