|
- Hai danh tướng Đinh Lễ và Lê Lễ
- (Ông Đinh Lễ và
ông Lê Lễ, danh tướng của Vua Lê Thái Tổ, là hai người khác nhau)
I) Danh tướng Đinh Lễ là cháu gọi Vua Lê Thái Tổ bằng cậu
Danh tướng Đinh Lễ là cháu gọi Vua Lê Thái Tổ bằng cậu . Vì vua Lê
là con út và vì Đinh Lễ , Đinh Liệt (em Đinh Lễ) có dự hội thề Lũng
Nhai năm 1416, nên ta có thể đoán rằng Đinh Lễ chỉ kém vua Lê khoảng
10 tuổi. Tức là, năm đó Đinh Lễ khoảng 22 tuổi, Đinh Liệt khoảng 19
tuổi; còn ông Lê Khôi khoảng 17 tuổi, còn trẻ, không dự hội thề (?).
Hai năm sau, Vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa, ông Lê Khôi vừa trưởng thành,
vừa kịp theo Thái Tổ lập công vì nước.
Tính tuổi của ông Đinh Lễ cũng là một yếu tố để phân biệt với ông Lê
Lễ.
Khi Vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa, nhà vua có 4 viên cận tướng cũng là 4
người cháu của vua: Lê Thạch, Lê Khôi ( hai vị này gọi vua bằng chú),
Đinh Lễ, Đinh Liệt (gọi vua bằng cậu).
Nhà vua còn có nhiều viên cận tướng thân thích nữa, như : Lê Lễ,
Nguyễn Xí, Trịnh Khả . . . những ông này thân thích với vua vì lý do
khác.
II) Một nghìn gia đinh thành quân lính và tướng sĩ
Khi Vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa, một nghìn gia đinh của vua trở thành
quân lính và tướng sĩ. (Nói cho chính xác thì vài trăm người thành
quân tướng, còn lại là những người yếu đuối, không có khả năng chiến
đấu _-vì lòng trung thành với chủ nhân, họ vẫn tự nguyện theo Vua Lê
Thái Tổ tòng chinh)
Điều này ai cũng biết. Nhưng ít người để ý và nhận ra rằng trong
những tướng sĩ đó, nhiều người trở thành những danh tướng lưu danh
thiên cổ.
Họ đều do vua hoặc anh của vua là ông Lê Học, huấn luyện mà thành!
Một trong những vị tướng này là ông Lê Lễ.
III) Danh tướng Lê Lễ là gia thần nối đời của nhà Vua Lê Thái Tổ
Danh tướng Lê Lễ là gia thần nối đời của nhà Vua Lê Thái Tổ . Xin
nói trắng ra để dễ hiểu: ông Lê Lễ là nô bộc nối đời của họ Lê, phụ
đạo ở Lam Sơn. Vậy họ Lê có thể xem là họ thật của ông; vì người
giúp việc nối đời, thường lấy họ của chủ nhân làm họ mình.
Người đọc sử thường lẫn lộn ông Lê Lễ với ông Đinh Lễ, vì ông Đinh
này được quốc tính nên cũng gọi là Lê Lễ. Lại thêm Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư không giải thích rõ ràng, nên người đọc lại càng hoang mang.
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục:
{{ . . . Tháng 4, mùa hạ. Nhập nội thị trung đình thượng hầu Lê Lễ
chết.
Lê Lễ, sức vóc khoẻ hơn người, nối đời làm thần bộc nhà Lê Thái Tổ.
Khi mới khởi nghĩa, Lễ có nhiều công trong việc giúp Bình Định vương
thoát khỏi vòng vây, vượt qua nguy hiểm.}}
IV) Danh tướng Đinh Lễ chết vì khinh địch
Danh tướng Đinh Lễ chết vì khinh địch, trích Đại Việt Sử Ký Toàn Thư:
{{Trước đó, ngày mồng 9, Tư không Lê Lễ, thượng tướng quân Lê Xí
đánh nhau với quân Minh ở My Động (nay là Hoàng Mai. Lễ tử trận.
Hôm ấy, Vương Thông đem quân tinh nhuệ trong thành ra đánh Thái giám
Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt. Nguyễn giữ vững thành lũy chống lại. Vua
vội sai Lê Lễ, Lê Xí đem hơn 500 quân Thiết đột đến đánh , đuổi giặc
tới My Động. Vương Thông thấy Lễ ít quân, mới đánh kẹp vào. Lễ và Xí
cưỡi voi cố sức đánh, voi sa lầy, bị quân Minh bắt sống đem vào
thành Đông Quan. Lễ không chịu khuất phục, bị giết chết. Xí về sau
nhân đêm mưa gió, dùng mẹo đánh lừa tên canh giữ, chạy thoát về, ra
mắt vua ở dinh Bồ Đề. Vua kêu lên: "Sống lại".
Trước kia, mỗi lần Lễ ra trận, vua thường răn chớ nên khinh địch.
Đến khi thắng trận ở Tốt Động, mọi người đều khen Lễ là giỏi. Vua
nói: "Trăm trận đánh được cả trăm không phải là điều hay cả đâu. Hắn
cậy quân tinh quen mùi được luôn, thất bại có thể đứng mà chờ đó!".
Đến đây quả nhiên như vậy}}
Lê Lễ, ở đây, là Đinh Lễ, Lê Xí là Nguyễn Xí.
Vua Lê Thái Tổ phong cho năm người vợ của Đinh Lễ chức Tông Cơ (mục
đích để các quả phụ có bổng lộc) và thăng quan cho Đinh Liệt, để đền
ơn Đinh Lễ đã chết vì nước.
V) Danh tướng Lê Lễ, công thần thứ 12
Kỷ Dậu, [Thuận Thiên] năm thứ 2 [1429], tháng 5, ngày mồng 3, ban
biển ngạch công thần cho 93 người, tướng Lê Lễ được xếp vào công
thần thứ 12, tước đình thượng hầu .
Công thần thứ 12 là rất cao cấp :
1) Đinh Liệt, cháu gọi vua bằng cậu, là công thần thứ 10, cũng tước
đình thượng hầu
2) Lê Trãi là công thần thứ . . . 37, tước Á hầu (Á hầu cao hơn Quan
phục hầu).
Chú Thích năm 2008 :
Nguyễn Trãi là công thần thứ . . . 80-93 (từ 80 đến 93), tước Quan
phục hầu. Trần Trãi là công thần thứ 37, có mặt từ lúc đầu khởi
nghĩa
Lý do:
_Ức Trai là kẻ đến sau, theo vua từ Lỗi Giang, không trải qua những
gian khổ muôn vàn ở mấy năm đầu khởi nghĩa.
_Ức Trai là văn quan, kém công các võ tướng: Vua Lê Thái Tổ quá ít
quân, mỗi trận đánh đều tùy thuộc vào dũng lược của người tướng.
_các võ tướng của Vua Lê Thái Tổ giỏi lược thao : nhà vua đã huấn
luyện nhiều trước khi khởi nghĩa, lại thêm mỗi trận đánh nhà vua đều
có giảng binh pháp cho các tướng.
VI) Tình nghĩa của Vua Lê Thái Tổ
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư :
{{ [1449] Mùa hạ, tháng 4, khôi phục tước Tự Hiệu hầu và chức. Nhập
nội thị trung cho Thái tử thiếu bảo Lê Lễ. Hôm ấy, Lễ chết.
Lễ suốt đời làm gia thần cho Thái Tổ, rất được tin dùng, sớm tối hầu
chầu, không lúc nào rời bên cạnh, dốc lòng trung trinh, có sức hơn
người. Khi Thái Tổ khởi nghĩa, vợ cả vợ lẽ bị hoạn nạn mà vua phá
vòng vây, thoát khỏi nguy hiểm, phần nhiều là công của Lễ.
Thái Tổ thường khen ông và từng nói: "Nếu dồn mọi công lao lại thì
ngôi tể tướng chẳng ngươi còn ai? Trẫm có tiếc gì với ngươi, chỉ vì
tài của ngươi không xứng mà thôi".
Đến khi sắp băng, khóc bảo Lễ rằng: "Nếu trẫm không còn thì còn ai
biết khanh nữa, sợ từ đây về sau bị giáng truất mà thôi!". Sau bị
Nguyễn Thị Lộ gièm, phải giáng làm Thái tử thiếu bảo, đúng như Thái
Tổ đã nói.}}
Hình như đây là lần thứ nhì, mà vua Lê Thái Tổ khóc. Và là lời khóc
trăng trối.
Lưu Bị khóc rất nhiều : khóc được vợ, khóc được nước và khi sắp mất
khóc trối trăng với Gia Cát Lượng để cho người ta phò tá con mình.
Vua Vua Lê Thái Tổ khóc ít hơn nhiều, mà lời khóc trăng trối không
khóc vì cơ nghiệp nhà Lê, không khóc vì lợi. Vua Thái Tổ khóc vì sợ
gia thần trung thành của mình sẽ bị bạc đãi. Thật là chuyện cổ kim
có một.
Nên nhớ rằng bọn gian hùng làm chánh trị ngày xưa :
_coi tướng sĩ như đồ dùng, hết việc thì giết (‘điểu tận cung tàn’)
_nhất là coi gia nhân như giẻ rách (gia nhân mà có trung thành thì
họ coi đó là việc dĩ nhiên)
Vua Lê Thái Tổ thì không thế. Vì nhà vua là bậc đại anh hùng.
Đoạn văn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ở trên nói lên được tình nghĩa của
Vua Lê Thái Tổ. Lê Lễ xuất thân là gia nhân mà được Vua Thái Tổ coi
trọng, xem như người thân thích nhất. Rõ ràng là vị vua này trọng
nghĩa khinh tài, khinh giai cấp.
Vua Lê Thái Tổ liệu việc rất đúng. Lê Lễ quả bị bạc đãi .Cũng đáng
ngạc nhiên là người ta chẳng nể lời Vua Thái Tổ.
Đối với các tướng khác, tình nghĩa của Vua Lê Thái Tổ cũng rất đậm
đà. Chẳng phải vô cớ mà người xưa gọi nghĩa quân Lam Sơn là "quân
cha con".
Tình nghĩa của Vua Lê Thái Tổ rất đậm đà. Nhà vua tranh đấu gian khổ,
lo nghĩ nhiều chuyện, lao tâm quá độ. Nên mới 49 tuổi đã băng.
VII) Lê Lễ hơn Vua Lê Thái Tổ 17 tuổi
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư :
{{ [1449] Mùa . . . Đến đây, ốm nặng, được khôi phục chức cũ. Ngày
mồng 4 thì chết, thọ 82 tuổi. Được truy tặng Hương hầu, tên thụy là
Trung Tiết. }}
Từ đoạn văn trên, ta có thể tính ngay được rằng ông Lê Lễ sinh năm
1368 ; ông Lê Lễ hơn Vua Lê Thái Tổ 17 tuổi.
Ta có thể đoán rằng ông Lê Lễ được giữ nhiêm vụ chăm sóc vua Lê, khi
ngài còn thơ ấu, còn tài năng của ông thì được ông Lê Học, người anh
trưởng của vua huấn luyện !
Đây là một yếu tố để phân biệt hai ông Lễ :
_Danh tướng Đinh Lễ là cháu gọi Vua Lê Thái Tổ bằng cậu . Đinh Lễ
kém vua Lê khoảng 10 tuổi.
_Danh tướng Lê Lễ là gia thần, hơn Vua Lê Thái Tổ 17 tuổi.
VIII) Huấn luyện gia đinh thành đại tướng
Việc lập nên một triều đại không phải một ngày một buổi, không phải
như một số truyền thuyết dởm về vua Lê.
Nhà Lê khởi đầu không có đất, không quân tướng, nên phải huấn luyện
gia đinh thành đại tướng, thành quân sĩ. Việc này được thực hiện,
bởi ít nhất hai đời, hai anh em:
1)Ông Lê Học, người anh trưởng của vua
2) Vua Lê Thái Tổ
Đặc biệt là chính nhà vua được đào tạo bởi người anh cả của mình.
Nhà họ Lê nhiều đời làm phụ đạo nên thu thập được nhiều sở trường :
võ nghệ, kinh luân, binh pháp và ngay cả văn chương (Vua Lê Thái Tổ
cũng có kiến thức lớn về văn học, chớ chẳng phải dốt như Lưu Bang [Lưu
Bang khi thành công tuyên bố: ‘Trẫm ngồi trên mình ngựa mà được
thiên hạ, can chi phải học thi thư ?’]
(Sau khi lên ngôi, Vua Lê Thái Tổ thường nói rằng nhà vua lập nên sự
nghiệp hoàn toàn nhờ vào công lao giáo dục của người anh cả của mình).
Ông Lê Học, người anh trưởng của vua, có lẽ hơn vua đến khoảng 20
tuổi. Ta có thể đoán được như vậy, vì:
_vua là con út
_Lê Thạch, con Ông Lê Học, có dự hội hội thề Lũng Nhai năm 1416, nên
ta có thể đoán rằng ông hơn Đinh Lễ vài tuổi mà Đinh Lễ chỉ kém vua
Lê khoảng 10 tuổi. Tức là, vào khoảng năm 1390, Ông Lê Học đã hơn 20
tuổi.
_vào năm 1410, Vua Lê Thái Tổ đã là phụ đạo ở Lam Sơn, tức là Ông Lê
Học đã mất trước đó (Ông Lê Học là phụ đạo và truyền quyền thừa kế
cho ông em út thay vì cho con mình).
_sách sử nói rằng Ông Lê Học không được thọ, nhưng có đủ thời gian
dạy dỗ Vua Lê Thái Tổ. Vậy, nếu Ông Lê Học sinh năm 1365 và mất
trước năm 1410 thì có đến hơn 20 năm dạy dỗ vua và chỉ sống khoảng
hơn 40 tuổi.
Ông Lê Học là người đào tạo vua và ông Lê Lễ cùng với một số gia
đinh khác.
Sau đó, chính Vua Lê Thái Tổ tiếp tục việc Ông Lê Học.
Vua và Ông Lê Học thật là cao siêu: Huấn luyện gia đinh thành đại
tướng
(ông Lê Lễ không phải là gia đinh duy nhất thành đại tướng)
Có thể nói rằng Ông Lê Học đã có một qui mô rộng lớn: huấn luyện ông
em, gia đinh và biết rằng em mình có thể làm nên việc lớn nên trao
cho em út quyền thừa kế!
Ông Lê Học đã thấy xa và đã qui mô sự thành lập triều Lê vậy.
* Lê Anh Chí *.
_____________
Sách tham khảo
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Sử quan đời Trần và Lê (bị sửa đổi bởi nhà
Mạc, nhà Trịnh)
Đại Việt Thông Sử, Lê Quí Đôn
Lam Sơn Thực Lục, Nguyễn Trãi viết theo lời kể của vua Lê Thái Tổ (bị
sửa đổi)
Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận, Lê Tung
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, sử quan triều Nguyễn
Hoàng Lê nhất thống chí , Ngô gia văn phái
Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú
Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
Các nhà khoa bảng Việt nam, Ngô Đức Thọ (chủ biên), Nguyễn Thúy Nga,
Nguyễn Hữu Mùi
Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm
Nguyễn Trãi Toàn Tập, Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khuê,
Kiều Thu Hoạch
Tôn Tử Binh Pháp, Tôn Tử
Ngô Tử Binh Pháp, Ngô Khởi
Thái Công Binh Pháp
Nguồn: http://www.leanhchi.com/
-
|