| |
-
T́m Hiểu Tiếng Việt
- Trần Ngọc Dụng
- Giảng Viên Việt ngữ/UCR/CCC/SAC
- E-Mail:
tranngocdung@khoahoc.net
- 6
tháng 1 năm 2005
-
- Mục
đích của bài sưu tầm mang tính chất phiếm luận này là nêu lên sự khác biệt
giữa những từ ngữ gốc Hán của người Việt chính thống và từ-ngữ của người
Hán.
-
Chúng ta không nên dùng từ-ngữ „danh từ Hán-Việt“ v́ như vậy là phiến diện
và không chính xác. Bài viết này không có ư tranh luận với bất cứ vị học
giả nào nhưng ngược lại chỉ nêu những nhận xét về ngôn ngữ Việt Nam đang
được sử dụng hàng ngày để cống hiến quư vị.
-
-
Duyên Cớ
-
Trước hết tại sao gọi chữ Tàu là chữ Hán. Xin lưu ư, chữ Tàu hiện đại và
chữ Hán, hay c̣n gọi là chữ Nho, có một vài sự khác nhau nhỏ cần nắm vững
để khỏi nhầm lẫn:
- Chữ
Hán, theo Sử Kư Tư Mă Thiên, một sử gia trứ danh đời Hán (khoảng 130-90
ttl) trong lịch sử nước Tàu dưới quyền cai trị của Hán Vũ Đế (ḍng dơi Lưu
Bang, 140 - 85 ttl) là thời kỳ vàng son nhất của lịch sử nước Tàu cổ đại.
-
Trong suốt thời gian trên 50 năm, Hán Vũ Đế bành trướng được lănh thổ rộng
nhất: phía tây bao trùm cả Tân Cương, Trung Á; phía đông gồm cả bán đảo
Triều Tiên, đến Hán Thành (Seoul); phía nam gồm bắc phần nước Việt, tạo
nên một cuộc thái b́nh mà các nhà sử học Tây phương gọi là Thái B́nh Hán
quốc (Pax Sinica), rộng lớn hơn cả Thái B́nh La Mă (Pax Romana).
- Với
uy thế của Hán Vũ Đế mạnh mẽ như vậy nên năm 111 ttl dẹp Nam Việt do Triệu
Đà gầy dựng và lấn chiếm luôn cả nước Việt chúng ta. Từ đó người Hán đặt
ách thống trị lên toàn cơi đất Việt. Bởi có ảnh hưởng rộng lớn đó mà người
ngoại quốc cũng gọi người Tàu là người Hán, và văn tự của người Tàu được
gọi là chữ Hán. Họ dùng Sino- để chỉ những ǵ liên quan đến người Tàu, như
Sino-Viet, Sino-Tibetan, Sinology.
- C̣n
chữ Tàu là sao? Nói nôm na là ngôn ngữ đang sử dụng tại Trung Cộng,
Hồng-kông, Đài Loan hiện nay (tiếng Anh gọi là modern Chinese). Ở đây
chúng tôi muốn nói đến tiếng Tàu tại Trung Cộng v́ tại đây họ dùng quan
thoại (thứ tiếng do các quan nói chuyện với nhau). Chỉ cần so sánh hai câu
dưới đây là thấy ngay sự khác biệt giữa từ ngữ gốc Hán và tiếng Tàu.
-
A: Che'n sen sung. Ń hào ma? (Trần tiên sinh. ông có
khoẻ không?)
-
B: Pủ à. Ẉ pủ hào à. (Không khoẻ lắm. Ngă bất hảo à.)
-
-
Trong câu trả lời của Trần tiên sinh, chữ pủ hào tức là
bất hảo, nghĩa là không khoẻ.
-
Cha ông ḿnh nói: “Đó là thành phần bất hảo.” Trong câu
này có 4 từ-ngữ gốc Hán: thành, phần, bất, hảo. Bất hảo trong câu này
nghĩa là xấu xa, có hại cho kẻ khác, cho làng xă. Trong một xă mà có vài
thành phần bất hảo này th́ dân làng sẽ chịu lắm cảnh ăn cắp, ăn cướp, hiếp
đáp phụ nữ, vv.
-
Từ đó chúng ta thấy người Tàu và người Việt dùng chung
một từ-ngữ mà hai ư nghĩa khác nhau. Thí dụ người Hán nói tiểu tâm
nghĩa là “tánh cẩn thận hay chú ư đến những chi tiết nhỏ nhặt” trong khi
người Việt chỉ dùng để nói về người “có tánh nhỏ mọn, chi li, tâm địa hẹp
ḥi” là một trong những tánh xấu thường thấy trong một số người. Người
Việt nói mă thượng để chỉ người có “chí khí anh hùng”, như một đấng
anh hùng mă thượng (người anh hùng không giết người ngă ngựa) trong khi
nghĩa Hán mă thượng là “tức th́” như Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, dục khách
giang hồ mă thượng thôi ...(một ly rượu uống với nhau rồi hăy nhanh chân
mà đi). Anh chị em trong nhà hoà thuận với nhau th́ người Hán nói anh em
hoà hảo. Người ḿnh không bố trí bàn ghế trong nhà mà sắp đặt, trong khi
người Hán dùng an bài để sắp đặt công việc. Người ḿnh dùng an bài
như một sự chấp nhận số mạng đă được định trước.
-
Gần đây trong kế hoạch xây dựng hoà b́nh ở Trung Đông,
Hoa Kỳ nói đến cái roadmap th́ các báo Việt dùng từ-ngữ lộ đồ, trong khi
các báo Hoa th́ nói là lộ tuyến đồ. Theo thiển ư của chúng tôi nên dịch
roadmap là kế hoạch hay kế sách. Có người c̣n dùng cả lộ tŕnh th́ hơi quá
trật. V́ lộ tŕnh nghĩa là những nơi sẽ phải đi qua rơ ràng, có ngày giờ
hẳn hoi và có thể thực hiện được trong một thời gian định trước. Trong khi
roadmap th́ kế hoạch có tính cách dự liệu nhằm đạt đến một mục đích mà
thời gian và phương thức có thể thay đổi hoặc không thể thực hiện được
ngay v́ c̣n phải tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thực tế và thiện chí của mỗi bên.
(Nên nhớ chữ roadmap có hai nghĩa, đây là nghĩa thứ hai)
-
-
Người Việt có Ngôn Ngữ riêng không?
-
Theo sử liệu, tiếng Việt trước thời Bắc thuộc “có h́nh
quăn queo” như giun (trùn) ḅ (1) , và “ngay từ thời Đào Đường (khoảng
thiên niên kỷ thứ II trước tây lịch), người Việt đă có lối chữ riêng,
trông như đàn ṇng nọc.” (2)
-
Ngoài ra, trong Hoá Quan Phong, Vương Duy Trinh - một
nho sĩ trong thế kỷ 19 - cũng nói đến thứ chữ cổ của người Việt có h́nh
dạng giống như chữ cổ của người Mường vùng Thanh Hoá.
-
Thế nhưng chưa ai t́m thấy được một di tích nào để
chứng minh các điều vừa nêu trên đây là đúng. V́ sao? Bởi v́ người Việt bị
người Hán xâm chiếm và cai trị gần một ngh́n hai trăm năm (207ttl - 938stl
(3) ). Trong thời gian này có hai sự kiện diễn ra: một mặt người Hán t́m
mọi cách xóa sạch ngôn ngữ và văn hóa người Việt, mặt khác áp đặt lên
người Việt ngôn ngữ và văn hóa của họ.
-
Đây là một thí dụ về tiếng Việt cổ của chúng ta (Trích
từ T́m về Bản Sắc Văn Hoá Việt Nam, Trần Ngọc Thêm, 1997, tr.96)
-
-
-
Ảnh hưởng của chữ Hán đối với tiếng Việt
-
Trải qua một thời gian dài bị nô lệ như vậy, tiếng Hán
được sử dụng như là “quốc ngữ” để làm phương tiện ghi chép trong mọi lănh
vực sinh hoạt xă hội: sử liệu, văn chương, văn thư hành chánh, thi cử,
vv... , tạo thành một giai tầng thay thế hoàn toàn cái ǵ của người Việt
đă có từ trước. Người Việt phải học lịch sử và văn học của người Hán,
nhiều đến nỗi cho đến ngày nay đa số người Việt biết rành rẽ về lịch sử và
điển tích của người Hán nhiều hơn lịch sử và điển tích của chính nước ḿnh.
-
Nhưng may thay, Việt Nam là một nước nông nghiệp, tuy
nghèo nhưng sống định cư, và có truyền thống “phép vua thua lệ làng.” Dân
làng là những người quanh năm chỉ biết có mảnh vườn và thửa ruộng, họ
không cần thuộc Tứ Thư, Ngũ Kinh, không biết làm thơ Đường. Họ chiếm đa số
và thuộc về giai tầng thấp kém trong xă hội. Nhờ vậy mà cái khuôn thước
ngàn đời vẫn được giai tầng này lưu giữ cho chúng ta sử dụng ngày nay.
C̣n cái giai tầng do người Hán áp đặt và được tiếp tay bởi chính quyền
đương thời không thẩm thấu hoàn toàn xuống tất cả làng mạc Việt Nam, nơi
mà tiếng Việt và nếp sống Việt vẫn c̣n được bảo tồn măi măi.
-
Do đó trong suốt thời gian bị đô hộ đó cha ông người
Việt chúng ta đă thu thập từ người Hán những kiến thức về mọi lănh vực, mà
ngôn ngữ đóng vai tṛ rất quan trọng, sau đó chọn lọc và sử dụng chữ Hán
“theo tinh thần tiếng Việt” để trở thành tài sản riêng của người Việt.
-
-
Tinh thần sáng tạo
-
Khi hai giai tầng xă hội cùng tồn tại song song như vậy,
luôn luôn có sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Giai tầng thượng lưu t́m
cách phổ biến cái học thuật mới du nhập được vào đại đa số dân chúng th́
ngược lại trong dân chúng cũng có những người vươn lên qua con đường khoa
bảng cũng mang theo bên ḿnh ước vọng muốn chứng tỏ cho giai tầng trên
thấy cái tiềm năng của ḿnh. Những người này là những sĩ phu yêu nước khi
ly loạn, và là những tiếng nói rất mạnh mẽ đại diện cho giai tầng thấp hơn.
Nhu cầu chữ viết cho tiếng Việt thuần túy (chữ Nôm) nảy sinh. Do nỗ lực
của hai giai tầng nhằm tạo ảnh hưởng cho nhau vô h́nh trung tiếng Việt trở
nên phong phú lạ thường!
-
-
Chữ Nôm
-
Chữ Nôm, một biến cách của chữ Nam, là cách gọi nôm na
chỉ ngôn ngữ Việt Nam được nói bởi người Việt, tuy không c̣n chữ viết
riêng mà phải dùng chữ viết của người để diễn tả. Ngày xưa th́ mượn cách
viết của người Hán, ngày nay th́ mượn cách viết của người Tây phương. Đây
quả là nỗi buồn vạn thuở!
-
Theo kết cấu có thể được chia ra làm ba loại chính:
loại thứ nhất là âm Việt hóa và nghĩa của tiếng Hán, loại thứ hai gồm âm
và nghĩa hoàn toàn của người Việt bằng cách ghép hai hay nhiều chữ Hán lại
với nhau và loại thứ ba, âm Hán được Việt hóa nhưng nghĩa khác với nghĩa
chữ Hán.
-
Về loại một - âm Việt hóa với nghĩa tiếng Hán: Số lượng
từ-ngữ thuộc loại này chiếm gần 70 phần trăm (4) trong tổng số tự-vựng
tiếng Việt.
-
Thí dụ: tâm (tim), tiểu (nhỏ), đại (lớn), quốc (nước),
gia (nhà), thảo mộc (cỏ cây; ḿnh nói 'cây cỏ') sanh tử (sống chết), khoái
lạc (chữ khoái c̣n có nghĩa mới là nhanh. Trong chiến thuật ngày trước có
tứ khoái nhất măn: 4 nhanh 1 chậm. Đó là chuyển quân nhanh, tấn công nhanh,
thanh toán chiến trường nhanh, rút nhanh nhưng chuẩn bị trận đánh phải
thật chậm - tức phải nghiên cứu thật kỹ càng), vv.
-
-
Loại thứ hai - âm và nghĩa hoàn toàn của người Việt.
Đây chính là nhu cầu của giai tầng thứ hai trong xă hội Việt Nam cần đến.
Để diễn tả được những từ-ngữ Việt thuần túy, người Việt đă dùng hai chữ
Hán ghép vào với nhau - một chữ để chỉ âm và một chữ chỉ nghĩa, hoặc dùng
chữ Hán có thêm dấu thanh giọng.
-
Thí dụ: trăm '100' - gồm hai chữ bách nghĩa là '100'
và lâm chỉ âm đọc,
-
ḍng gồm bộ thủy chỉ 'nước' và
chữ dụng nghĩa 'dùng' làm âm đọc,
-
dạy là do hai chữ khẩu 'miệng'
+ đại 'lớn'
-
năm (trong năm tháng) do hai
chữ năm (số 5) và niên 'năm'
-
đến (chí + đán); chí chỉ nghĩa
đến và đán tượng trưng cho âm đọc
-
trời do hai chữ Hán thiên 'trời'
+ thượng 'trên', vv…
-
-
Loại thứ ba - âm Hán được Việt hóa nhưng nghĩa khác với
người Hán. Hiện tượng này dường như là một h́nh thức dịch mà lư thuyết gia
về dịch thuật như Roman Jackopson, J. Catpord gọi là transmutation
translation. Chẳng hạn như Bissiger Hund! Có nghĩa là đen là Chó Cắn!
Tiếng Anh th́ dịch thành Beware of dog! 'Coi Chừng Chó'. Cả hai cách chó
cắn và coi chừng chó đều không phù hợp với cách hiểu của tiếng Việt ḿnh.
Phải nói Coi Chừng Chó Dữ! mới đúng.
-
Ngoài việc vay mượn chữ Hán làm chữ viết riêng của ḿnh
người Việt luôn luôn t́m cách thoát khỏi “bàn tay thống trị” của ngoại
bang một cách có ư thức. Người Việt thường t́m cách nói trại những chữ Hán
để cốt sao cho lột tả tinh thần Việt Nam trong mỗi lời nói. Chẳng hạn như
tiếng Hán nói diễu hành th́ người Việt nói diễn hành, phản ánh thành phản
ảnh, thục huyền thành tục huyền, vv.
-
Nhân tiện đây chúng tôi xin phép được giải thích tại
sao người ta gọi mẹ ghẻ. Rất nhiều người khi được hỏi đến chữ này đều cười
và trả lời, có lẽ bà đó bị ghẻ! Mẹ ghẻ thường phải trẻ và đẹp hơn mẹ ruột
cớ làm sao có ghẻ được. Thưa không phải vậy. Môt số từ ngữ gốc Hán có âm
đầu là [k] th́ trở thành [g] như can (trong can đảm = gan mật), khương =
gừng; các = gác. Do đó mẹ ghẻ là do chữ kế mẫu mà ra. Trong quá tŕnh Việt
hoá, có lẽ người ta đă dùng mẹ kế trước. Sau đó chữ kế > ghế là giai đoạn
hai. Và sau cùng, cùng với cảm tính không đẹp về tánh t́nh của bà mẹ này
nên dần dà biến ghế > ghẻ.
-
Hiện tượng này gọi là sự biến âm. Ngôn ngữ nào cũng nằm
trong qui luật này. Thử đọc câu dưới đây mới thấy sự khác biệt giữa tiếng
Anh thời trung cổ:
-
Loverd, we aren bõe ̃ine, ̃ine cherles, ̃one hine.
- Và
tiếng Anh ngày nay là:
-
Lord, we are both yours, your humble
people, your servants.
-
Hoặc chữ lord như trong landlord, great lord of banking
là do hai chữ loaf 'bánh ḿ' và ward 'pḥng chứa' > loafward, loaf-keeper
'người giữ ch́a khoá kho bánh ḿ'. Thời cổ chữ này viết là hl!fweard >
loverd, qua thời gian > lord.
-
Chữ your hoặc yours cũng vậy. Từ xưa cho đến khoảng vài
trăm năm trước người Anh có chữ thou 'mày' và you 'quư vị'. Chữ thou ngôi
thứ hai số ít th́ dùng với thee như trong I love thee, and thou love me.
Cũng như nói thou art 'mày là'. Thế nhưng ngày nay đều dùng chung you are
nguyên dành cho ngôi thứ hai số nhiều. Thời xưa viết là "ower > thy, thine
> your.
-
Một hiện tượng nữa trong sự phát triển của ngôn ngữ là
sự kết từ (coinage). Người ta dùng hay hai ba chữ kết lại với nhau thành
từ-ngữ mới ngắn gọn hơn. Tiếng Việt chúng ta có
-
bọn mày > bay bằng này > bấy
đằng nào > đâu
-
bằng nào > bao bằng ấy lâu > bấy lâu
đằng nọ > đó
-
chưa có > chửa
-
dai như chăo rách > dai nhách hai mươi
> hăm ba mươi > băm
-
-
Ở miền Trung và miền Nam c̣n có cách nói cũng theo lối
kết từ trên đây:
-
bà ấy > bả ông ấy > ổng
anh ấy > ảnh
-
bên ấy > bển chị ấy > chỉ
cha ấy > chả
-
chừng ấy > chửng d́ ấy > dỉ
đằng ấy > đẳng
-
hôm ấy đến nay > hổm rày ngoài ấy >
ngoải trong ấy > trỏng
-
vậy đó > vẩy hồi năy giờ
> hỗi giờ (nhớ chữ này viết dấu ngă)
-
Ngày trước khi từ giă nhau người Anh thường nói God be
with you. Vậy mà ngày nay chúng ta chỉ nghe Goodbye. Xét về nghĩa,
Goodbye làm sao đầy đủ bằng God be with you. Thế nhưng hiện nay người ta
cũng bắt đầu bỏ luôn chữ Good, chỉ c̣n lại Bye mà thôi.
-
-
Bảo đảm hay đảm bảo?
-
Về những từ-ngữ gốc Hán xa xưa mà cha ông ta đă từng
dùng qua nhưng cảm thấy không phù hợp nữa nên đă thay đổi cho phù hợp với
tinh thần Việt Nam. Phải chăng đây cũng là một cách chứng tỏ tinh thần độc
lập của người Việt, ngay cả về ngôn ngữ? Đáng kể nhất là những từ-ngữ viết
theo “kiểu Hán” nghĩa là tiếng chính đứng sau và được bổ nghĩa bằng tiếng
phụ đứng trước.
-
Tưởng cũng nên nhắc lại là cấu trúc tiếng Việt là tiền
vị thể (head initial) tức là tiếng chính đứng trước rồi mới đến các tiếng
bổ nghĩa theo sau. Trong khi đó tiếng Hán (hay tiếng Tàu hiện đại) là hậu
vị thể (head final), tức tiếng chính đứng sau, các tiếng bổ nghĩa đứng
trước giống như tiếng Anh. Người Tàu nói the White House = toà Bạch Ốc (từ
gốc Hán).
-
Chữ Việt nói người đẹp th́ chữ Hán phải là mỹ nhân.
Ngay cả bản thân một từ-ngữ ghép mà cả hai tiếng được ghép với nhau đều là
Việt, Hán cũng theo tinh thần đó. Ví dụ như người ta nói triển khai, người
ḿnh nói khai triển. Tại sao? Nghĩa của từng chữ cho thấy nên theo thứ tự
nào: khai 'nở ra', triển 'mở ra'. Ngày trước khi gửi thư cho nhau người
Hán dùng chữ triển khai hoặc triển khán đề ngoài b́ thư có ư nói 'hăy mở
ra mà xem'. Người Việt dùng ngược lại khai triển v́ theo khái niệm của văn
hoá thảo mộc, một hạt mầm phải trương nước nở ra bên trong trước rồi mới
làm cho cái vỏ ngoài mở ra để từ đó phát triển. Người Tàu nói đảm bảo th́
người Việt nói bảo đảm cũng thuộc tính chất này. Nên nhớ nền văn minh Việt
Nam là văn minh thảo mộc định canh, lấy nước làm trọng nên nước ngoài
nghĩa thuỷ c̣n có nghĩa là quốc.
-
Khi đổi sang tiếng Việt cũng vậy. Người Tàu nói ẩm thực,
người ḿnh nói ăn uống. Thảo mộc > cây cỏ (thảo: cỏ; mộc: cây). Từ đó có
những chữ mà theo kết cấu tiếng Việt chúng ta vẫn dùng một cách “vô lư dễ
thương” như chữ cứu văn (cứu: 'cứu mạng, cứu thoát'; văn: 'kéo vào bờ').
Từ đó cứu văn hiểu theo cách Việt Nam là 'cứu mạng sống trước rồi mới kéo
vào bờ sau'. Lẽ ra nên đổi thành văn cứu như trong văn hồi trật tự mới
phải. Nhưng v́ ai cũng dùng quen rồi nên vẫn cảm thấy thoải mái.
-
Ngoài việc đổi thứ tự của từ-ngữ theo tinh thần Việt
Nam, trong kho tàng tự vựng tiếng Việt, sự đọc trại từ âm nguyên thuỷ gốc
Hán xảy ra rất nhiều. Hăy xem các từ-ngữ này, mặc dầu c̣n mang đậm nét gốc
Hán, vẫn được dùng theo cách nói Việt Nam:
-
Gốc Hán đọc là Việt đọc là
Gốc Hán đọc là Việt đọc là
-
để kháng đề kháng
thống kế thống kê
-
phong thanh phong phanh
thù hận thù hằn
-
pháp tắc phép tắc
an uỷ an ủi
-
châu bảo châu báu
sai khiển sai khiến
-
bất kế bất kể
vô cố vô cớ
-
phụ hoà phụ hoạ
tự hồ tựa hồ
-
thời cục thời cuộc
đại bằng đại bàng
-
khẩu trao khẩu trang
tinh giản tinh giảm
-
-
Về cấu trúc câu, chữ Hán viết hơi ngược với cách nói
với người Việt và thường lặp lại chữ trong cùng một câu: Thí dụ:
-
Kinh Dương Vương chi tử à con của vua Kinh
Dương
-
Bách mẫu chi điền, thất phu canh nhi à Kẻ
ngu dốt này cày 100 mẫu ruộng.
-
Thiên nhân chi nặc nặc bất như nhất sĩ chi
ngạc ngạc. à Những lời vâng dạ của ngàn người không bằng lời nói cương
trực của một kẻ sĩ. (Sách Sử Kư -Thương quân truyện; theo Văn Sách chữ Hán
của cụ Phạm Tất Đắc, nxb Khoa Học Xă Hội, Hà Nội, 1996, tr. 86)
-
Một điểm nữa có lẽ không kém phần quan trọng. Đó là
người Việt biết “tương kế tựu kế” để đánh lạc hướng kẻ thù: mượn chữ của
người mà dùng theo lối ḿnh để người ta không hiểu ḿnh. Do đó mới có sự
xuất hiện của chữ Nôm
-
Đố quư vị bạn Mỹ nào hiểu được câu tiếng Anh này nếu
được viết như sau:
-
Ay đông uân tu gâu uưch hơa bi cơ xờ ay đông uân may
uay tu thinh dát si i may gơn phren.(5)
- Bài
sau chúng tôi sẽ bàn về chữ với nghĩa trong tiếng Việt.
-
-
Trần Ngọc Dung
-
- (1)
Sách Thánh Tôn di thảo chép: „Vua Lê Thánh Tôn nằm mộng thấy có người
thiếu phụ đời Lư Cao Tông dâng thư bày tỏ nỗi oan ức để xin được cứu xét.
Thư viết bằng thứ chữ ngoằn nghoèo như giun ḅ. Sau đó nhà vua lại được
thần nhân mách bảo đó là chữ viết cổ xưa của dân Việt ḿnh.“ (Phỏng theo
Cơ Sở Ngữ Văn Hán Nôm, Lê Trí Viễn chủ biên, nxb Giáo Dục, 1984 trang 22.)
-
(2)sách Tiền Hán thư, một cổ sử của Trung Hoa viết từ thời Đông Hán. Sách
dă dẫn (1)
-
(3)trước tây lịch, sau tây lịch
-
(4)T́m Về Cội Nguồn Chữ Hán, Lư Lạc Nghị & Jim Walters, nxb Thế Giới, Hà
Nội, 1998:ix
-
(5) I don't want to go with her because I don't want my
wife to think that she is my girlfriend.
-
- Ư
kiến, Phê b́nh xin gửi về :
E-Mail:
tranngocdung@khoahoc.net
|
|