|
Tấm Bia "Hoa
Lâm Tam Bảo Thị" (1656) - Một Tư Liệu Đáng
Tin Cậy Về Lư Công Uẩn và Vùng Mai Lâm
Nguyễn Hùng Vĩ - Nguyễn Văn Thanh
Đang tập hợp tư liệu cho bài viết
Ch́a
khóa để hiểu rơ hơn gốc tích Lư Công Uẩn
th́ chúng tôi gặp bản dập tấm bia này. Thấy
đây là một tài liệu quí hiếm nên giới thiệu
cùng các nhà nghiên cứu để có thêm chứng cứ
và cùng quan tâm.
Bản dập tấm bia đă được tiến hành vào đầu
thế kỉ trước và hiện lưu trữ tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm trong t́nh trạng c̣n khá nguyên
vẹn. Thời gian dập thuộc đợt một, chừng 1918
đến 1925. Kí hiệu lưu trữ là 2985/2986. Bia
hoàn toàn không có dấu hiệu tẩy xóa hoặc
khắc lại.
Thác bản 2 mặt, khổ 54 x 90 cm, gồm 43 ḍng
chữ Hán và Nôm, toàn văn có 1222 chữ (một số
chữ viết kiểu tiểu chú, chữ rất nhỏ, mờ, khó
đọc), có hoa văn, có chữ húy TRỪ. Niên đại:
Thịnh Đức thứ 4 (năm 1656).
Hoa văn trán bia mặt trước khắc lưỡng long
triều nhật. Mặt trời tỏa 10 tia sáng h́nh
ngọn lửa thẳng, rực rỡ. Diềm trên đầu bia
cũng hoa văn lửa xếp ṿng cung. Hai diềm bên
khắc h́nh ảnh chim (đứng, bay, liệng, đậu),
hoa sen cách điệu, hoa dây và hoa cúc. Diềm
dưới là các cánh sen cách điệu kết thành
băng ngang. Tên bia khắc chữ khải phong cách
Lê mềm mại, đóng khung trên trán bia.
Mặt sau, trán bia khắc đôi phượng chầu mặt
trời dáng uyển chuyển, sinh động. Mặt trời
tỏa 10 ngọn lửa sáng cong lên. Diềm hai bên
và diềm trán khắc liên tục chim các tư thế,
hoa sen, hoa dây, hoa cúc, phượng hoàng.
Diềm chân là cánh hoa sen kết thành băng
ngang. Hoa văn sắc nét, chạm trổ công phu,
tỉ mỉ.
Người soạn: Họ Đồng, tên hiệu Chuyết Phu;
quê quán: xă Thiết Úng huyện Đông Ngàn; chức
vị: Tán trị thừa chính sứ các xứ Sơn Tây chí
sĩ; tước Lai Xuyên bá.
Người viết chữ: Nguyễn Sĩ Duyên; học vị:
Trúng thư toán khoa Mậu Dần, hoa văn học
sinh; chức vị: tước Văn Lâm nam.
Người viết chữ: Đỗ Văn Vị; chức vị: Đô lại
Bộ công; tước Văn Hương nam.
Nội dung:
Mặt trước, phiên âm:
HOA LÂM TAM BẢO THỊ
Trùng san Hoa Lâm Tam bảo thị bi tịnh
minh.
Tự hữu thử thiên địa dĩ hữu thử thị khu
tư. Hoa Lâm cổ tích thị nhất khu năi tiền Lư
triều Thánh Thiện tổ khảo tỉ chi danh hương
dă. Khảo tỉ lăng miếu tại thị chi đông.
Trinh Tiết phạm cung tại thị chi tây. Phương
dân tôn phụng linh ứng mặc phù, nhi thị cư
tự miếu chi trung. Thị trung quan lộ văng
lai nhân nhân tụ hội, chân đệ nhất hảo xứ
dă. Tự cổ chi nhân nhật trung vi thị mỗi
nguyệt lục phiên, chí sóc vọng nhật nhân
giai cúng dàng hiển tích, tố hiệu vi Tam Bảo
chi thị. Nhân tuần nhật cửu, kinh lịch niên
đa cửu nhi tệ trùng nhi tu chung nhi phục
thủy giả. Tất hữu chủng thiện đê nhân đại
quyền lực, đại kỳ lăo, vi năng hội kiến,
phương kim tứ phương ninh mịch, vạn thiện
lạc vi. Hâm tiện Chưởng giám Tổng thái giám
Đô đốc đồng tri Duệ quận công Lê Giản Kiến,
bản Cai Từ Sơn phủ, Đông Ngàn huyện, Hoa Lâm
xă, quan viên Đỗ Văn Bảng, Đỗ Đ́nh Luận,
Nguyễn Chân Gián, Nguyễn Văn Quảng, Trịnh
Trí Trị, Nguyễn Văn Căn, Tướng thần Nguyễn
Quang Nhâm, Xă trưởng Hoàng Xuân Vi, Thôn
trưởng Nguyễn Tuấn Vinh, Hoàng Văn Đạt, Đỗ
Văn Hạc, Đỗ Công Tri, Nguyễn Thu Vi,
Nguyễn Văn Cơ, Hoằng Văn Quảng, Vương Văn
Do, Đỗ Văn Kỷ, Nguyễn Văn Đốc đẳng, cập tín
săi Nguyễn Văn Việt tự Phúc Nhân, Nguyễn Văn
Tốt tự Phúc Hà, Nguyễn Văn Tú tự Phúc Đạo
đẳng, thân lai vị bản xă hữu quảng khai cổ
tích Tam bảo thị, khất nhưng thi như tiền
đẳng nhân nhưng cúng thí vi Tam bảo như cựu.
Vưu sở xứng giả bản xứ Tán trị Thừa chánh sứ
ti Tham chính Thụy (?) nam Lê Đức Vọng, cập
bản phủ Tri phủ Thọ lộc nam Nguyễn Hằng
Liêm, bản Huyện Tri huyện Trịnh Ngọc Liễn,
Huyện thừa Tuấn Ngạn tử Nguyễn Ngọc Ngô
đẳng, nha môn quan lại tịnh hành thiện chính
chuẩn phê, nhưng thí vi tam bảo thị như tiền
tu qui. Thả Hữu thừa ti Cai lại Nguyễn Khắc
Sĩ thừa hệ đệ niên biểu tâm lễ tịnh chuẩn
trừ phó dữ bản thị săi văi chí sóc vọng nhật
cúng dàng Tam bảo thiêu hương trại nguyện.
Thượng chúc bản quốc,thánh đế minh vương vạn
thọ vô cương; Hạ chúc thiên hạ thái b́nh ức
niên hữu vĩnh. Dĩ chí nội ngoại thần liêu,
cập xă dân săi văi thiện nam tín nữ cộng vi
Phật quả thiện duyên hàm hựu xuân đài thọ
vực. Vạn linh bảo hộ tam bảo chứng minh, năi
ư Bính Thân niên tứ nguyệt thập cửu nhật,
lương thời ngoan thạch vi bi.
Thuyên công lặc thành, lập vu trung thị,
thùy vu vĩnh thế, nhân minh vu thạch, hậu
thế tri chi, dĩ thọ kỳ truyền, vân.
Minh viết:
Huyện danh Đông Ngàn. Xă hiệu Hoa Lâm.
Cựu hữu thành thị. Đảo sơn chi khống. Đức
giang chi khâm. Đoài tự tất kính. Chấn miếu
di khâm. Năng cổ nhi phục. Duy thiện kỳ tâm.
Vi thiện thu phúc. Bất hiển diệc lâm. Thử
công thử đức. Vạn cổ bi âm.
Thịnh đức tứ niên tứ nguyệt cốc nhật.
Tứ Mậu Th́n khoa Tiến sĩ xuất thân đặc
tiến Kim tử vinh lộc đại phu Sơn Tây đẳng xứ
Tán trị thừa Chánh sứ ti thừa chánh sứ, Lai
Xuyên bá Trí sĩ Đồng Chuyết Phu soạn.
Bản xă Mậu Dần khoa thí trúng Thư toán ưu
trúng Thư giám hoa văn học sinh Văn Lâm nam
Nguyễn Sĩ Duyên tả
Quan viên tử ư Nhâm Th́n khoa thí trúng
Thư toán ưu trúng, Công bộ đô Lại Hương nam
Đỗ Văn Vị tả.
Dịch nghĩa:
Trùng san bia chợ Tam Bảo ở Hoa Lâm.
Từ khi có trời đất đă có khu chợ này. Khu
chợ thuộc hàng di tích lịch sử (cổ tích)
mang tên Hoa Lâm này nằm trên quê hương nổi
tiếng của ông bà nội Thánh Thiện của triều
nhà Lư trước đây. Lăng miếu của Bố và Mẹ
ngài tại phía đông chợ. Chùa Trinh Tiết ở
phía tây của chợ. Chợ nằm giữa chùa và miếu
nên dân quê tôn phụng được linh ứng ngầm
giúp. Giữa chợ có đường cái quan qua lại,
người người tụ hội. Đúng là chỗ tốt đẹp hàng
đầu vậy. Cũng bởi từ xưa, kể cả những ngày
họp chợ mỗi tháng sáu phiên cho chí mùng một
ngày rằm, người ta đều cúng dàng chốn dấu
xưa đành rạnh (hiển tích) đó, cho nên
chợ mới được gọi tên lành là chợ Tam Bảo.
Lần lữa lâu ngày, trải năm trải tháng càng
lâu nên đă hư hại, cần trùng tu đặng cho
được như ban đầu vậy. Ắt là phải nhờ vào từ
người lương thiện cho đến quan quyền lớn,
tuổi thọ cao đều có thể họp lại. Lúc này tứ
phương phẳng lặng, muôn điều thiện cùng vui.
Liền kính nhờ ngài Chưởng giám Tổng Thái
giám Đô đốc Đồng tri Duệ Quận công, vốn quản
phủ Từ Sơn, huyện Đông Ngàn; các ông quan
viên Đỗ Văn Bảng, Đỗ Đ́nh Luận, Nguyễn Chân
Gián, Nguyễn Văn Quảng, Trịnh Trí Trị,
Nguyễn Văn Căn, Tướng thần Nguyễn Quang
Nhân, Xă trưởng Hoàng Xuân Vi, Thôn trưởng
Nguyễn Tuấn Vinh, các ông Hoàng Văn Đạt, Đỗ
Văn Hạc, Đỗ Công Tri, Nguyễn Thu Vi, Nguyễn
Văn Cơ, Hoằng Văn Quảng, Vương Văn Do, Đỗ
Văn Kỷ, Nguyễn Văn Đốc, cùng các ông tín săi
Nguyễn Văn Việt tự Phúc Nhân, Nguyễn Văn Tốt
tự Phúc Hà, Nguyễn Văn Tú tự Phúc Đạo, xă
Hoa Lâm, đứng ra (thân lai) v́ bản xă
mở rộng chợ Tam Bảo lịch sử và xin cúng tế
tam bảo theo lệ cũ như người xưa đă làm. Lúc
ấy lại được các ngài Tán thị Thừa Chánh sứ
ti Tham chính Thụy [ ] nam Lê Đức Vọng, cùng
Tri phủ bản phủ Thọ Lộc nam Nguyễn Hằng
Liêm, Tri huyện bản huyện Trịnh Ngọc Liễn,
Huyện thừa Tuấn Ngạn tử Nguyễn Ngọc Ngô,
cùng nha môn quan lại lần lượt theo đó chuẩn
phê mà cho sửa chợ Tam Bảo như xưa, cũng như
Hữu thừa ti Cai lại Nguyễn Khắc Sĩ tỏ ḷng
kính lễ cũng như miễn trừ cho những săi văi
ở chợ hàng năm ngày sóc vọng đốt hương cúng
dàng tam bảo để báo nguyện.
Trên chúc nước nhà thánh đế minh vương vạn
thọ vô cương.
Dưới chúc thiên hạ thái b́nh vạn năm lâu
dài, cho chí thần liêu trong ngoài cùng xă
dân săi văi thiện nam tín nữ tất cả quả Phật
thiện duyên đến chốn xuân đài thọ vực. Vạn
linh bảo hộ tam bảo chứng minh, ngày 19
tháng 4 năm Bính Thân, thời lành dựng đá làm
bia, khắc ghi đă thành, dựng lên giữa chợ,
để lại lâu dài, tên ghi trên đá, đời sau
được biết, truyền măi bia này.
Minh rằng: Huyện tên Đông Ngàn, xă gọi Hoa
Lâm, Tam Bảo chợ cũ, Đảo Sơn án bắc, Đức
Giang ôm nam, Tây chùa rất kính, Đông miếu
rất thiêng, Làm theo nếp cũ, Chỉ một ḷng
lành, Làm thiện được phúc, Chứng giám rơ
rành, Công ấy đức ấy, vạn đời bia minh.
Ngày tốt tháng 4 năm Thịnh Đức thứ tư.
Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Th́n, đặc tiến
Kim tử Vinh lộc đại phu, Tán trị thừa Chánh
sứ Ty Tán trị thừa chánh sứ các xứ Sơn Tây,
tước Lai Xuyên bá trí sĩ Đồng Chuyết Phu
soạn.
Đỗ ưu hạng hai khoa Thư toán và Thư giám hoa
văn học sinh khoa thi năm Mậu Dần, tước Văn
Lâm nam Nguyễn Sĩ Duyên viết chữ.
Đỗ ưu hạng khoa Thư toán khoa thi năm Nhâm
Th́n, Công bộ đô, quan viên tước Lại Hương
nam Đỗ Văn Vị viết chữ.
Mặt sau:
HƯNG CÔNG TẠO BI
Hưng công
Tạ Thị Phương, Nguyễn Văn Trạng, Dương
Văn Lập tự Phúc Sài ?, Thị Vân hiệu Từ Nhân,
Nguyễn Thị Phượng hiệu Diệu Ḥa.
Mai Hiên xă Nguyễn Văn Hùng, đạo hiệu
Huyền Vi, tự Minh Tiến phát Bồ đề tâm tác
kiều măi bi.
Nam tử Nguyễn Văn Cao tự Minh Nhân, thê
Nguyễn Thị Th́n. Nguyễn Văn Quí, nữ tử
Nguyễn Thị Ước, Nguyễn Thị Đắc tế
Nguyễn Văn Mộ, mẫu Nguyễn Thị Như hiệu Từ
Vinh, Nguyễn Thị Lắm hiệu Từ Xuân, Nguyễn
Văn Ảnh đẳng.
Hoa Lâm xă, Thái Đường thị Văn hội,
Nguyễn Văn Tú tự Phúc Đạo tịnh thê Lê Thị
Liên hiệu Từ Đức, nam tử Nguyễn Văn Tiến,
Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Thị Thi, Nguyễn Thị
Lợn, tế Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Văn Huyên
đệ Nguyễn Thị Dao
Tín thí Nguyễn Văn Liễm, Lê Thị Gương,
Nguyễn Thị Bài, Nguyễn Văn Đổ, Đỗ Thị Hựu.
Thiên Thi huyện, Dă Cầu thôn, Văn
hội
nam Đỗ Viết Phú, săi văi Nguyễn thị Hồng
hiệu Từ Quảng, Nguyễn Thị Kháo hiệu Từ Chân,
Nguyễn Thị Hậu hiệu Từ Quang, Nguyễn Văn
Niên tự Phúc Nhẫn, Nguyễn Thị Tố hiệu Từ
Thông, Lâm Thị Ngoan hiệu Từ Huệ, Mai Thị
Nhiêu hiệu Từ Cẩn, Lê Văn Kim tự Phúc Hiếu,
Lê Thị Gia hiệu Từ Kính, Nguyễn Thị Nguyên
hiệu Huệ Tịnh, Thái Đường Đông thôn Nguyễn
Thị Nhị, Nguyễn Thị Miên, Nguyễn Văn Nguyên
thê Nguyễn Thị Bàng, Nguyễn Thị Nhuyễn,
Nguyễn Sĩ Nghị, Nguyễn Thị Cán, Nguyễn Văn
Cử, Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Thị Thảo.
Bản tự tăng Lê Viết Đô, Đào Tiến Thọ tự
Đức Tông hiệu Huyền Nghiêm, Nguyễn Thị Tôn.
Ngô Khê xă Tạ Thị Ngọc Lư. Thái Đường Thị
Thôn, Nguyễn Thị Chung, Nguyễn Tiến Đống,
Đào Thị Chàng, Nguyễn Hữu Đại, Nguyễn Hữu
Tốt hiệu Đức Nhân, Trí Huệ Tiên Nhân Lại Đà
thôn, Huyện sĩ Nguyễn Triệu Nghiêm tự Phúc
Thông Đạo hiệu
Pháp Cầu,
Nguyễn Văn Thích tự Phúc Đô, văi Nguyễn Thị
Liên hiệu Diệu Phú, Thái Đường Đông thôn
Nguyễn Thị Lá hiệu Từ Thọ, Lưu Công Vinh tự
Phúc Toàn thê Đỗ Thị Hán hiệu Từ Đường,
Hoàng Thị Ninh hiệu Từ Thành, Tạ Thị Biều,
Nguyễn Thị Úy, Mai Hiêu xă Đỗ Văn Đô thê Tạ
Thị Thăng, Nguyễn Văn Tước thê Tạ Thị Má,
Nguyễn Văn Niêm thê Nguyễn Thị Tuyển, Nguyễn
Văn Láu ?
thê Nguyễn Thị Tốn. Du Cầu xă, Du
Nội
thôn, Ca [][] tự Nguyễn Thị Đạm chân đạo đức
tiên Nguyễn Thị Ngọc Xuyến. Ông Xá xă Phạm
Thị Dựng hiệu Từ Mẫn, Đào Thị Xuân hiệu Từ
Dung, [] Xá thôn Đỗ Công Vị tự Phúc Thuận
thê Nguyễn Thị Lộc hiệu Từ Tiến. Mai Hiên
xă, Nguyễn Duy Phùng tự Phúc Nghiêm thê
Nguyễn Thị Ư hiệu Tiên Từ. Thái Đường Thị
thôn Đỗ Tô, Lê Thị Nghĩa, Kiêm Tri phủ sĩ
Nguyễn Viết Phú tự Phúc Lộc hiệu Huyền
Thanh, Thiết Ủng xă Du Ngoại Cổ Lâm thôn,
Nguyễn Thị Năi hiệu Từ Xu, bản xă Sinh đồ
Văn Nham nam Đỗ Văn Hạc tả.
Tuế thứ Bính Thân niên tứ nguyệt cốc
nhật. Thuận An phủ Gia Định huyện, Đoan Bái
xă, Ngọc Thạch cục, cục tượng Văn Mỹ
nam Nguyễn Thứ san.
Mặt sau này của tấm bia không cần thiết phải
dịch.
Tấm bia khẳng định với chúng ta:
1.
Hoa Lâm là vùng quê nổi tiếng (danh
hương) của ông nội, bà nội Lư Công Uẩn.
2.
Thụy hiệu của ông nội bà nội Lư Công
Uẩn là Thánh Thiện.
3.
Lăng miếu của Cha và Mẹ Lư Công Uẩn
là ở đây, nằm ở mé đông của chợ Hoa Lâm và
cũng là phía đông của chùa Trinh Tiết, bắc
là Tam Đảo - Sóc Sơn, nam là sông Đuống.
Một số nhận xét chung:
Có thể nói, trong số những tư liệu thành văn
liên quan đến quê hương Lư Công Uẩn, đến quê
mẹ Lư Công Uẩn, đây là tư liệu có niên
đại định bản SỚM NHẤT. Thực chứng niên
đại định bản có tầm quan trọng hàng đầu để
nhận định về giá trị cũng như nội dung thông
tin. Những tấm bia thời Lư đă từng được khảo
sát th́ một số đă khắc lại, một số c̣n chữ
cũ, để lại cho chúng ta nhiều thông tin quí
nhưng trực tiếp về Lư Công Uẩn và bố mẹ ông
th́ không có. Tấm bia Cổ Pháp điện tạo bi
có niên đại sớm hơn cũng không có thông
tin về nội dung trên. Niên đại định bản
Đại Việt sử kư toàn thư bản sớm nhất
hiện tồnlà bản Chính Ḥa 1697 (sau văn bia
này 41 năm), Thiền uyển tập anh đến
tay chúng ta là bản in Vĩnh Thịnh 1715,
An Nam chí lược mà ta vẫndùng là bản đời
Thanh, Đại Việt sử kí tiền biên
là bản in 1800, các thần tích thần phả dù
mang niên đại sớm như Hồng Đức 3 (1472)
nhưng hầu hết là chép lại hoặc ngụy tạo, các
bản diễn ca lịch sử đều là văn bản được định
bản vào đời Nguyễn, tư liệu sắc phong, câu
đối đ́nh chùa, hoành phi đại tự, đều là tư
liệu hoặc không xác định được niên đại hoặc
có niên đại muộn, chủ yếu là đời Nguyễn, có
cái c̣n được sáng tác vào những năm 1980 đến
sau năm 2000. Các di tích th́ đă nhiều lần
trùng tu hoặc phục dựng. Truyền thuyết dân
gian chủ yếu được ghi lại vào đầu thế kỉ XX
với tính chất rất phân tán về nội dung. Đó
là tấm ḷng của nhân dân, khó mà tin cậy về
mặt lịch sử nếu không có cách phân tích thực
sự khoa học. Tài liệu Trung Hoa ta tiếp cận
chưa được nhiều nhưng chủ yếu cũng rút từ
Tứ khố toàn thư chép lại vào thời nhà
Thanh. Dùng văn học dân gian thay cho sử
liệu rất dễ dẫn đến những nhận định thiên
kiến. Tư liệu khảo cổ học là đáng tin cậy
nhưng chưa hề khai quật đúng mộ ông này bà
nọ đời tiền Lê, đời Lư. “Mộ cổ Dương Lôi” có
thể đào ngay lập tức tại chỗ thêm vài cái
nữa với gạch Hán và Lục triều rơ rệt.
Theo dơi những ư kiến nghiên cứu, tranh luận
về vấn đề quê hương Lư Công Uẩn từ trước tới
nay, chúng tôi chưa từng thấy ai sử dụng tư
liệu tấm bia Hoa Lâm Tam Bảo thị độc
đáo này cho công việc dù nó đă nằm trong kho
Viễn Đông Bác cổ và sau đó là kho Viện
Nghiên cứu Hán Nôm ngót một thế kỉ.
Tấm bia được thực hiện bởi những người có
học vị và tước vị, đều đă và đang thuộc bộ
máy quan phương của triều đ́nh phong kiến
lúc bấy giờ, họ chứng kiến thực tế và có tri
thức sử học. Hơn nữa, chắc chắn họ có sự
đồng thuận của nhiều trí thức khác khi tham
gia trùng tu chợ Hoa Lâm lúc đó. Người soạn
là Đồng Nhân Phái (1581 - ?),
người xă Thiết Úng, huyện Đông Ngàn, nay là
thôn Thiết Úng xă Vân Hà, Hà Nội, sau ông
đổi tên là Đồng Chính Phái.
Năm 48 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân
(Hoàng giáp) khoa thi Mậu Th́n niên hiệu
Vĩnh Tộ 10 (1628) đời Lê Thần Tông. Làm quan
đến chức Công bộ Hữu Thị lang. Được về trí
sĩ. Khi mất, được thăng Thượng thư. (Theo
Các nhà khoa bảng Việt Nam, tr. 533; Bia
số 32 Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Mậu
Th́n niên hiệu Vĩnh Tộ 10). Dù hơn 19
tuổi nhưng ông đỗ cùng khoa và cùng hạng với
nhà sử học nổi tiếng Phạm Công Trứ (1600 -
1643), người sẽ tổ chức hoàn chỉnh bộ Đại
Việt sử kư toàn thư bản in sớm nhất hiện
c̣n (1697). Là đồng liêu, làm việc trong
kinh ḱ nhỏ hẹp với một loạt nhà sử học nổi
tiếng thời bấy giờ như Dương Hạo, Hồ Sĩ
Dương, Đặng Công Chất, Nguyễn Công Bích, Bùi
Đ́nh Viên, Đào Công Chính, Ngô Khuê, Nguyễn
Đ́nh Chính, Nguyễn Công Bật.... cho đến tận
Lê Hy trong đời Lê Thần Tông, lại là Hữu Thị
lang Bộ Công, gắn với việc trùng tu di tích,
chắc chắn tri thức sử học của Đồng Chính
Phái là tin cậy được. Hơn nữa, trong văn bia
có chữ “trùng san” gợi ư cho chúng ta sẽ
rằng có một tấm bia khác xưa hơn nữa với nội
dung tương tự.
Về nội dung, điều cần nói trước tiên là,
việc xác định quê hương (chỗ ở của ông bà,
bố mẹ) Lư Công Uẩn như nội dung tấm bia,
hoàn toàn KHÔNG MÂU THUẪN với bất cứ tài
liệu Hán Nôm khả tín thời phong kiến nào mà
chúng tôi đă có dịp tiếp cận. Các bản Đại
Việt sử kí toàn thư, Đại Việt sử kí
tiền biên... đều thống nhất ghi Lư
Công Uẩn là người CHÂU Cổ Pháp, (nếu khác
đi, th́ đó chỉ là ư kiến của lời bàn hoặc
của những người dịch sách khi chú thích các
địa danh), mà chúng ta biết rằng, châu Cổ
Pháp đời Lư sẽ là phủ Thiên Đức, sau này sẽ
là phủ Từ Sơn th́ trong suốt quả tŕnh lịch
sử, Hoa Lâm nằm gọn gàng trong đó. Tấm bia
cụ thể hóa cho ta biết, trong châu đó, làng
(hương?) Hoa Lâm là quê chính của Lư Công
Uẩn. Đây là thông tin rất quư giá, đáng cho
chúng ta nghiên cứu tiếp tục.
Nói thêm là, năm 2000, chúng tôi đă dập và
giới thiệu tấm bia Lư gia linh thạch
hiện c̣n ở chùa Tiêu. Với những chữ c̣n đọc
được trong nội dung, chúng tôi đă chắc chắn
khẳng định rằng: Những người soạn bia cũng
như quan viên lăo đẳng các xă thôn Đ́nh
Bảng, Dương Lôi, Tam Sơn, Tam Tảo, Tiêu Sơn
Thượng, Tiêu Long (những lực lượng tham gia
trùng tu chùa Tiêu lúc đó) đă đồng
thuận là: Xă Hoa Lâm huyện Đông Ngàn là quê
Phạm Mẫu, mẹ Lư Công Uẩn. C̣n việc họ,
tổ tiên 10 đời của chúng ta, có đúng hay
không th́ chúng tôi sẽ luận giải. Về niên
đại tấm bia ấy, do chữ quá mờ, chúng tôi đă
kết hợp tra cứu lịch sử địa danh với đoán
khuôn chữ, dấu vết c̣n lại và khẳng định là
Cảnh Thịnh nguyên niên (1793). Rất may, bia
này cũng đă từng được dập một mặt vào thời
Pháp thuộc, trên đó, hai chữ Cảnh Thịnh c̣n
rất rơ ràng (kí hiệu bia Vô đề 03897 –
có lẽ v́ tấm bia một mặt úp vào tường mà
những người dập chỉ làm được một mặt và dĩ
nhiên là không biết tên bia). Chúng tôi đă
đúng.
Cũng về nội dung, chúng tôi mạnh dạn cho
rằng, đây là lần đầu tiên, tên THỤY của
tổ khảo tỉ của Lư Công Uẩn được ghi lại,
đó là THÁNH THIỆN. Đại Việt sử kí toàn
thư chỉ ghi sự kiện Lư Công Uẩn vào năm
“Mậu ngọ, Thuận Thiên năm thứ 8, mùa Xuân,
tháng 2, truy phong bà nội làm hậu và đặt
tên thụy”. Tuy nhiên, không rơ tên đó là
ǵ?. Cụm từ: Lư triều Thánh Thiện tổ khảo
tỉ được chúng tôi đưa ra nhiều khả năng
cú đậu:
1.Lư triều thánh thiện / tổ khảo tỉ (thánh
thiện là tính từ đi với Lư triều)
2.Lư triều / thánh thiện tổ khảo tỉ (thánh
thiện là tính từ đi với tổ khảo tỉ)
3.Lư triều Thánh Thiện tổ khảo tỉ (Thánh
Thiện là danh từ riêng với hai cách
hiểu: 3.a, Thánh Thiện tổ khảo/Thánh Thiện
tổ tỉ; 3.b, Thánh tổ khảo/Thiện tổ tỉ).
Sau khi cân nhắc th́ thấy cách hiểu 3.a. là
ổn thỏa nhất. Việc ĐVSKTT không ghi việc Lư
Công Uẩn truy phong cho ông nội mà chỉ ghi
truy phong và đặt tên thụy (không rơ tên)
cho bà nội chắc là do sự khiếm khuyết thư
tịch trước đó gây ra. Chữ Thánh hay
Thánh tổ th́ không phải bàn v́ đó là
trên 3 đời của Hoàng đế. C̣n chữ Thiện
sẽ là thụy danh phong tặng. Chúng tôi vững
tin như vậy và tấm bia quả là một tài liệu
quí giá, bổ sung cho chính sử.
Như vậy, Lư Gia lăng trên đất Hoa
Lâm, dù đă không c̣n, một lần nữa được khẳng
định không chỉ dựa vào thơ của Nguyễn Phi
Khanh, câu đối của Nguyễn Tư Giản và kí ức
của các bậc lăo thành yêu quê hương mà c̣n
bằng văn bia cách đây hơn ba thế kỉ rưỡi.
Bài giới thiệu ngắn này chúng tôi dừng lại
đây. Hẹn gặp các bạn ở các bài viết đang
triển khai như đă giới thiệu ở trên.
Hà Nội, ngày 24 - 6 - 2011
Post ngày:
10/19/17
|