|
Phương ngữ Nam Bộ trong ca dao về
t́nh yêu
« on: Oct 05, 2005, 10:48:57 AM »
Phương ngữ Nam Bộ là một dạng từ ngữ địa phương của
vùng đất Nam Bộ. Nó thể hiện cách nói, cách sử dụng từ ngữ, kiểu phát âm
riêng của con người Nam Bộ. Phương ngữ Nam Bộ c̣n là nơi chứa đựng các yếu
tố văn hóa, phong tục tập quán, sinh hoạt xă hội của con người và vùng đất
Nam Bộ. T́m hiểu phương ngữ Nam Bộ được thể hiện qua ca dao Nam Bộ là một
cách nhằm khẳng định thêm tính độc đáo, sắc sảo, phong phú và đa dạng của
con người Nam Bộ xưa trong việc sử dụng lời ăn tiếng nói của ḿnh.
1. Ca dao Nam Bộ trước hết là ca dao của người Việt ở Nam Bộ nên nó mang
đầy đủ yếu tố của vùng đất Nam Bộ, trong đó có việc sử dụng từ ngữ của con
người ở đây. Sống giữa thiên nhiên hài ḥa và đa dạng với rừng tràm bạt
ngàn và một vùng sông nước bao la cho nên trong lời ăn tiếng nói của con
người ở đây không khỏi ảnh hưởng của các h́nh tượng thiên nhiên này. Cho
nên, có thể nói, giàu tính h́nh tượng là một đặc điểm trong cách dùng từ
của ca dao Nam Bộ:
Chồng chèo th́ vợ cũng chèo
Hai đứa cùng nghèo lại đụng với nhau.
“Đụng” ở đây là “lấy”, “lấy nhau” hay nói cho văn hoa một chút là “kết
duyên” nhau. Với các từ trên, người Nam Bộ có thể hoàn toàn sử dụng được,
nhưng đôi khi con người ở đây không dùng những khuôn mẫu có sẵn đó, mà lại
dùng từ “đụng” rất giàu h́nh tượng này để tạo điểm nhấn, mang sắc thái
mạnh. Chính điều này đă làm phong phú thêm cho kho tàng phương ngữ Nam Bộ.
2. Giàu tính so sánh và cụ thể cũng là một đặc điểm của ca dao Nam Bộ. Nam
Bộ là một vùng sông nước, có hệ thông sông ng̣i chằng chịt nên h́nh ảnh
chiếc ghe, con đ̣, con cá, con tôm, cần câu, cái lờ... là những vật rất
quen thuộc đối với người dân nơi đây. Quen thuộc đến mức đă đi vào tâm
thức của họ và được thể hiện qua lời ăn tiếng nói hằng ngày, cũng như đă
âm thầm đi vào ca dao:
Thân em như cá trong lờ
Hết phương vùng vẫy không biết nhờ nơi đâu.
“Cá - lờ” là một h́nh tượng cụ thể, tác giả dân gian đă lấy h́nh tượng cụ
thể này để làm đối tượng so sánh với con người, cụ thể ở đây là cô gái.
Trường hợp này, ta cũng sẽ bắt gặp rất nhiều trong ca dao Nam Bộ.
3. Một đặc điểm nữa trong việc sử dụng phương ngữ Nam Bộ trong ca dao Nam
Bộ là tính giàu cường điệu, khuếch đại. Đây là cách nói thể hiện rơ nét sự
lạc quan và tính cởi mở của con người Nam Bộ. Tính giàu cường điệu, khuếch
đại này được con người Nam Bộ sử dụng mang tính chất phác, mộc mạc, độc
đáo, gây được ít nhiều cảm xúc cho người đọc:
Anh than một tiếng nát miễu xiêu đ́nh
Cây huệ kia đang xanh lại héo, cá ở ao huỳnh vội xếp vi.
Rơ ràng, chỉ than có một tiếng mà “nát miễu xiêu đ́nh” th́ quả là nói quá.
Nhưng chính cách nói quá này mới tạo được ấn tượng, gây được cảm xúc, tạo
được sự chú ư cho đối phương.
Hay để bộc lộ t́nh thương của ḿnh, người Nam Bộ không ngại nói thẳng, nói
quá, nói cường điệu, nói khuếch đại. Họ nói cốt sao cho hết cái thương
đang cháy bỏng trong ḷng ḿnh:
Anh thương em,
Thương lún, thương lụn,
Thương lột da óc,
Thương tróc da đầu,
Ngủ quên th́ nhớ,
Thức dậy th́ thương
4. Giàu tính dí dỏm, hài hước cũng là một trong những đặc điểm trong cách
sử dụng từ ngữ trong ca dao Nam Bộ. Ca dao Nam Bộ, ngoài những cách nói
cường điệu, giàu h́nh tượng, đôi lúc có phần thâm trầm, sâu lắng c̣n có
những cách nói mang tính hài hước, dí dỏm. Đây là tinh thần lạc quan trong
tính cách của con người Nam Bộ. Chính tinh thần lạc quan này đă tiếp thêm
cho họ sức mạnh trong việc chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt, với
thú dữ hoành hành. Tuy là nói dí dỏm, hài hước nhưng không hẳn là một cách
nói chơi, mà là có ngụ ư, ngụ t́nh. Đó cũng là kiểu nói: “nói chơi nhưng
làm thiệt”:
Bên dưới có sông, bên trên có chợ
Hai đứa ḿnh kết vợ chồng nghen.
Rơ ràng, đây là cách nói mang tính chất vừa nói chơi lại vừa nói thiệt.
Bông đùa đấy nhưng cũng là thật đấy. Nếu đối phương không chịu th́ bảo là
“nói chơi”. C̣n nếu ưng thuận th́ tiếp tục lấn tới tán tỉnh. Và trong bài
ca dao sau, cũng không hẳn là dí dỏm, hài hước, nói cho vui một cách đơn
thuần:
Trời mưa cóc nhái chết sầu
Ễnh ương đi cưới nhái bầu không ưng
Chàng hiu đứng dựa sau lưng
khều khều móc móc cứ ưng cho rồi.
5. Có cách nói hài hước, dí dỏm, lại có cách nói cường điệu, khuếch đại,
ca dao Nam Bộ cũng có những cách nói rất giản dị, chân t́nh. Trong hoàn
cảnh tự t́nh với nhau, đôi khi họ không dùng những từ hoa mỹ, không nói
những từ chứa đựng nhiều tầng ư nghĩa, mà chỉ nói một cách mộc mạc, b́nh
dân, cốt sao bày tỏ được ḷng ḿnh:
Anh về em nắm vạt áo em la làng
Phải bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em.
Quả là mộc mạc, quả là chân t́nh. Trong từng câu từng chữ không có ǵ khó
hiểu cả, tạo được sự cảm thông và gây được cảm xúc cho người đọc.
Hay:
Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt sợi dây
Qua tới đây không cưới được cô hai mày
Qua chèo ghe ra biển đợi nước đầy qua chèo trở vô.
Phương ngữ Nam Bộ ra đời tuy có muộn hơn so với phương ngữ của các vùng
khác, nhưng không v́ thế mà nó nghèo nàn, hời hợt, mà trái lại nó rất đa
dạng, phong phú và sâu lắng. Nó chứ đựng các yếu tố văn hóa, phong tục tập
quán cùng tính cách của con người Nam Bộ. Phương ngữ Nam Bộ không chỉ đơn
thuần là khẩu ngữ của người Nam Bộ mà nó đă bước vào văn học nghệ thuật
với một tư thế rất đường hoàng. Những câu ca dao Nam Bộ vừa dẫn trên là
một minh chứng cho điều này.
Trần Phỏng Diều
Giảng viên Khoa Ngữ văn,
Trường Cao Đẳng Sư phạm cần Thơ
|