Lý Nam Việt Đế và Triệu Việt Vương
Bách Việt trùng cửu – nguồn http://my.opera.com/bachviet18/blog/
Sử sách Việt có những chuyện viết rõ bằng chữ nghĩa hẳn hoi nhưng các sử
gia bao đời nay cứ phải đi tìm chân lý ở tận đâu đâu…
“Người Tây chép sử Nam nói rằng: Sử nước Nam mãi đến đời Trần mới bắt
đầu làm, thì những đời trước tất phải theo sử Tàu mà chép ra. Đời Tiền
Lý sử Tàu đã không có thì sử thần nước Nam lấy đâu mà chép? Vậy thì thế
nào cũng có chỗ bịa đặt, mà có một điều khiến cho nhiều người tin là bịa
đặt là chuyện Nhã Lang đi gửi rể và đổi móng rồng, y như chuyện Trọng
Thủy và Mỵ Châu” (H. Maspero, trích theo Đại
Nam dật sử của Ứng học
Nguyễn Văn Tố).
Ông Tây Maspero nói có lý … một phần. Sử Nam ngoài chép theo sử Tàu còn
chép theo … “dật sử”, tức là sử trong dân gian người Việt. “Móng rồng”
trong chuyện Nhã Lang – Cảo Nương không phải bịa đặt, mà là hình tượng
của một câu chuyện lịch sử có thật, khác “móng rùa” của chuyện Trọng
Thủy – Mỵ Châu…
Đại Việt sử ký toàn thư chép về
Lý Bôn: “Mùa xuân, tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam
Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn
Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy.”
Lý Bôn là Nam Việt Đế. Sách nào cũng chép vậy, từ Việt
sử lược tới An
Nam chí nguyên. Nam Việt Đế tức là vua nước Nam Việt. Không hiểu sao
các sử gia lại chép chỉ còn là Lý Nam Đế?
Câu đối ở Quán Giang (Hoài Đức – Hà Nội), nơi thờ Lý Bôn, bắt đầu bằng:
“Hồng duy Nam Việt triệu cơ…”.
Lý Bôn là vua nước Nam Việt. Nam Việt là nước do Triệu Đà (Triệu Vũ Đế)
lập nên, đô đóng ở Phiên Ngung (Quảng Đông). Như vậy Lý Bôn chính là
Triệu Vũ Đế, là người Việt (Giao Chỉ) đầu tiên xưng đế, mở đầu một thời
đại huy hoàng của sử Việt. Lý Nam Việt Đế là cách gọi theo kiểu sử Việt
lấy họ vua và tên nước mà gọi. Triệu Vũ Đế là cách gọi của Hoa sử theo
quốc danh và miếu hiệu của vua. Tuy 2 tên nhưng là một người.
Ở Quán Giang Lý Bôn được thờ với tên Cử Long Hưng. Còn ở đình Xuân Quan
(Văn Giang – Hưng Yên) Triệu Vũ Đế lập điện Long Hưng bên bờ sông Hồng.
Long Hưng nghĩa là Hưng Vương, ứng với câu đối ở Phủ Giầy: “Hưng
Vương vĩ lược cao thiên cổ”.
Hưng Vương Lý Bôn cũng là Long Hưng Triệu Vũ Đế, và cũng chính là “Hán”
vương Lưu Bang của Hoa sử.

Lễ hội làng Bát Tràng, nơi thờ Lưu thiên tử và hoàng hậu
Tương tự, tiếp theo Lý Bôn các sử gia xác định có thời Triệu Việt Vương
dựa vào đoạn chép của An
Nam chí nguyên và Việt
sử lược: “Năm Nhân Thọ thứ hai thờI
Tùy Văn Đế,
người cầm đầu châu là Nguyễn
(Lý) Phật Tử chiếm Việt
Vương Thành”.
Vì có “Việt Vương Thành” nên suy ra có Việt Vương và kết luận
Việt Vương này là Triệu Việt Vương (!?).
Thực ra chuyện Hậu Lý Nam Đế dưới thời Tùy Văn Đế chiếm Việt Vương Thành
là thành … Việt Trì (Phong Châu), cổ thành của người Việt từ thời Chu
Văn Lang.
Còn để xác định Triệu Việt Vương dựa vào chữ “Việt Vương Thành”
thì cách xác định sau còn chính xác hơn: Việt Vương là vua nước … Nam
Việt, họ Triệu tức là con cháu Triệu Vũ Đế. Triệu Việt Vương là vua Nam
Việt của nhà Triệu. Triệu Việt Vương tiếp ngôi của Lý Nam Việt Đế thì
không phải là vua Nam Việt thì là gì?
Dật sử Việt chép Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương) đóng quân ở đầm Dạ
Trạch (Hưng Yên), nằm mộng thấy rồng vàng hiện lên, trao cho móng rồng.
Lấy móng rồng đó làm mũ đâu mâu. Từ đó đánh đâu thắng đấy…

Đền Dạ Trạch thờ Triệu Quang Phục và Chử Đồng Tử
Đầm Dạ Trạch gần bãi Tự Nhiên, gắn với truyền thuyết Chử Đồng Tử và Tiên
Dung thời Hùng Vương. Lĩnh
Nam chích quái chép sự
tích của Chử Đồng Tử và Triệu Quang Phục vào trong một truyện Đầm
Nhất Dạ. Tuy nhiên, suy nghĩ kỹ thì thấy người trao móng rồng cho
Triệu Việt Vương không phải là Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử tu tiên, chỉ có
“bảo bối” là trượng lạp (gậy nón), cưỡi hạc, chứ không cưỡi rồng. Rồng
là hình tượng của đế vương mà Chử Đồng Tử thì không làm vua bao giờ.
Người trao móng rồng cho Triệu Quang Phục chính là … Triệu Vũ Đế ở điện
Long Hưng (Xuân Quan – Văn Giang) ngay bên cạnh đầm Dạ Trạch. Móng rồng
mà dùng làm mũ thì có khác gì là vương miện? Ý nghĩa của việc này là
Triệu Vũ Đế (Lý Bôn) đã trao vận hội đế vương (Long Hưng) cho Triệu
Quang Phục. Điều này nhấn mạnh triều đại Nam Việt của Triệu Việt Vương
là vương triều chính truyền của Triệu Vũ Đế (Lý Bôn – Lưu Bang).
Vế đối về Triệu Việt Vương ở đình Phù Sa (Ninh Bình): “Đâu mâu thánh
vũ hưng Nam Lý”, mô tả rất chính xác ý nghĩa của mũ đâu mâu. Triệu
Việt Vương là người đã “hưng Nam
Lý”,
tức là đã chấn hưng nước Nam
Việt từ Lý Bôn.
Người tiếp nối Triệu Vũ Đế chấn hưng Nam Việt là Triệu Văn Vương hay
Triệu Mạt. Mạt< -> Một. Triệu Mạt là vị vua họ Triệu thứ nhất, cũng là
Triệu Đà (Đà <->Đầu). Mạt còn đọc là Muội <-> Mùi <->Dê< -> Dương, là
vua Triệu ở Dương Thành (Phiên Ngung).
Thành Phiên Ngung (Quảng Đông) còn có tên là Ngũ Dương Thành với hình
tượng 5 vị tiên cưỡi 5 con dê. Thực ra Dương nghĩa là phương Đông, nơi
mặt trời lên. Ngũ Dương nghĩa là 5 đời vua nhà Triệu phía Đông (gồm cả
Triệu Vũ Đế Lưu Bang).
Sau khi Lữ Hậu mất Triệu Văn Vương đã nối tiếp Triệu Vũ Đế Lưu Bang cai
quản đất Nam Việt, xưng đế ngang với nhà Tây Hán. Truyền thuyết Việt
chép là Triệu Việt Vương và Lý Phật Tử giảng hòa, chia đôi lãnh thổ, lấy
bãi Quân Thần làm ranh giới… Không rõ giữa Triệu Việt Vương và Lý Phật
Tử thì ai là Quân ai là Thần. Có lẽ ai có vương miện “móng rồng” thì sẽ
là Quân, người kia là Thần.
Triều đại của Lý Phật Tử là triều Tây Hán của các vua danh Hiếu, cũng là
con cháu Lý Bôn – Lưu Bang. Lý Phật Tử không có mũ đâu mâu móng rồng của
Triệu Vũ Đế nên có vấn đề về danh nghĩa so với triều đại Nam Việt của
Triệu Việt Vương. Vì thế Nhã Lang mới được cử đi ở rể để lấy trộm đâu
mâu…
Chuyện Nhã Lang – Cảo Nương là hình ảnh của chuyện Minh Vương Triệu Anh
Tề làm con tin ở nhà Tây Hán, lấy Cù Thị về lập làm Hoàng hậu và sứ giả
Tây Hán là Thiếu Quý xúi giục Cù Thị và Triệu Ai Vương hàng nhà Tây Hán.
Anh Tề và Nhã Lang cận nghĩa. Cù Thị và Cảo Nương cận âm.
Sử ký Tư Mã Thiên, Nam Việt Úy Đà liệt truyện có
đoạn:
“[Triệu] Hồ mất, thụy là
Văn Vương. Anh Tề lên ngôi thay, lập tức giấu ngay ấn Vũ Đế của Triệu Đà“.
Thì ra ấn Vũ Đế của Lưu Bang nằm trong tay nhà Triệu. Đây chính là “móng
rồng” mà Triệu Việt Vương đã nhận từ thần nhân. Có thể khi Lữ Hậu mất,
người nhà họ Lữ (Lữ Gia) đã lấy ấn Hoàng đế của Lưu Bang mang về phương
Nam, rồi tôn một người cháu Lưu Bang lên làm vua nước Nam Việt.
Ấn Vũ Đế là “móng rồng” đã bị Anh Tề giấu. Sau khi Triệu Anh Tề mất Cù
Hậu lập thái tử Hưng lên là Triệu Ai Vương, hẳn ấn Vũ Đế nằm trong tay
Cù Hậu. Nhà Tây Hán cử Thiếu Quý sang dụ, cả Triệu Ai Vương và Cù Hậu
vào chầu như các nước chư hầu, xin nội thuộc. Có thể Cù Hậu đã nộp lại
ấn Vũ Đế cho Hiếu Vũ Đế.
Nàng Cảo Nương – Cù Thị phản quốc, sau đó bị tể tướng Lữ Gia giết, rồi
đưa Triệu Kiến Đức lên ngôi vua Nam Việt là Triệu Vệ Dương Vương.
Khi Lộ Bác Đức nhà Tây Hán tấn công, quân Nam Việt thất bại. Ngũ Dương
Thành thất thủ, Vệ Dương Vương đã cùng tể tướng Lữ Gia lên thuyền nhẹ
chạy về cửa biển Giao Chỉ.

Câu đối ở đền thờ Lữ Gia tại Vân Côi (Nam Định):
Triệu dân hữu thiên tồn xã tắc
Hán nhân vô địa xuất lâu thuyền.
Dịch:
Còn trời xã tắc còn dân Triệu
Không Hán lên thuyền đất chẳng chung.
Theo truyền thuyết người Việt thì Triệu Việt Vương thua Lý Phật Tử, bỏ
chạy và chết ở cửa biển Đại Nha. Đây chính là vị vua Triệu cuối cùng,
Triệu Vệ Dương Vương. Có thể Vệ Dương Vương đã bị bắt ở vùng cửa sông
Đáy (Nam Định, Ninh Bình) ngày nay, là nơi tập trung có các đền thờ
Triệu Việt Vương và Lữ Gia.
Vệ còn đọc là Duệ, có nghĩa là cuối cùng. Dương là phía Đông. Triệu Vệ
Dương Vương nghĩa là vị vua cuối cùng của nhà Triệu phía Đông… Bởi vì
sau đó còn nhà Triệu phía Tây là Nam Triệu của Tây Vu Vương (Tây Lý
Vương).
Truyền thuyết Triệu Việt Vương trong dật sử Việt đã chép đầy đủ những sự
kiện chính của 4 đời vua Triệu nước Nam Việt kể từ Văn Vương Triệu Mạt
tới Vệ Dương Vương Triệu Kiến Đức. Dật sử dân gian còn đầy đủ và chính
xác hơn chính sử chép theo sách Tây sách Tàu.
Văn Nhân góp ý :
Sau khi Lữ hậu mất đất nước do Lý Bôn gầy dựng chia làm 2 ; ở
thành Phiên Ngung Triệu Đà (Đào) hay Triệu Thao (Thiêu) lập ra
triều đình Nam Việt tôn Lý Bôn làm Triệu Vũ đế tức vua tổ
tương tự như ông Khải tôn Đại Vũ là vua tổ nhà Hạ , Ninh vương
tôn Văn vương là tổ nhà Châu , như thế Lý Bôn vừa là Hiếu Cao
tổ của triều Hiếu Trung hoa (sử Tàu biến thành nhà Tây Hán)
vưà là Triệu vũ đế tổ của nước Nam Việt .

Hiếu Vũ đế đã phong Lộ bác Đức làm phục ba tướng quân đem quân
đánh diệt Nam Việt của Vệ vương – Kiến đức và tể tướng Lữ Gia
thống nhất giang sơn , cổ sử Việt chép thành Lý Nam đế đánh
Triệu Việt vương , thông tin rõ ràng hơn thì Nam đế chính là
Hiếu Vũ và Việt vương là Kiến Đức của Nam Việt- Phiên Ngung .
Lộ bác Đức không phải họ tên mà là danh hiệu với nghĩa là ông
tướng đã đánh đổ triều vua Kiến Đức .
Theo tôi câu hỏi ai là quân ai là thần đã được chỉ rõ trong danh
hiệu Nam đế và Việt vương rồi .
Xin nhấn mạnh Mã Viện hay mã Phục Ba của sử Tàu không hề
chiếm được đất Giao chỉ thời 2 bà Trưng nên tất cả miếu thờ
Phục Ba tướng quân ở Việt nam đều là nơi thờ phục ba tướng quân
Lộ bác Đức tuyệt đối không phải là Mã phục Ba tức Mã Viện .
Dân Mã lưu giữ cột đồng và miếu thờ Mã phục ba trên đất Việt
nam ngày nay chỉ là sản phẩm của bọn đểu cáng tạo ra nhằm gây
nhiễu để dễ bề tráo đổi Lịch sử người họ Hùng mà thôi .
http://huvi.wordpress.com/2013/03/02/ly-nam-viet-de-va-trieu-viet-vuong/
Xem thêm:
-
Đền Hùng: “Nam Việt triệu tổ” - hiểu sao cho đúng?
-
- Hình ảnh Nghi môn Đền Thượng trên núi Nghĩa Lĩnh đã in sâu vào
tâm trí các thế hệ người Việt trong và ngoài nước từ hơn trăm năm
qua. Tuy vậy, bốn chữ đại tự “Nam Việt triệu tổ” chưa có cách hiểu
thống nhất...
- Bốn chữ “Nam Việt triệu tổ” nghĩa là
Triệu tổ của Nam Việt chứ không phải là “Tổ muôn đời của nước Nam”
như giải đáp của Ban quản lý di tích này. Hai chữ “Triệu tổ” dễ hiểu,
nghĩa là tổ khởi đầu, gây dựng nền móng. Các Vua Hùng lập ra nhà
nước đầu tiên, đặt quốc hiệu Văn Lang nên đúng là Triệu tổ của dân
tộc ta.
Hai chữ gây băn khoăn là “Nam Việt”, tại sao không đề là “Văn Lang
triệu tổ” cho đúng với quốc hiệu thời các Vua Hùng hay “Đại Nam
triệu tổ” phù hợp với quốc hiệu khi xây dựng Nghi môn hay “Việt Nam
triệu tổ” cho phù hợp quốc hiệu chính thức từ 1804 đến nay, mà lại
đề “Nam Việt triệu tổ”.
Xem tiếp
Post ngày:
10/19/17
|