Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
Những Đệ Nhất Công Dân nước Việt
Làm Rể Miền Đồng Nai – Cửu Long (ĐN-CL)
TS Nguyễn Hữu Phước
 
Có bao nhiêu đệ nhất công dân Việt Nam làm rể Miền ĐN - CL, tôi không biết chắc, nhưng có ít nhất 4 người,  mà hầu hết các vị thuộc hạng “tuổi già 50 trở lên” dù biết nhưng ít ai chú ư đến khía cạnh đặc biệt nầy.         
Đệ nhất công dân Bảo Đại,  vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn cưới vợ dân G̣ Công và phong vợ làm Nam Phương Hoàng Hậu như vừa nói bài trước. 
C̣n ba Đệ Nhất Công Dân kia là ai?
·         Ba Bà Chánh Cung
-Minh Mạng: vị vua thứ hai của triều Nguyễn có vợ là Bà Hồ Thị Hoa dân miền ĐN-CL. Theo TS PTT th́ trong mạng www.vietnamgiapha.com th́ Bà là “con Ngài Chưởng Cơ Hồ Văn Bội”.  Lăng của Bà “hiệu là Hiếu Đông Lăng, phía tả lăng Đức Thiệu Trị”.  Thêm vào, dân ĐN-CL đă cử tên Bà nên đă dùng chữ “bông” để thay thế cho chữ “hoa” (bông bí, bông điên điển).
Ở vùng không xa chợ Sài G̣n có câu cầu tên Cầu Bông thực sự trước đó có tên Cầu Hoa Bắc, đă được đổi tên (v́ lư do vừa nói, theo TS Phan Tấn Tài, trích từ www.limsi.fr).  Xin nói thêm là tục cử tên những người “tên tuổi”, những viên chức công quyền từ cấp làng xă, cho đến trung ương, rất thạnh hành ở Lục Tỉnh ngày xưa.  Thí dụ “ánh sáng thành “yến sáng” v́ vua Gia Long tên “Ánh”.
Lẽ dĩ nhiên tục cử tên hầu như phổ quát cho cả VN ngày xưa: Ở Huế, chợ Đông Hoa đă thành chợ Đông Ba, và tỉnh Thanh Hoa trở nên tỉnh Thanh Hóa (PTT trích www.limsi.fr.).  Ngoài ra tôi không đọc thấy sử sách nào khác viết về bà Đệ Nhất Giai Phi nầy, không hiểu v́ sao?  Vị nào có tài liệu về Bà, xin soi sáng giùm.
-Thiệu Trị: vị vua thứ ba, có “Đệ nhứt Giai Phi” (vợ chánh, tức là Hoàng Hậu, nhưng không được phong như vậy v́ lệ “ngũ bất lập” như đă nói), tên Phạm Thị Hằng, dân G̣ Công ḍng dơi của ông Phạn Đăng Hưng.  Con bà là vua Tự Đức. Cha chồng làm vua, chồng làm vua, và con làm vua.  Đây là cô gái ĐN-CL có một, không hai trong lịch sử nước Việt:
 “Có thể nói đây là người đàn bà đặc biệt nhất của triều Nguyễn, cũng như của lịch  sử đế chế ở VN. Bà đă là vợ của hoàng tử Miên Tông, sau nầy là vua Thiệu Trị.   Nói khác đi, Bà là dâu của vua Minh Mạng. Như vậy bà đă có mặt trong 9 đời của  13 vị vua triều Nguyễn*. Tước hiệu cuối cùng của Bà là Bác Huệ Thái hoàng thái thái hậu  do vua Đồng Khánh phong tặng với tất cả sự tôn kính.” (Nguyễn Hữu Phước)
 ((* từ Minh Mạng đến nămThành Thái thứ 13 (năm 1901)).
Đến đây đă nêu tên được ba Chàng Rể quí rồi.  Ai là người thứ tư?
-Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Của VNCH  là “Người thứ tư “, (cũng như vua Bảo Đại, vừa mới qua đời cách đây vài năm).    Bà Thiệu người Mỹ Tho. Trong vụ Tết Mậu Thân, 1968, ông đang “đóng quân” ăn Tết ở quê vợ.
Tóm lại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Bảo Đại và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, những Công Dân Hạng Nhất gốc Miền Trung đă làm “Rể Quí” của Miền Đồng Nai – Cửu Long. 
Gái miền nào đẹp nhất và có thể trở thành, “dâu thảo, mẹ hiền” trong mắt những “đấng Quân Vương” nầy?  Không phải trả lời câu hỏi đó. Ca dao đất Thần Kinh có câu:
Kiêm Luông có gái mỹ miều
Trẫm thương trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi.
Một bạn già đề nghị bắt chước câu trên với đôi chút thay đổi:
Đồng Nai có gái yêu kiều (Đồng Nai nầy chỉ cả Miền Lục Tỉnh)
Trẫm thương trẫm cưới, trẫm yêu suốt đời.
Các bạn c̣n biết vua nào nữa cưới vợ Miền Đồng Nai – Cửu Long, xin cho tôi hay để thêm vào danh sách đặc biệt nầy, thành thật cảm ơn.  Tôi hỏi câu vừa qua v́ chính Vua  Bảo Đại viết:
 “Trong Triều Đ́nh nhà Nguyễn, việc t́m kiếm phi tần cho vua thường thường
hướng vào miền Nam, so với miền Trung hay xa hơn nữa là miền Bắc, đối với
triều Nguyễn miền Nam là miền đất hứa.” (Bảo Thái, trích  trong “Con Rồng
Việt Nam” của Bảo Đại)
·         Có bao nhiêu bà Thứ Phi gốc ĐN-CL?
Bên trên chúng tôi đă có kể ra được ba bà người gốc Đồng Nai – Cửu Long  làm vợ chánh (chánh cung) của vua Nguyễn.   Đó là Bà Hồ thi Hoa, vợ vua Minh Mạng;  Bà Phạm thi Hằng vợ vua Thiệu Trị, và bà Nguyễn Hữu Thi Lan vợ vua Bảo Đại.  Ngoài ra theo tài liệu của Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ, chúng ta c̣n thấy có năm bà thứ phi gốc ĐN-CL. 
Trước hết là vua Minh Mạng c̣n có ba bà thứ phi người miền Nam:
Thục Tấn Nguyễn thị Bảo  (1801- 1851),  người Gia Định.  Con của Ông Quan Tư Không Nguyễn Khắc Thiệu.  Bà sinh được một Hoàng Tử là Miên Thẩm (1818-1904) và ba công chúa là Vĩnh Trinh (1816-1892), Trinh Tân (1824-1904) và Tỉnh Ḥa(1830-1882).  Về sau cả bốn người con nầy đều trở thành những nhà thơ nổi tiếng ở thần kinh với các biệt hiệu Tùng Thiện Vương, Quy Đức, Mai Am và Huệ Phố, đă để lại cho đời nhiều bài thơ rất giá trị.
Ḥa Tấn Nguyễn Thị Khuê, tự Bích Chi, người Huyện Phú Lộc, Tỉnh Gia Định; con gái của Chưởng Cơ Nguyễn Văn Thanh, trấn thủ Tỉnh Quảng Nam.  Bà sanh được bốn Hoàng Tử và sáu Công Chúa.
Cung Tấn Nguyễn Thị Xuân, người Gia Định.  Con gái Chinh Đội Nguyễn Văn Châu.  Bà sinh được một Hoàng Tử là Miên Kư, người giỏi văn chương dưới triều Tự Đức, được phong làm Cẩm Quốc Công”. 
Kế đến là vua Thiệu Trị.  Ông có một người vợ thứ,  gốc miền Nam:
Lệnh Phi Nguyễn Thị Nhâm, người An Giang.  Con của Quận Công Nguyễn Văn Nhân.  Bà Nhâm được tuyển vàu cung cùng một thời gian với Bà Phạm Thị Hằng, nhưng v́ Bà chỉ sinh hạ được . . . An Thạnh Công Chúa, nên chỉ được phong tước Lệnh Phi.”
Sau cùng là vua Tự ĐứcÔng “có một thứ phi miền Nam:
Học Phi Nguyễn Thị Hường, người Vĩnh Long.  Bà không có sinh được con nên nhận công tử Ưng Họa, tự Đăng, sinh năm 1870, con Mệ Hường Cai làm con nuôi.” ( Bà Hường chỉ là một người vợ thứ. Sau nầy khi vua Hiệp Ḥa bị phế, Ưng Đăng được tôn lên làm vua lấy hiệu Kiến Phúc,)
Như vậy trước sau có 8 bà gốc ĐN-CL đă cư ngụ trong nội thành Huế với tư cách là vợ vua (4 người của Minh Mạng, 2 người của Thiệu Trị, 1 của Tự Đức, và 1  của Bảo Đại.)  Các bạn c̣n biết ai khác xin bổ túc giùm.  Đa tạ.
·         Các bà thứ phi của vua Bảo Đai:
-Một trường hợp độc đáo trong triều Nguyễn
Khi Bảo Đại lên ngôi, ông kư giấy bỏ tục đa thê và dẹp bỏ tam cung lục viện đă có dưới các đời vua trước.  Nhưng sau khi đă thoái vị, Ông cũng có một số vợ không chánh thức, và một ngươi “vợ hai” (có đám cưới) nhưng không có bà nào thuộc vùng ĐN-CL. Những quyển sách viết về Ông hoặc về các bà nầy, đều dùng chữ ‘thứ phi” để chỉ các bà đó. (Theo thiển ư từ “thứ phi” không được chính xác cho hoàn cảnh của Ông, v́ Ông không c̣n làm “vua “ nữa khi sống với các bà nầy.  Tuy nhiên v́ chữ “thứ phi” đă được dùng trong các bài về Bảo Đại, (như là một v́ “vua”), nên tôi đành tuân theo cách dùng đă “thông dụng” đó.) 
Các bà nầy đă đến với Ông khi Ông không c̣n làm vua nữa, (nhưng chắc là họ vẫn có hy vọng một ngày nào đó Ông trở lại ngôi vị xưa ??) Ba bà thứ phi nầy, một gốc miền Bắc, một gốc Trung, và người cuối cùng chôn cất Ông là một người gốc Tây (Pháp).  Sau đây chúng tôi viết lại thật sơ sài về ba bà nầy theo tài liệu của Hàn lâm Nguyễn Phú Thứ.
-Bà Bùi Mộng Điệp:
Sau khi Bảo Đại thoái vị, thành “công dân Vĩnh Thụy” và được mời ra Hà Nội làm Cố Vấn” cho Hồ Chí Minh, Ông sống ở Hà Nội.  Trong lúc Nam Phương Hoàng Hậu và các con ở lại nội thành Huế, có người đă giới thiệu bà Mộng Điệp với Ông.  Không lâu Bà trở thành vợ thứ của Ông một cách không chánh thức.  Năm 1946, Mộng Điệp sanh một gái tên Phương Thảo. Sau đó Bàø c̣n sanh thêm hai con trai tên Bảo Hoàng và Bảo Sơn.  Nhưng cả hai đều yểu mạng.
Năm 1949 khi Vĩnh Thụy về VN lại với chức vụ Quốc Trưởng VN và đặt văn pḥng ở Đa Lạt.  Một thời gian sau, Mộng Điệp từ Hà Nội vào Đà Lạt. Sau đó, lại về cư ngụ ở Ban Mê Thuột, với nhiệm vụ quản trị Hoàng triều Cương Thổ (vùng đất trên cao nguyên mà Pháp dành riêng cho triều Nguyễn). 
Vào 1953 khi chiến tranh Việt Pháp leo thang và lan rộng, “Bà được Cựu Hoàng giao nhiệm vụ mang cặp ấn kiếm và một số báu vật của triều Nguyễn qua Pháp giao cho Nam Phương Hoàng Hậu.”
Bà định cư luôn ở Pháp. Nghe nói Bà vẫn sống độc thân cho đến hiện tại (2005) và gần 80 tuổi.  Không biết liên hệ giữa Bà và Cựu Hoàng ra sao trong thời gian Ông ta sống ở Pháp (và trong thời gian nầy Ông ta sống với “thứ phi” Monique, sẽ nói ở đoạn sau.)
-Bà Lê Phi Ánh.
Khi Quốc Trưởng Bảo Đại vừa về VN và chọn Đà Lạt là nơi làm việc Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo đă giới thiệu Bà Phi Ánh cho Bảo Đại (Nam Phương c̣n ở Pháp, và Mộng Điệp c̣n ở Hà Nội).  Bà Phi Ánh có sanh 2 người con với Bảo Đại: Phương Minh và Bảo Ân.  Năm 1953 Bảo Đại sang Pháp và không trở về VN nữa.  Năm 1954, bà Phi Ánh tái giá vơi một nhà thầu khoán và có thêm một con trai với chồng sau. Bà mất năm 1987 ở VN.
-Bà Monique Baudot.
Cựu Hoàng đă nói trong một cuộc phỏng vấn Ông về Bà Monique (không lâu trước khi Ông qua đời),  là “Nhờ bạn bè chung sống, tôi đă gặp người vợ thứ hai của tôi”.  Ông cưới bàø Monique vào tháng 10, 1972 tại Pháp. Bà là người vợ “thứ hai” và là người sau cùng sống với Cựu Hoàng  trong  hơn 25 năm, nhưng lại không có người con nào với Ông. (Có tài liệu ghi là Ông đă quen biết và sông chung với Bà từ năm 1969.)  Ông cũng nói: “Sau nhiều năm sinh sống cô quạnh, nhờ bà nầy mà tôi đă t́m lại được cuộc sống an nhàn, thanh tịnh.”  Bà Monique hiện vẫn c̣n sống ở Pháp.
 [(Các con của Bảo Đại: (Nam Phương Ḥang hậu: Bảo Long, Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung và Bảo Thắng; Mộng Điệp: Phương Thảo; Phi Ánh: Phương Minh và Bảo Ân.)]
Tóm lại, theo Bảo Đại, th́ Ông chỉ có 2 người vợ (có đám cưới):  Bà Nguyễn Hữu Thi Lan và Bà Monique Boudot.  
Thời gian mười mấy năm đầu của cuộc đời hôn nhơn, sống với Bà Nam Phương, mặc dầu không có thực quyền cai trị đất nước, nhưng ít ra Ông c̣n ngồi trên ngai vàng và trong sự cung phụng xa hoa (của nhà vợ).  Ngoài những sóng gió chánh trị, nhiều năm trong giai đoạn nầy, Ông c̣n gây ra nhiều sống gió về t́nh cảm trong hôn nhân v́ Ông sống với nhiều bà khác, ngoài Mộng Điệp và Phi Ánh.  (Ông đă vi phạm một trong những điều cam kết của Ông với Thị Lan trước khi cưới là “giữ luật một vợ một chồng”.)
Thời gian 25 năm cuối của cuộc đời Ông, không ngai vàng, không tiền bạc, Ông lại “t́m được cuộc sống an nhàn và thanh tịnh” với bà vợ hai, không con.
Theo thiển ư, cuộc đời của vị vua cuối cùng triều Nguyễn thật là một cuộc đời khá độc đáo.  Điểm cần nói:  Ông là vị vua “thọ” nhất (1913-1997 = 84 tuổi) trong các vua của vương triều nhà Nguyễn. Phải chăng sự “sống lâu” nầy là nhờ chính Ông đă giữ đúng lời cam kết khác với Nam Phương Hoàng Hậu: Giải tán tam cung lục viện” (đây chỉ là câu hỏi đùa cho vui mà thôi) .
 
Tài liệu tham khảo
A - Những Emails (Tư liệu)
Phan Tấn Tài (2005). “Emails gởi Nguyễn hữu Phước” về một số tài liệu liên quan đến các câu ca dao trong bài “Đồng Nai  Cửu Long: Những câu ca dao”
B - Tài liệu truyền khẩu: Một số câu ca dao do các “bạn già”  cung cấp.
C - Sách và Đặc San
-Bảo Thái, (1999).  Một thời hoàng tộc, (tập II), Nxb Kinh Đô, Texas, USA.  
-Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ (1970). Việt Nam Tự Điển.  Khai Trí xb., Saigon, VN.
-Nguyễn Hữu Phước, (2004).  “Từ vua trong tiếng Việt”, Tiếng Việt đa dạng,
-Southeast Asian Culture and Education Foundation, California, USA.
-Nguyễn Phú Thứ (2003).  T́m hiểu vua Bảo Đại . Tác giả XB, Lyon,Paris.
-Vương Hồng Sển (1995).  Hơn nửa đời hư .  Văn Nghệ Xb.  California, USA

 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17