Tự Điển Ca Dao Tục Ngữ
Nghệ Tĩnh
A
Ả em du như bù (bầu)
nác (nước) đấy
(đái)
Quan hệ giữa chị em dâu thường không được thắm
thiết như quan hệ giữa chị em gái. Khi đôi bên đối xử với nhau lạnh
nhạt, xem nhau như người dưng, dân gian thường ví: Ả em du như bù
(bầu) nác
(nước) lạnh. Còn khi quan hệ giữa
đôi bên xấu hơn, không còn tôn trọng nhau, ganh ghét, dè bỉu nhau thì
thành ngữ này được dùng để chỉ mối quan hệ đó.
X. Ả em du như bù (bầu)
nác (nước)
lạnh (nước lã)
X. Ả em
du như bù (bầu) nác (nước)
nể (nước lã)
Ả em du như tru (trâu) một bịn
(Bịn: cái lỗ được trổ ở đầu cây gỗ để buộc dây
vào kéo gỗ từ nơi khai thác về địa điểm tập kết (bến bãi). Dây dùng để
buộc vào bịn gọi là chạc
bịn. Thường là gỗ to nên khi kéo
phải dùng đến hai ba con trâu cùng kéo, mỗi con trâu phải có một người điều khiển. Con trâu đứng đầu gọi là
trâu bịn, người đứng đầu gọi là người đứng bịn, khi con trâu đứng đầu
lấy đà để kéo
được gọi là tru bịn). Thành ngữ này hàm chỉ và
khuyên răn chị em dâu trong gia đình phải đoàn kết, chung lưng đấu
cật xây
dựng gia đình
như những con trâu
cùng chung một
chạc bịn để
kéo gỗ. Nhà
ta thật có phúc, ả em du nhà ta như tru một
bịn.
Ả em du như khu (đít)
ẻ (ỉa)
trịn
Ả em du nói tru (trâu) thành bò
Ả em
gấy (gái) như
trấy
(trái) cau non
So sánh sự khác nhau giữa hai mối quan hệ.
Quan hệ giữa chị em dâu khác huyết thống
nên thường lạnh nhạt,
dễ nảy
sinh mâu thuẫn, đố kỵ, ganh ghét lẫn nhau. Ngược lại, quan hệ giữa chị
em gái
là quan hệ con một nhà, cùng huyết thống,
chị em đùm bọc, thương yêu, nhường nhịn nhau:
Ả em
gấy (gái) như
trấy
(trái) cau non Hàm chỉ mối quan hệ
tốt đẹp trong ứng xử giữa chị em gái trong gia đình. Coi bên nhà
người ta, chị em gấy
như trấy
cau non.
Ác (quạ) ăn dưa bắt cò chịu tội
1- Quạ là
loài
chim tinh khôn, khoét đưa ăn rồi lẩn mất làm mấy chú cò hiền lành đậu ở
ruộng dưa phải chịu tội thay.
2 - Kẻ gian lọt lưới người ngay dính đòn.
Ác ăn dưa bắt cò chịu tội;
Rửa oan tình cò lội
nước măng.
Ca dao
Ác đen (quạ đen) độ cơn quế (đậu cây quê)
Quế là cây có vỏ chứa tinh dầu cay và thơm làm
dược liệu quý có nhiều công dụng. ác đen là loài chim ăn thịt có bộ lông
đen, sải cánh dài hay bắt gia cầm trông bẩn thỉu, xấu xí, gớm ghiếc.
Người xưa rất có ác cảm với loại chim này. Hàm chỉ sự không tương xứng,
thường là trong quan hệ lứa đôi.
Đau đớn thay cho cơn (cây) quế giữa rừng,
Để ác đen nó độ
đau lòng quế thay.
Ước gì con ác nó bay
Phượng hoàng nó
độ, quế nay
bằng lòng.
KTCDXN,
T. 1 ,
tr. 446
Ác như chó
Chó là loài gia súc có bản
tính vào loại
hung dữ. Chỉ loại người độc ác, tàn bạo, sẵn sàng ra tay làm hại người
khác. Thằng cha đó ác như chó.
Ác (con quạ) ngồi ngọn tre, ác lo thân ác,
Bèo nằm mặt
nác bèo lo thân bèo
1 - Quạ đậu vắt vẻo ngọn cây bèo nằm lênh đếnh
mặt
nước, đều là những vật không tự định
đoạt được số phận, vị thế của chúng.
2- Mỗi người một cảnh ngộ khác nhau, ai lo
thân nấy.
Chúng ta thì giúp được gì nhau,
Ác ngồi ngọn tre ác lo thân ác,
Bèo nằm mặt nước, bèo lo thân bèo.
Ác tắm thì giợ
(tạnh), tráo trợ (sáo mình đen mỏ vàng) tắm thì mưa
Kinh nghiệm xem thời tiết trong dân gian: thấy
quạ tắm biết trời nắng, thấy tráo trợ tắm biết trời sắp mưa.
Ai đen ai trắng ra nắng mới hay
1 - Xét về bản chất, da ai đen hay
trắng thì ra phơi nắng sẽ biết
người
da vốn đen sẽ bắt nắng rất nhanh,
còn người da vốn trắng thì ngược lại).
2- Qua thử thách mới rõ ai tốt, ai
xấu.
Ai đen ai trắng ra nắng mới hay
Ai thẳng ai ngay tối ngày cũng
biết.
HPV
Ai biết có
sôống
(sống) đến mai mà để cổ (củ) khoai đến
mốt
X.
Biết sự trời mười đời khỏi đói.
Cái việc sống chết của con người là
vô thường
chẳng ai có thể biết trước được
không nên lo lắng hão huyền làm gì cho mệt xác, sống ngày nào biết ngày
ấy.
Có thì cứ ăn, dành dụm làm gì,
Ai
biết
có sôống
đến
mai mà để cổ khoai
đến
mốt.
Còn trong
tay
chó
chết
ai đã
biết
thân ai.
"Biết
có sống đến
mai, để củ khoai đến
mốt
".
HGNT.
tr.278
Ai không ăn gai đầu mùa là dại, ai
không ăn mít trái mùa là ngu
Gai đầu mùa, mít trái mùa thường có
hương vị thơm ngon và hấp dẫn hơn gai và mít giữa vụ.
Ai lanh (nhanh) tày thì tày
đụa
(đũa)
(Tày đũa: trước khi ăn phải so đũa
để chọn đũa đúng kích cỡ, đầu đũa dùng để gắp phải cho tày thì mới gắp
được) Kẻ nhanh nhẹn thì được hưởng lợi nhiều. Vào lúc bát nháo này,
ai lanh tay thì tày
đụa.
Ai mà biết ma ăn
cộ
(cỗ)
1 Chẳng ai biết điều không thể biết
được.
2- Nghi ngờ về điều gì đó mà chưa
xác định được. Nếu
ai mà biết ma ăn cỗ, chắc chi họ đã
mần
(làm) giỗ đúng ngày.
Ai muốn ăn bún ăn long thì sang Thổ
Hậu lấy chồng mà ăn
Địa danh Thổ Hậu thuộc xã Diễn
Quảng, Diễn Châu, Nghệ An.
Ai vác dùi đục đi hỏi vợ
(Dùi đục: Thanh gỗ, một đầu to
vuông dùng để nện vào cán đục, cán chàng; một đầu nhỏ tròn dùng để cầm).
ý nói làm
việc gì phải có phương tiện phù
hợp.
Mi mần
cái chi cũng
không có
ý, có tứ, ai lại vác dùi đục đi
hỏi vợ.
Ai về Hà
Tĩnh
thì về, mặc áo lụa Hạ, uống nước chè Hương Sơn
(Lụa Hạ: lụa tơ tằm, bền đẹp có
tiếng, bán tại chợ Hạ, Châu Phong, Đức Thọ)
1- Lụa Hạ, chè Hương Sơn là những
đặc sản của Hà Tĩnh.
2- Đây
là
câu ngạn ngữ nói lên niềm tự hào của người Hà
Tĩnh
xưa về những đặc sản của quê hương.
Ai về Thạch Hạ mà coi (xem), bắc
nồi lên bếp xách oi ra đồng
(Thạch Hạ là xã giáp biển của huyện
Thạch Hà, Hà Tĩnh,
đất nhiễm mặn, bạc màu, dân tình nghèo nàn, xơ xác cái ăn hàng ngày
không tự túc nổi: ăn bữa nào lo bữa ấy. Oi: giỏ đựng cua, cá hình quả
bầu gáo, nắp miệng có hom để giữ không cho cua, cá bò ra). Chỉ cuộc sống
tạm bợ, gặp chăng hay chớ.
Ai về Thạch Hạ mà coi,
Bắc nồi lên bếp, xách oi ra đồng
Ví
phường cấy
Anh ba sương gặp
nường
(nàng) bảy nắng
1 - Ba sương bảy nắng
là
chỉ sự từng trải gian khổ, những kẻ lận đận long đong gặp nhau, sự đói
nghèo cực khổ gặp nhau. 2- Đã rủi ro, cay cực lại càng thêm rủi ro cay
cực. Thí dụ: Mi (mày)
lấy
nó làm chồng thì đúng là anh ba sương gặp
nường
bảy nắng. 3- Cả hai bên
đều không phải tay vừa, đều là những tay anh chị từng trải, có bề dày
thành tích bất hảo gặp nhau. Thí dụ: Răng (làm sao) mà rành khéo
chọn, anh ba sương lại gặp
nường
bảy nắng.
Anh chưa vợ như chợ chưa có đình
(Đình chợ là những cái nhà to rộng
dùng để che mưa nắng cho người mua kẻ bán khi họp chợ; chợ chưa có đình
thì không thể họp được) Trạng thái chưa ổn định trong sinh hoạt của
người con trai khi chưa có vợ chưa có gia đình riêng.
Anh chưa vợ như chợ chưa có đình,
Trời mưa dông đôi ba hột
biết
ẩn mình vô mô.
KTCDXN,
T.
1 , tr.
224
Anh em chém chắc (nhau) đàng sống
không chém chắc đàng lại (lưỡi)
Anh em .máu mủ ruột rà nếu có tức
giận, xô xát thì cũng không thể nặng tay với nhau. Đã là anh em thân
thích thì không nên sống cạn tình cạn nghĩa với nhau.
Anh em ghét nhau ốm đau tìm đến
X
Anh em chém nhau đằng sống không chém nhau đằng lưỡi.
Quan hệ máu mủ, ruột rà chi phối
mọi quan hệ khác (kể cả những quan hệ xấu nhất thời – ghét nhau), dù có
xích mích thì khi gặp hoạn nạn vẫn phải giúp đỡ nhau. Anh em dù có
ghét nhau, Vẫn tìm nhau lúc ốm đau rạc
rài.
Ca dao
Anh em rể như
chủi
(chổi) sể quét nhà
(Chổi sể là loại chổi mà dân Nghệ
thường làm bằng nhánh cây dành, ngọn chổi hình búp hoa, dùng để quét
loại rác to. Nếu chổi sể dùng để quét nhà thì do rác nhỏ cho
nên
khi quét rác không bị lùa đi hết mà thường bị ngọn chổi làm bật lại) Anh
em rể thường hay
khích bác nhau, ít nhường nhịn
nhau, nhất là khi ở nhà bố vợ. Hàm chỉ quan hệ anh em rể thường không
tốt đẹp.
Nhà đó anh ém rể như chổi sể quét
nhà, kèn cựa nhau từng tí một.
Anh thuận em Hòa là nhà có phúc
Anh em trong nhà Hòa thuận với nhau
là một niềm hạnh phúc lớn lao của mỗi gia đình mà người xưa cho rằng là
do phúc đức Tiền nhân để lại. Nhịn nhau mà sống con ạ, anh
thuận em Hòa là nhà có phúc.
Anh em trai như khoai mài chấm mật
(Khoai mài: còn được gọi là hoài
sơn, sơn dược, chính hoài, củ mài; tên khoa học:
Dioscorea
Persimilis
Prain
et Burk
(Dioscorea
OpposiTrfolia Lour)
là một loại cây thuộc họ Củ nâu (Diosoreaceae).
Củ mài chứa một hàm lượng chất dinh dưỡng cao, lại có nhiều hoạt chất có
tác dụng dược lý tốt; cho nên ngoài việc dùng để làm thực phẩm củ khoai
mài còn là một vị thuốc quý có giá trị bổ dưỡng ngũ tạng đối với những
người suy yếu cơ
thể.
Những
cây thuốc
và vị thuốc Việt Nam -
Đỗ Tất Lợi, Nxb
KH&KT,
1986, tr.
840 - 841). Khoai mài
luộc
chín chấm mật là một món ăn đặc sản
dân gian. Thành ngữ này biểu trưng cho tình cảm thắm thiết, thân ái giữa
anh em trai với nhau trong gia đình.
Anh em
trai
như khoai mài chấm
mật.
Cùng chung lưng
đâu
cật
xây nền;
Gia
đường phồn
thịnh ấm êm,
Đã thêm phúc đức lại thêm lộc tài
Ca dao
Anh trưa chợ gặp ả lợ (lỡ) đò
Duyên phận của những kẻ lỡ làng,
cuộc đời gặp nhiều trắc trở nhất là trong tình yêu và hôn nhân. Anh
trưa chợ gặp
ả lợ đò
rứa
(thế)
mà nên vợ nên chồng, gia đình hạnh
phúc ít ai bằng.
Anh xanh cọng (gọng), nóng
nác
(nước), khái (hổ) vác anh vô lòi (lùm cây)
(Xanh cọng, nóng
nác
là nói cái việc luộc
rau chưa chín). Hấp tấp nóng vội, nên lúc
làm
những việc nguy hiểm dễ gặp tai vạ. Chưa đủ độ chín chắn để có thể đứng
làm chủ việc lớn.
Anh gì nó mà anh,
Anh xanh cọng nóng
nác,
Khái vác anh vô lòi.
Ào ào như ao làng Vọng
Nói nhiều và nói to, có phần suồng
sã.
Áo cụt quần quàng
Cảnh nghèo túng, khó khăn Nào ăn
ngon mặc tốt quen
áo cụt quần quàng nhưng mà thiên văn hay thì hậu kia cũng đỏ.
KTCDXN,
T.2,
tr.
147
Áo
mấn
(váy) vấn cột cầu
1- Áo
mấn
là
vật phục sức của con người (vừa có công dụng che thân vừa có công dụng
làm đẹp), nhưng lại đem vấn cột cầu (trụ cầu) thì thật là vô duyên, vô
tích sự.
2- Chỉ sự không tương ứng giữa cái
phục sức bên ngoài với nội dung, bản chất bên trong.
X.
Bề ngoài làu lảu
như hoa,
Mà trong
ghẻn
guốc tiêm la ba tầng.
Trông nó ăn
mặc
loè loẹt
thế
chứ cũng là thứ áo
mấn
vấn cột cầu đấy
Áo mới may xỏ cựa (cửa) tay vào là
cộ
(cũ)
Áo mới may thì dù chỉ mới xỏ cửa
tay (mới ướm thử cái ống tay áo cũng đã cũ. Hàng ra khỏi cửa hiệu là
không trả lại được đâu, áo mới may xỏ cựa tay vào là
cộ
2- Chỉ sự mất tân của người con gái
khi đã có sự chung đụng với đàn ông, dù ở mức độ nào. Nó yêu nhiều
rồi mày ơi, áo mới may xỏ cựa tay vào là
cộ.
3- Cái gì đã qua sử dụng, dù chỉ
rất ít, thì vẫn bị mất giá. Anh cứ chọn hàng cẩn thận, đưa
hàng ra khỏi hiệu là không được trả
lại, áo mới may xỏ cựa tay vào là
cổ.
Áo rách khéo vá hơn lành
vôống
(vụng) may
Khéo lo liệu, khéo thu xếp, khéo
ứng xử thì việc xấu trở nên tốt, việc dở trở thành hay, mọi khó khăn
trắc trở đều được giải quyết tốt đẹp.
Rượu
ngon
bất
luận be
sành,
Áo rách khéo vá hơn lành vôống may
KTCDXN,
T.
1 , tr.
387
Áo rách vai đứng đàng (đường) mô
(đâu) cụng (cũng) chộ
Khiếm khuyết dễ thấy nhất, dễ biểu
hiện ra ngoài nhất, khó che dấu mọi người.
Áo rách vai đứng đàng mô cụng
chộ,
Chít khăn xéo nói giọng đầu bò
Trện
gốc mía
bỏ đã tàu mo
"Dâng chè rú lên đây ta hãm"
KTVXN,
T.7,
tr.305
Ă
Ăn ba
đọi
(bát), nói ba lời
X.
Ăn một
đọi,
nói một lời. Thái độ dứt
khoát, có chủ kiến, có bản lĩnh.
Tau
(tao) thì ăn ba đọi
nói ba lời.
Ăn ba
méng
(miếng), uống ba chén, sống ở với làng, chết ra cồn
Chủi
(chổi)
(Cồn
Chủi
là một bãi đất cao ở đồng làng ích Hậu (Can Lộc, Hà
Tĩnh
là nơi làm nghĩa
địa của làng). Câu tục ngữ này thể hiện sự bất cần, ngang tàng của người
dân vùng này. Không đi đâu
hết,
Ăn ba
méng,
uống ba chén,
Sống ở với làng,
chết
ra Cồn Chủi.
Ăn bát cơm dẻo nhớ nẻo đường đi
1- Ăn bát cơm dẻo tức
là
được hậu đãi, nhớ nẻo đường đi là
nhớ đường đến nơi đã hậu đãi mình.
2- Người ta thường nhớ tới nơi mình
được hưởng hậu tình, nơi mình có kỷ niệm đẹp.
Đi xa hơn hai mươi năm rồi mà khi
trở về nó vẫn không quên lối
vào nhà bà cụ ấy,
đúng là ăn bát cơm dẻo nhớ nẻo đường đi.
Ăn bắp (ngô) chà vui (vôi)
Chỉ cuộc sống sinh hoạt vật chất
rất kham khổ, túng thiếu.
Thà rằng ăn bắp chà vui,
Còn hơn giàu có mồ côi một mình.
Tuổi em mười tám đang độ xuân xanh
Lấy chồng vào đó khác nào ẩn mình ở
chốn rú ri
KTCDXN,
T.
1 , tr.
498
Ăn
bựa
hôm lo bựa
mai
Tình cảnh nghèo túng, quẩn bách
phải chạy ăn từng bữa. Quanh năm chỉ lo cho mấy cái tàu
há
mồm, ăn bựa
hôm lo bựa
mai.
Ăn
bựa
(bữa) mai nhớ để cổ (củ) khoai
bựa
mốt
X.
Thà ăn nhắt, đừng để tắt bữa.
Hà
Tĩnh
là vùng đất cằn cỗi, đói nghèo, nên từ xưa dân chúng đã rất căn cơ tằn
tiện trong việc tính toán cái ăn để duy trì sự sống: Đừng
chộ
(thấy) được mùa là ăn lấy ăn để, ăn
bựa
mai nhớ để củ khoai bựa
mốt.
Ăn cau chọn
trấy
(trái) trửa
(giữa) buồng
Kinh nghiệm dân gian về việc chọn
cau ăn trầu; trái cau giữa buồng thường là ngon vì không già quá mà cũng
không non quá.
Trù (trầu)
quế chọn
ngọn cho chuông,
Ăn cau chọn trái
trửa
buồng non
xanh.
KTVXN
, T.
3 , tr
85
Ăn cho bể (vỡ)
đọi
(bát) lọi (gãy) đụa
(đũa)
Chỉ người ăn uống khoẻ, xô bổ.
Bữa ni (nay) choa
ăn cho bể đọi
lọi đụa.
Ăn cho đều, kêu cho
sọi
(sõi)
Bình đẳng trong hưởng thụ, tự giác,
đồng thuận trong làm việc. Các chú
mần
(làm)
việc chi cũng phải nhớ ăn cho đều kêu cho
sọi.
Ăn cho ngái (xa), đái cho xa
Cần phải tỉnh táo, cẩn trọng trong
mọi công việc. Tau
(tao) nói cho mi (mày)
biết:
Ở đời phải biết
ăn cho ngái, đái cho xa.
Ăn có mời,
mần
(làm) có mạn (mượn)
X.
Ăn có phần, mần
có việc.
Ăn phải được mời, có lời mời thì
mới ăn; làm phải có người mượn, nhờ cậy thì mới làm. Làm việc gì cũng
phải hợp
tư cách, phải có lý do chính đáng.
Ra đi mẹ dặn mấy lời; ăn có mời,
Mần
có mạn con thời nhớ cho
HPV
Ăn có nơi,
nhởi
(chơi) có chốn
1 - Ăn, chơi
là
những nhu cầu sinh hoạt thường ngày, nhưng không thể xô bồ, vô lối: bạ
đâu cũng chơi, tới đâu cũng ăn. Dân gian khuyên phải có sự lựa chọn nơi
ăn chốn chơi cho hợp
cảnh,
hợp
tình, hợp
tư cách từng người.
2 - Làm việc gì cũng phải có sự cân
nhắc cho hợp
tình , hợp
lý .
Ăn có nơi con ơi,
Nhởi
có chốn con ơi.
Trăm múi cái sự đời,
Nghìn múi cái sự đời,
Sự chi cũng phải nghị,
Sự gì cũng phải nghị.
Vè dặn con
Ăn có phần,
mần
có việc
1 - Ăn đúng phần của mình, làm đúng
việc của mình, không ăn phần người khác, làm tranh việc người khác.
2- Phàm người sống có kinh nghiệm
phải biết bổn phận và quyền lợi chính đáng của mình. Tôi đã nói với
anh rồi, không phải
việc chi (gì) anh cũng xía
vô (vào) ăn có phần mần
có việc nhớ nhé!
Ăn coi (nhìn)
chắc
(người khác) mặc coi (xem, ngắm) thân
(Chắc: Ở đây là người khác, thân:
tức là bản thân mình.)
1 - Ăn thì phải để ý, nhường nhịn
người khác, mặc thì phải biết vóc dáng, than hình mình mà mặc cho đúng
kiểu.
2- Việc gì cũng phải biết người
biết ta. Ra đi với thiên hạ, con phải ăn coi chắc mặc coi thân.
Ăn coi (xem) nồi, ngồi coi hướng
Cần phải có ý tứ trong sinh hoạt
tập thể. Đi mô, con phải nhớ là ăn coi nồi, ngồi coi hướng.
Ăn
cộ
(cỗ) đi trước, lội nác
(nước) theo sau
1- Ăn cỗ đến trước thì không sợ mất
phần, không sợ phải ăn thừa, không phải ăn thức nguội; lội nước thì nên
đi sau để biết chỗ sâu mà tránh.
2 - Hành động theo tình huống,
tránh cái bất lợi, chớp lấy thời cơ để giành lấy thuận lợi cho mình.
3- Chỉ hạng tiểu nhân, khôn lỏi,
tìm mọi cách hưởng lợi riêng mình, đùn đẩy việc khó khăn nguy hiểm cho
người khác.
Ăn
cộ
đi trước lội nước theo sau,
Nghe làng nổi trống thì mau ra đình
HPV
Ăn
côộc
(gộc) bôốc
(bốc) vạ
Ăn đòn chịu vạ thay người.
Ăn cơm độn ngô mà nói chuyện thủ đô
Hà Nội
Phê phán những người ít hiểu biết
mà hay khoe khoang, tài sức có hạn mà hay kỳ vọng chuyện hão huyền, viễn
vông. Thằng cu Lan cả
đời
ăn cơm độn ngô mà nói chuyện thủ đô
Hà Nội.
Ăn cơm le (nhả) trú (trấu)
Ăn uống phải cẩn thận, nhai kỹ,
lưỡi lừa trấu, lọc sạn kỹ càng. Chỉ những người lọc lõi trong cuộc sống.
Anh ta thuộc loại người ăn cơm le trú, không vừa vặn gì đâu.
Ăn
cơm
tấm ngấm về sau
1 - Cơm tấm có vị bùi càng nhai
càng ngọt. Do là phần ngoài của gạo lóc ra nên tấm không chỉ có Trnh bột
mà còn giàu vitamin
và các loại khoáng chất khác. Bởi vậy ăn cơm tấm không chỉ chóng no mà
còn béo khoẻ (ngấm về sau).
2- Có những thứ tuy tầm thường
nhưng lại rất có ích, cho kết quả tốt
Ra về xin nhớ lời nhau,
Ăn cơm tấm ngấm về sau hỡi người
Ca dao
Ăn cơm tấm nói
chuyện
triều
đình
(Tấm là những hạt nhỏ sứt ra từ hạt
gạo khi bị xay giã, chủ yếu phôi gạo, hoặc gạo non
bị
nát ra. Cơm tấm là cơm nhà nghèo,
cơm của hạng cùng dân). Hàm ý phê phán những người nghèo khó ít hiểu
biết nhưng lại quan tâm đến những việc viễn vông, ngoài tầm. Mi (mày)
thì biết chi (gì), ăn cơm tấm nói chuyện triều đình.
Ăn cơm với cà là nhà có phúc, ăn
cơm cá khúc là nhà có tội
1 - Cà muối trường (muối mặn ăn
quanh năm) là thức ăn thường ngày của dân lao động nghèo ngày xưa. Cá
khúc là loại cá to phải chặt khúc ra, quanh năm thường không mấy khi có
trong bữa ăn của nhà nghèo. Câu này, trong các gia đình nghèo, người lớn
thường
xuyên dùng để răn dạy, nhắc nhở trẻ
con phải biết hà tiện,
chịu cực chịu khổ; con cái biết chịu cực, chịu khổ là cái phúc của gia
đình.
2- Ăn cá khúc là ăn uống quá sung
sướng, xa xỉ chỉ có những kẻ bóc lột giàu có mới ăn. Hạng người ấy là
hạng người có tội.
Ă cơm cá khúc là nhà có tội
Vì đâu nên nỗi đã khổ thân em,
Đem thân vào nhà "cá khúc" khó chen
đứng ngồi
KTCDXN,
T.2,
tr.
201
Ăn cơm với cà là nhà có phúc,
Ăn cơm với mắm nục là chúa, là
tiên,
Ăn cơm với chả với nem là đồ thất
đức
KTCDXN,
T.2,
tr.
202
Ăn của
trùa
(chùa) ngoọng mẹng
(ngọng miệng)
Hưởng thụ cái không phải của mình
nên bị khống chế, bị lệ thuộc. Đừng tưởng bở, khéo ăn của
trùa
ngoọng mẹng
con ạ.
Ăn cục cục như ác (quạ) ăn giam
(cua)
Chỉ sự ăn uống thô thiển, phàm tục
.
Ngồi ăn cục cục
Như
ác ăn giam
Cái tay làm làm
Mò
lấy
sau ót
KTVXN,
T.9,
tr.
236
Ăn cúi
troốc
(đầu), đẩy nôốc
(thuyền thúng) van (kêu) làng
Chỉ trích những kẻ ích kỷ, khi
hưởng thụ thì chỉ biết mình, động việc gì thì đùn đẩy cho người khác.
Loại người Ăn cúi
troốc, đẩy
nôốc
van làng
thì
kể mần
chi.
Ăn cứt sắt
ẻ
(ỉa) ra xà beng
X.
Đãi cứt gà lấy tấm;
Vắt cổ chày ra nước;
Bốc cứt không lọt tay.
(Cứt sắt: Ở các lò luyện gang thép,
xỉ gang sau khi nóng chảy vón lại thành viên. Dân Nghệ gọi các viên xỉ
gang này là cứt sắt) Hàm chỉ những kẻ sống keo kiệt, bủn xỉn. Thằng
đó thì ăn cứt sắt ẻ
ra xà beng.
Ăn dệ (dễ),
mần
(làm) lệ (lễ) khó
1 - Thấy thầy cúng được ăn, được
nói, được gói mang về ai cũng thèm, nhưng làm lễ như thầy thì không phải
ai cũng làm được.
2- Hưởng thụ thì dễ nhưng làm ra
thành quả mới khó. Đừng tưởng bở, ăn
dệ
mần
lệ khó
Ăn dưa lộn kiếp
Quan niệm mê tín dị đoan ngày xưa
cho rằng ăn dưa làm cho người ta lú lẫn, quay về với kiếp trước . Mi
(mày) mần răng (tại sao) cứ ngơ ngơ như ăn dưa lộn
kiếp.
Ăn đau cơm, mặc xót áo
Chỉ những kẻ vô
tích
sự, không xứng được hưởng bất cứ điều gì.
Suốt
ngày lêu lổng
mày chỉ là đứa ăn đau cơm mặc xót
áo thôi con ạ.
Ăn đầu dần chí dậu
Phê phán những kẻ ăn nhiều, ăn lâu,
không còn thời gian làm việc gì. Mi (mày) ăn chi (gì) mà ăn từ đầu
dần chí dậu rứa
(thê) ?
Ăn
đọi
cơm trắng nhớ đọi
cơm lang
Ăn
đọi
cơm dẻo nhớ nẻo đường đi.
Chỉ lẽ sống thủy chung, tình
nghĩa,
có ngày sung sướng nhớ ngày hàn vi. Bầy tui bây giờ sướng rồi, ăn
đọi
cơm trắng
nhớ đọi
cơm lang.
Ăn đồ hô
mần
(làm) đôốc hôốc
(đốc hốc)
Chỉ kẻ ăn thô, làm ẩu. Thuê chi
cái loại ăn đồ hô mần
đôốc
hôốc
nớ
(ấy)
Ăn đống phân tru (trâu) hơn
mần
du (dâu) đất thịt
Đất thịt (đất thó nâu), ít chất
màu, trồng trỉa không được, mùa
màng
thất bát, về mùa mưa lầy lội, đường trơn, đi lại khó khăn, cuộc sống cơ
cực trăm bề. Câu này nhằm nhấn mạnh cái khổ của dân ở những vùng đất
thịt.
Thà rằng ăn
đống phân
tru,
Hơn về vùng
đất
thịt làm du nhà người.
Ca dao
Ăn gấu (gạo) nhớ kẻ đâm xay dần
tràng (sàng)
Hưởng thụ cái gì phải nhớ đến công
lao khó nhọc của người làm ra cái đó. Ở đời con phải
biết:
ăn gấu nhớ kẻ đâm xay dần tràng .
Ăn hột mít
địt
(rắm) ra khói
Kinh nghiệm trong ăn uống: ăn hạt
mít rất hay đánh rắm.
Ăn
hư cơm, mặc tốn áo
X.
Ăn đau cơm, mặc xót áo ăn khoai trừ
bựa
Nghèo đói, phải dùng khoai thay cơm
trừ bữa. Con nhà nớ
(ấy) ăn khoai trừ bựa
mà thi đậu đại học.
Ăn không khéo không no, nằm không
co không ấm
X. Khéo ăn
thì no, khéo nằm co thì ấm.
1- Khéo ăn tức là biết cách ăn, nhai kỹ no
lâu, lại ăn độn các thứ rau thì chóng no; nằm co
tức là cuộn người lại sao cho thật gọn để giữ
nhiệt và không bị hở chăn.
2- Biết thu vén thì lúc nào cũng đầy đủ Cái
gì cũng phải
học cọn
ạ, ăn không khéo
không no, nằm không
co
không ấm.
Ăn không lo, ba bò đơm không nên một
cộ (cỗ)
Chỉ biết ăn mà không biết lo toan thì dẫu có
mổ thịt đến ba con bò cũng không làm nên một mâm cỗ. Chỉ trích những kẻ
gặp chăng hay chớ, không biết lo toan, dẫu điều kiện có thuận lợi mấy
cũng không làm nên việc gì. Mi (mày) thì chỉ
biết ăn mà
chẳng biết
lo tính gì cả, ăn không lo ba bò đơm không nên một
cộ.
Ăn không nên
đọi (bát), nói không nên lời
Chỉ những kẻ ngu si, hèn kém, nói năng vụng
dại. Loại người ăn không nên
đọi nói không nên
lời
thì được tích
sự gì.
Ăn không nói có
Chỉ hạng người chuyên đơm đặt, bịa chuyện để
hại người khác. Đừng có ăn
không nói có mà tội cho người ta.
Ăn không sạch
đọi, nói không sạch lời
X. Ăn không
nên đọi,
nói không nên lời.
Ăn lạt mới nghị (nghĩ)
đến mèo
Ở vào tính thế khó khăn mới biết thương người
cùng cảnh ngộ. Có ăn lạt mới nghĩ
đến mèo ông ạ.
Ăn lạt mới biết
thương mèo.
X. Ăn lạt
mới nghĩ đến mèo.
Ăn mang như May
Bường
(May Bường:
nhân vật nổi tiếng về ăn mặc nhếch nhác, khác người .
Ở
Kỳ Anh, Hà Tĩnh
thời trước). Chỉ người ăn mặc lôi thôi lếch thếch. Ăn mang chi mà như
May Bường
rứa.
Ăn mày không tày dự (giữ)
bị (giỏ, túi)
1 - Kẻ đi ăn mày dù siêng xin xỏ bao nhiêu,
nhưng bị (túi bằng lác hoặc bằng vải) thủng (rơi đổ) hoặc buộc không
chắc thì cũng chẳng giữ được mà ăn.
2- Cố làm
mà không biết giữ thì cũng là công cốc. Làm ra của mà không
biết
giữ cũng như ăn mày không tày giữ bị.
Ăn mày này (nài) xôi gấc
Đã là phận ăn mày mà còn đòi thứ cao sang, hàm
ý phê phán những kẻ không biết thân phận, đòi hỏi quá đáng .
Được
thế là
may rồi, đừng có ăn mày này xôi
gấc nhé!
Ăn mặc như bà
Đị (đĩ)
Soạn
X. Ăn mặc như Xướng
(Bà đị
Soạn: người phụ nữ nổi tiếng về ăn mặc nhếch nhác lôi thôi ở Diễn Châu,
Nghệ An). Chỉ người ăn mặc lôi thôi, bẩn thỉu. Con
gấy thời ni
mà ăn mặc lôi thôi như bà đị
Soạn, dệ
coi chưa!
Ăn mặc như Xướng
X. Ăn
mặc như bà Đị
Soạn.
Ăn mặn uống nước đỏ da
1 - Người lao
động nặng do cần nhiều muối nên ăn rất mặn, khi lao động mồ hôi muối ra
nhiều nên làm cho da bầm đỏ. (Lời người tải: Bây giờ có thể là bị cao
máu đấy)
2 - Cuộc sống vất vả gian nan làm biến đổi cả
vóc dáng màu da con người.
Ăn mặn uống nước đỏ da,
Nằm đất
nằm cát cho ma nó hờn.
Ăn mặn uống nước đỏ da,
Ở đây không
được thì
ra Đông Thành.
KTCDXN,
T.1 ,
tr. 162
Ăn mất tang
(Tang: vật làm bằng cỏ; Tiền của đút lót)
1 - Ăn mất, làm biến mất tang vật, Tiền của
đút lót. Tiền trộm được nó ăn
mất tang rồi mà bây giờ anh mới đi tìm
ư?
2 – Ăn hết một cách nhanh chóng không để lại
dấu vết gì. Đang đói, vớ được cái bánh, loáng cái thằng bé đã ăn mất
tang.
Ăn mòn
đọi
(bát) lọi (gãy) đụa
(đũa)
Quá quen thuộc, quá biết nhau, rành rẽ về
nhau. Ăn mòn đọi
lọi đụa
nhà người ta mà hắn cứ dửng dưng khi người ta gặp nạn.
Ăn mô (đâu) ẻ
(ỉa) đó
Chỉ loại người làm việc cẩu thả, luộm
thuộm; sinh
hoạt thiếu vệ sinh, không gọn gàng. Con với cái,
mần (làm) cái
chi (gì) cụng (cũng) ăn mô ẻ
đó.
Ăn một đọi
cơm, đơm một đọi
máu
Trong xã hội cũ, để có được cái ăn giành được
quyền sống, nhân dân ta phải trả một cái giá quá đắt, phải đổ máu.
Ăn một đọi
cơm,
Đơm một đọi
máu.
Máu chi tanh tưởi máu ơi,
Mồ cha quân cướp nước
sướng đời không
bay.
KTCDXN,
T.2,
Tr. 202
Ăn một đọi
nói một lời
X. Ăn ba
đọi nói
ba lời.
Thái độ dứt khoát trong ứng xử và công việc.
Tau
(tao) ăn một đọi
nói một lời tin hay không
tuỳ mi.
Ăn một miếng tiếng cả đời
1. Miếng ăn là
miếng nhục, nếu không giữ mình, chỉ vì một miếng ăn mà mang tiếng xấu cả
đời.
2. Chỉ vì cái lợi
nhỏ mà trả giá quá lớn: Đừng thấy ăn được mà ăn, có khi ăn
một
miếng
Tiếng cả đời.
Ăn một mình đau tức,
mần (làm) một
mình cực thân
Sống đơn độc,
không quan hệ với người khác, không có tính tập thể thì sẽ rơi vào tình
trạng buồn tủi.
Ăn mụi
(mũi), ẻ
(ỉa) lái, đái xung quanh
Sinh hoạt của dân sông nước làm nghề chài
lưới, ăn uống và phóng uế bừa bãi, lộn xộn. Cái dân Bồ Lô nhà nó ăn
mụi,
ẻ lái,
đái xung
quanh.
Ăn mun (tro) hun trú (trấu)
X.
Khun
ăn mun lộn trú.
Cuộc sống vất vả, lam lũ, đầu tắt
mặt tối.
Thương
ai tay trắng không nghề,
Ăn mun hun trú,
lấy
bạ (bã)chè quẹt khu (chùi đít).
HPV
Ăn nể ngồi dưng
Chỉ những kẻ ăn không, ngồi rồi,
không có việc làm.
Nhà chị chẳng thiếu giống chi
Chị
lấy
em về ăn nể ngồi dưng.
KTVXN,
Ăn ngoại vái nội
1. Cháu chắt thường cậy nhờ bên
ngoại nhiều nhưng việc thờ cúng thì
chúng
phải theo dòng tộc bên nội.
2. Ăn ở, nhờ cậy một nơi, lại đi
phụng sự một nẻo; hưởng thụ của người này nhưng lại đi làm việc cho
người kia. Nó sống theo kiểu ăn ngoại vái nội.
Ăn nhiều thì béo
khun
khéo chi mà khen
Bình phẩm về hình thức bề ngoài của
con người: sự béo tốt là do ăn uống, hưởng thụ có phải là tài giỏi gì
đâu
Ăn như bịch (bồ)
trôộng
(thủng) khu (đít),
Ăn như tru (trâu) xể (rách, tuột)
rọt
(ruột)
X.
Ăn như bồ lủng khu, ăn như tru xể rọt;
Ăn nứt nang, trồi bong bóng.
Bịch
trôộng
khu (thủng đáy) thì đổ bao nhiêu
lúa vào cũng hết, tru xể rọt
(trâu tháo dạ) thì ăn mấy cũng không no. Câu này dân gian thường dung để
rủa những kẻ ăn quá nhiều.
Làm thì nhác mà ăn như
bịch trôộng
khu, ăn như tru xể rọt.
Ăn như bồ lủng (thủng) khu, ăn như
tru (trâu) xể rọt
(rách lòi ruột)
X.
Ăn nứt nang, trồi bong bóng;
Hắn có
nác
(nước) ăn thì thiên hạ không ai bằng,
Ăn như bồ
lủng
khu,
Như tru
xể rọt.
Ăn như giỏ chứa
X.
Ăn như bồ lủng (thủng) khu ăn
như tru (trâu) xể rọt
(rách lòi ruột).
Ăn như khái (hổ) đổ đó
(Khái đổ đó: ở vùng bán sơn địa,
dân đơm đó ở khe suối, nếu hổ gặp là chúng vớt đó lên ăn sạch cá). Ăn
sạch không còn một thứ gì.
Con nhà
nớ
(ấy) ăn như khái đổ đó.
Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo,
mần
(làm) như mèo mửa
Ăn nhiều, nói hay nhưng làm thì
chẳng ra gì. Tin chi (gì) bọn đó, ăn như rồng
cuốn, nói như rồng leo,
mần
(làm) như mèo mửa.
Ăn như tằm ăn lên
Ăn ào ạt, ăn với tốc độ nhanh,
loáng cái đã hết (thường chỉ việc ăn uống của nhiều người cùng một lúc)
Cả hội
thợ ăn như tằm ăn lên.
Ăn như thầy
hoọc
(học)
Ăn
khánh,
rất lịch sự trong ăn uống. Thân nông phu mà ăn uống như thầy
hoọc.
Ăn như tru
X.
Ăn như bồ lủng (thủng) khu, ăn như tru (trâu) xể
rọt
(rách lòi ruột).
Ăn như tru sứt trẹo
X.
Ăn như bịch trộng
khu, Ăn như tru xể rọt.
Ăn như tu, ở như tù
1- Chỉ cuộc
sống
khổ cực, đạm bạc, tù túng. Ăn uống kham khổ như nhà sư, sống
chật chội hôi hám như tù nhân.
2 - Đây là câu thành ngữ mới xuất
hiện, thường dùng để nói về
cuộc sống khó khăn của giáo
viên thời bao cấp. Ăn như tu, ở như tù
thế này
thì lấy đâu ra tư cách để dạy dỗ.
Ăn no béo mợ (mỡ)
Ăn
uống
quá đủ đầy, sinh lực thừa thải nên sinh đú đởn
Ăn rau thì chịu ăn rau,
Có thương thì lấy ham giàu mà chi.
Chồng giàu mà lại ngu si,
ăn no béo mợ, ngủ khì ngày đêm .
KTCDXN,
T.2,
Tr.
202
Ăn no đo giường
Chỉ hạng người lười biếng, chi biết
ăn rồi nằm trây xác.
Ai ơi chớ
lấy
học trò,
Dài lưng tốn vải ăn no đo giường.
KTCDXN,
T.
1 , Tr
65
Ăn no
rược
mợ (mỡ)
X.
Ăn no béo mợ.
Ăn nót (nuốt)
lôống,
nói đâm buông.
(Nót
lôống:
không nhai, nuốt chửng; Nói đâm buông: nói mà không cần biết hiệu lực
của lời nói của mình như thế nào). Chỉ hạng người ăn nói ẩu tả, bất chấp
hay dở. Đừng có đâu đều (không giao tiếp) với cái loại người ăn nót
lôống,
nói đâm buông.
Ăn
nửa
bôốc
(vốc) vỏ khoai,
trả quan hai tiền bánh
1
- Thành ngữ này có nguồn bong
gốc từ câu chuyện người học
trò nghèo đi thi. Vì tiền
ít vào quán chỉ dám mua khoai ăn
trừ bữa để tiết kiệm tiền nhưng khoai cũng không dám mua ăn đủ no, thừa
lúc chủ quán quay đi anh ta bèn ăn luôn cả vỏ khoai cho đỡ đói. Chủ quán
biết thế liền hỏi: thầy ăn thêm chi đó? Anh ta ngượng quá phải trả lời:
Tui ăn thêm vắt bánh độ (đỗ). Thế là ăn vỏ khoai mà phải trả tiền
bánh đỗ. Thành ngữ nhắc mọi người đừng quá tiết kiệm, bi
bo,
cũng đừng sĩ diện hão mà phải trả giá đắt
2- Bị lừa.
Con đói lòng ăn nửa
bôốc
vỏ khoai,
Mẹ đít (đứt)
rọt
(ruột) trả quan hai tiền bánh
Vè đội Mưu
Ăn nứt nang, trồi bong bóng
(Nang: dạ dày, ruột; bong bóng:
bọng đái). Chỉ sự ăn uống quá khỏe, quá nhiều so với nhu cầu. Hắn đi
chỗ mô (nào) gặp bựa
(bữa) cũng ăn nứt nang trồi bong bóng.
Ăn
nu
(nâu), đụ
(tục) khỉ
(Nâu: Củ nâu rất chát, thú rừng như
nhím,
tê tê, lợn rừng cũng chỉ ăn khi quá đói) Chỉ cuộc sống khốn khổ của con
người, chẳng khác gì thú vật. Đồ ăn
nu,
đụ
khỉ.
Ăn quen, bén mùi
Bị nghiện, bị cám dỗ bởi một thứ gì
đấy. Ăn quen,bén mùi nó lại
đến.
Ăn ra trần,
mần
(làm) ra áo
(Ăn ra trần: cởi trần mà ăn,
mần
ra áo: Cởi áo ra mà làm). Thể hiện sự cả quyết, ăn được, làm được.
Làm trai là phải ăn ra trần,
mần
ra áo.
Ăn ra trần,
mần
(làm) vô (vào) áo
(Ăn thì cởi áo ra mà ăn, làm thì
khoác áo vào trốn việc ngồi chơi). Chỉ loại người siêng ăn nhác làm.
Ăn
rọng
(ruộng), cọng (cộng) giộ
(giỗ)
(Ăn
rọng:
ngày xưa có loại ruộng hương hỏa (ruộng thờ) của làng hoặc của dòng họ,
những người không có ruộng có thể được cấy thuê loại ruộng này; cọng
giỗ: ai cấy loại ruộng thờ thì phải lo soạn mâm cỗ để làng hoặc họ làm
giỗ).
Được hưởng lợi thì phải có nghĩa vụ
kèm theo. Đừng tưởng
được
cái nhà ông anh cho là hí hửng, ăn rọng cọng giộ đó mà chú nỏ
biết
răng?
Ăn sô uống sa
Ăn uống xô bồ, không có chừng mực.
Một kẻ ăn sô uống sa như
hắn thì ai coi ra chi (gì).
Ăn thì có, mó thì không
Câu này nguyên là câu đố được dùng
như câu tục ngữ. Nếu dùng như câu đố thì nó chỉ âm hộ đàn bà, vì các bà
lúc tức máu vẫn đưa ra bắt người ta xực cái của quý đó. Nhưng không phải
ai cũng mó (sờ) được. Khi dùng với nghĩa tục ngữ thì nó ám chỉ những kẻ
siêng ăn nhác làm. Nó là cái hạng ăn
thì
có mó thì không.
Ăn thì cổ
ngay,
mần
thì tay rụt
X.
Ăn thì có mó thì không,
Ăn thì hay cày thì dở,
Ăn thì hay cày thì nằm vạ.
(Cổ ngay: thẳng cổ, ăn miếng to nên
phải bạnh
cổ ra mới nuốt được; tay rụt: thụt tay lại khoanh tay đứng nhìn). Chỉ
hạng người siêng ăn nhác làm. Thằng đó, ăn
thì
cổ ngay,
mần
thì tay rụt.
Ăn thì
hay,
cày thì dở
X.
Ăn thì cổ ngay,
mần
thì tay rụt;
Ăn thì có, mó thì không;
Ăn thì hay, cày thì nằm vạ.
X.
Ăn thì hay, cày thì dở;
Ăn thì cổ ngay,
mần
thì tay rụt;
Ăn thì có, mó thì không.
Ăn to mở nậy (lớn)
1- Ăn nhiều
lắm khoẻ. Thanh niên phải ăn to mở
nậy vào.
2- Được món hời, gặp được cơ hội làm ăn lớn.
Ăn to mở nậy chi (gì) từng nớ
(ấy) mà bọn bay (mày) treng
chắc (giành nhau).
Ăn trắt
(chắt)
quen mồm,
X. Ăn trộm quen tay, ngủ bày
quen mắt
Con người dễ quen với các thói xấu
và nếu không được ngăn chặn, giáo dục kịp thời các thói xấu trở thành
bản năng thì rất khó từ bỏ.
Ăn trộm quen mắt, ăn
trắt
(chắt)
quen mồm
X.
Ăn trắt
(chắt)
quen mồm, ăn trộm quen tay, ngủ bày quen mắt;
Kẻ có tính tắt mắt, trộm cắp thì
mắt nhìn rất gian, thấy đồ đạc của người ta là cứ dán mắt vào (quen
mắt), người hay ăn ăn chắt
thì mồm lúc nào cũng mấp máy, gặp thóc là đưa vào miệng nhằn liền). ý cả
câu: người có tật xấu dễ bộc lộ ra, dễ bị phát giác. Thằng ấy đích
thị là một tên trộm, ăn trộm quen mắt, ăn trát quen mồm mà.
Ăn trộm quen tay, ăn mày quen mặt,
ăn trắt
quen
mồm
X. Ăn
trắt
(chắt)
quen mồm, ăn trộm quen tay, ngủ bày quen mắt;
Kẻ hay lấy trộm thì hễ thấy người
sơ hở là tiện tay cầm lấy bất kể cái gì. Kẻ đi ăn mày thì hễ ai cho một
vài lần quen mặt rồi là gặp đâu xin đó. Người hay ăn
trắt
(ăn chắt)
thì khi
nào miệng cũng nhằn thóc). Ý cả
câu: người ta hay hành động theo thói quen.
Ăn trù (trầu) nhớ mở trù (trầu) ra,
một là mặn thuốc hai là mặn vôi
Người Việt xưa ăn trầu thuốc rất
phổ biến, ngoài trầu, cau, vôi còn có một dúm thuốc lá sợi (thuốc lào)
Khi được ai mời trầu, người có kinh nghiệm phải mở miếng trầu được têm
ra để xem mức độ vôi thuốc có phù
hợp
với mình không. Nếu mặn (nhiều) vôi quá thì bị bỏng miệng, mặn (nhiều)
thuốc quá bị say. Cần phải thận trọng trong mọi việc làm, cái mà người
ta làm được chưa chắc mình đã làm được.
Ăn trù (trầu) đỏ mui
Chỉ sự làm duyên một cách dân dã,
dễ thương.
Có trù cho
miếng
đỏ mui,
Có rượu cho chén cho vui sự tình.
Có trù cho miếng bạn mồ,
Gọi rằng tình nghĩa khi mô
đến
giừ
HPV
Ăn trù (trầu) người ta như chim mắc
nhạ
(nhựa)
1- Trong qua hệ
lứa
đôi, đã ăn trầu người tức là đã nhận lời đính hôn, quan hệ đã bị ràng
buộc, duyên phận đã được định đoạt.
2- Sự ràng buộc khi đã có sự giao
ước hôn nhân
giữa hai gia đình về việc xây dựng hôn nhân cho con cái.
Anh thương em không nói lúc đầu
Bây giờ đã dở ăn trầu
người
ta .
Ăn trầu người ta, như chim mắc
nhạ,
như cá mắc mồi,
Dặn bạn về kiếm lứa tìm đôi kẻo
buồn.
KTCDXN
, T.1
, Tr.
445 .
Ăn trưa ngủ sáng
Lười biếng, ngủ dậy muộn, ăn muộn,
không còn nhiều thì giờ để làm việc khác.
Con
gấy
con gớm chi mà nhác trườn
thây, ăn trưa ngủ sáng.
Ăn với chòm ở với xóm
(Chòm xóm là các quần cư nhỏ ở nông
thôn; nhiều nhà ở liền nhau thì thành một xóm, vài ba nhà sát nhau thì
thành một chòm. Cùng chòm với nhau thì miếng ăn thức
uống
thường dùng chung; còn quan hệ hữu hảo thì phải mở rộng ra cả xóm) .
Có quan hệ tử tế với cộng đồng nơi mình ở thì cuộc sống của mỗi
người mới yên ổn, tốt đẹp. Ăn với chòm ở với xóm cho
tốt
không thì cháy nhà nỏ
ai
đến
chữa.
Ăn xong quẹt mỏ
Chỉ hạng người bội
bạc
được người khác cưu mang, giúp đỡ
mà chóng quên ơn; hoặc chỉ những kẻ không biết điều, chỉ biết hưởng của
người ta mà không biết đến nghĩa vụ của mình. Cho hắn ăn
mần
chi, ăn xong là hắn quẹt mỏ.
Â
Ấp mạ
giường
không
Chỉ sự cô đơn lạnh lẽo, thường nói
đến cảnh nam nữ đã quá thì mà chưa có gia thất.
Già là cái phận,
Nỏ lẹ (lẽ) ấp mạ
giường
không
Mẹ
giòng,
cố (cụ) không,
Cố
muốn
một o (cô) con gấy
(gái)
KTVXN,
T.7,
tr.
421
B
Ba cơm, bảy mắm, chín cà sớm mưa,
trưa nắng, mới ra ló (lúa) này
Ba (bát ) cơm, bảy (con) mắm, chín
(quả) cà (muối): Ăn theo tỷ lệ này là ăn rất mặn, chỉ có người lao động
nặng mới ăn mặn như vậy. Hàm chỉ cuộc sống kham khổ của người nông dân,
phải
đổ ra nhiều công sức mới có được sản phẩm.
Ba cơm bảy
mắm
chín cà
Sớm
mưa trưa nắng mới ra lúa này.
KTCDXN,
T.2,
Tr9
Ba láp, hồ rông
Chỉ kẻ hay tán nhăng, tán cuội, sai
sự thực.
Giừ
nín đi cũng dở
Nói ra sợ
mất
lòng
Chuyện ba láp, hồ
rông
Chuyện tam phủ,
cửu trùng
Chuyện Hà Bá, Thổ Công
Không bút mô tả
hết.
HGN
T,
tr.
330
Ba đấm cụng (cũng) bằng một đạp
1 - Sự thiệt hại của hai bên trong
tranh chấp là như nhau. Thí dụ: Mi
(mày)
đừng hậm hực nữa, ba đấm cũng bằng
một đạp. 2 - Cố gắng
tiết kiệm, chi tiêu ít cho một việc
gì
đó nhưng cuối cùng do yêu cầu đành
phải chi thêm đúng như nhu cầu cần thiết. Việc gì cần thiết thì phải làm
đừng quá tiết kiệm, ki bờ
mà không có hiệu quả. Mần
(làm) một lần có phải hơn không, ba đám cụng như một đạp.
Ba đấm như một đạp
X.
Ba đấm cụng bằng một đạp
Ba lạy bảy tùy
1 - Nhịn nhục, tuỳ
lụy
thiên hạ đủ đường. 2 - Thích ứng với mọi cảnh ngộ để sống.
Sách thánh hiền dạy trước:
"Đa ngôn tôn truy,
Ba lạy bảy tuỳ
"
Hết
đường kia nổi nọ,
Hết
đường này nổi nọ.
KTVXN,
T.6,
Tr. 204
Ba lọc bảy lừa mắc phải bừa rụng
răng
1 - Đối với nhà nông cày bừa là
nông cụ quan trọng nhất, cho nên khi mua sắm hai loại nông cụ này họ lựa
chọn cẩn thận. Nhưng lựa chọn quá kỹ lại hay mua nhầm công cụ kém chất
lượng. 2 - Ở đời, bất cứ việc gì cũng thế, cầu toàn quá dễ hỏng
việc;
kén chọn quá để mất cơ hội cuối
cùng sẽ phải chấp nhận cái kém hơn, tệ hại hơn.
Cốt
sao duyên hợp lứa vừa,
Ba lọc bảy lừa, mắc phải bừa rụng
răng.
HPV
Ba mai bảy choòng
1 - Vô tích sự, không
làm
nên việc gì.
Nó thì ba mai bảy choòng thế chứ có
làm nên việc gì đâu.
2 - Sửa soạn, chuẩn bị dềnh dàng,
cố tình kéo dài thời gian để lẩn tránh công việc. Khẩn trương lên mà
mần
(làm), đừng có ba mai bảy choòng nữa.
Bà rú (núi) Lông đi ông rú Trà
(Hai địa danh này thuộc huyện Thanh
Chương, tỉnh Nghệ An. Rú Trà thuộc xã Thanh Phong, rú Lông thuộc xã
Thanh Hương). Câu này sử dụng cách nói nhân hoá để chỉ một hiện tượng
khí hậu ở địa phương. Về mùa gió Lào, gió thường đổi chiều từ rú Lông
gây nên nhưng cơn lốc nhỏ thổi
xuống
rú Trà làm cho nhà cửa đổ sập, mùa màng hư hại. Khi xảy ra hiện tượng
này, dân địa phương quan niệm là bà thần rú Lông đi thăm ông thần rú
Trà.
Bà rú Lông đi ông rú Trà
Ngả nghiêng cây
cối,
cửa nhà vẹo xiêu
Đồng dao
Bác một
trự
(đồng bạc) mự
(mợ, thím) cũng một đồng.
Hai bên cùng đóng góp để lo việc
chung, và sự đóng góp đó là bình đẳng nên đừng ai tị nạnh ai.
Bác dầu mất một
trự
Mự
cũng tốn một đồng
Đã vì tổ vì tông
Đã vì họ vì hàng
Đi đàng mô cho trệu (khỏi)
Đi đàng nào cho trệu
Vè cố
Thiệm
Bán ba con tru (trâu) mua một thúng
ló (lúa),
Bán ba con chó mua một
vại
cà
(Bán ba trâu là bán một số tài sản
lớn nhưng chỉ mua được rất ít lương thực (một thúng lúa); bán ba con chó
cũng chỉ mua được một vại cà (loại thức ăn rẻ mạt nhất).
Câu này ám chỉ tình cảnh khốn khó của nhà nông vào những năm mất mùa đói
kém. Ngày ba tháng tám thì bán ba con tru mua một thúng ló bán ba con
chó mua một vại cà để mà phòng đói.
Bán bò mua cuốc
1-
tình
cảnh túng quẫn của nhà nông, phải bán cả nguồn lực chủ yếu trong sản
xuất canh tác. Ra giêng hai ngài
hết
ăn, bò hết cỏ không khéo phải bán bò mua cuốc.
2 - Chỉ những kẻ ngớ ngẩn, không
biết tính toán, bán đi một tài sản lớn để mua một vật dụng nhỏ, bỏ điều
thuận lợi chuốc lấy khó khăn. Mi mà bán cái xe
Mini
thì lấy
chi mà kiếm ăn, rứa
là bán bò mua cuốc.
Bán chị em ngái (xa) mua láng giềng
ghin
(gần)
1- Láng giềng
là
nơi mình có thể nhờ cậy hàng ngày nên được xem trọng hơn người ruột thịt
ở xa.
2 - Chỗ dựa gần quan trọng hơn
những mối quan hệ xa. Đến
ở
đất
này trăm sự nhờ bà
con cô bác, bán chị em ngái mua
láng giềng ghin
mà.
Bán củi để con chết rét
1 - Bi kịch của người
lao
động, làm ra sản phẩm mà mình không
được hưởng vì bị các thế lực thống trị tước đoạt; rơi vào cảnh ngộ cùng
quẫn. Tội nghiệp cho cánh dân
sơn
tràng, bán củi để con
chết
rét. 2- Sự đối xử bất
công trong nội bộ của kẻ cầm quyền với người dưới. Cái tay giám
đốc
này
là loại bán củi
để con
chết
rét.
Bán đầu cá, vá đầu tôm
1 - Chỉ cuộc sống chắp vá, ăn sáng
lo bữa trưa, đắp đổi tháng ngày. 2 - Cuộc sống lam lũ, luôn luôn thiếu
thốn.
Kẻ lập nghề thương mại
Bán đầu cá, vá đầu tôm.
Canh một thì chưa đi nằm
Đầu canh năm đã dậy.
KTVXN,
T.l,
Tr204
Bán gà kiêng trời gió, bán chó
kiêng trời mưa
Trời gió gà co ro vì lạnh, lông xơ
xác, trời mưa làm lông chó dính bết lại, không đẹp mã, khó bán.
Bán lợn tại nhà, bán gà tại chợ
Lợn bán tại nhà dễ hơn bán tại chợ.
Còn gà thì ngược lại
Bạn thương hơn nương rào
X. Làng
thương hơn nương
rào.
Sống hữu hảo, thân tình với nhau
thì mọi
việc yên bình, ngược lại thì dù tường cao cổng kín cũng khó lòng ở yên.
Đi ra con phải nhớ ăn ở tốt với người ta, bạn thương hơn nương rào
con ạ.
Bánh đa chợ Cày, bánh tày chợ Voi
Chợ Cày ở Thị trấn Thạch Hà và chợ
Voi ở Kỳ Bắc,
Kỳ Anh là hai chợ có
bánh
tày và bánh đa ngon nổi Tiếng
của
Hà Tĩnh.
Bánh
đúc
cháo kê là nghề làng Trại,
Đánh nhau mại mại là nghề làng
Vinh,
Làm thợ làm đình là cha con ông phó
Hoạch
Tên đất, tên người với đặc trưng
riêng đều thuộc huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Bánh khéo không ai khen, cháy
seng
(chảo) mình phải vạ
1- Rán bánh khéo vừa ngon vừa thơm
thì bánh phải hơi sém da nhưng như vậy rất dễ cháy chảo. Nghĩa là bánh
ngon người ăn chưa chắc đã khen nhưng lỡ cháy chảo thì người rán phải
chịu trách nhiệm. 2 - Những việc có nguy cơ ảnh hưởng đến mình thì không
nên cố làm, dễ mắc tai vạ. Làm vừa vừa thôi, bánh khéo không ai khen,
cháy seng
mình phải vạ.
Bánh lành trong lá.
X. Béng
lèng
trong lá.
Bánh tày nhân cá rô
Chỉ sự quê mùa, lạc hậu ngày trước ở vùng Yên
Thành
Bao giờ Đại Huệ mang tơi,
Rú (núi) Đụn đội nón thì trời mới mưa
Đây là hai địa danh ở Nghệ An. Đại Huệ ở phía
bắc huyện Nam Đàn, rú Đụn ở phía tây huyện Nam Đàn. Dân ở các vùng phụ
cận hễ thấy mây bọc xung quanh núi Đại Huệ hay trùm đỉnh rú Đụn thì biết
trời sắp mưa.
Bao giờ rú Đại Huệ mang
tơi
Rú Đụn mang nón thì trời sắp mưa
KTCD
XN ,
T. 1 ,
Tr 179
Bao giờ chớp bức sang Đông,
Ráng lòe phương Bắc, mưa dông rõ ràng
Kinh nghiệm xem thời tiết của dân địa phương:
khi thấy hiện tượng trên là trời sắp nổi giông tố.
Bao giờ mống Mắt, mống Mê;
Thuyền câu, thuyền lái (lưới) chèo về cho mau
(Mống: cầu vồng cụt; Mắt, Mê là hai hòn đảo
nhỏ ở vùng biển Nghệ-tĩnh). Kinh nghiệm xem thời tiết của người dân địa
phương thuộc các huyện Diễn Châu Nghi Lộc: khi thấy
mống dựng lên ở hòn Mắt hay hòn Mê thì biết là
trời sắp nổi giông tố.
Bao giờ ngàn
Hống mang tơi, rú (núi) Thành đội mạo
(mũ) thì trời hẳn mưa
X. Bao giờ
rú Đụn mang tơi, Đại Huệ đội nón thì trời hẳn mưa.
Bao la ngàn
Hống (núi Hồng) mây mờ giăng giăng
Chỉ cảnh đẹp chùa Tiên, còn gọi là chùa Hương
Tích, nằm trên đỉnh Sư Tử, thuộc dãy Hồng Lĩnh, ở vào phần đất huyện Can
Lộc, tỉnh Hà tính
ngày nay.
Ai lên Hương Tích chùa Tiên
Gặp cô sư bác anh
khuyên đôi lời
Đem thân làm cái
kiếp người,
Tu sao cho trọn nước đời mà tu.
Chùa Tiên cao tít tịt mù
Bao la ngàn
Hống
mây mờ giăng giăng.
KTCDXN
, T.
2 , Tr
1 4 0
Bạo ăn (ăn khoẻ) Trường Lại bạo
cai
(hay cãi) Trường Phong
Trường Lại và Trường Phong là hai
xóm thuộc xã Kỳ Thịnh, Kỳ Anh, nổi Tiếng ăn khoẻ và hay lí sự.
Bạo (to khoẻ) như tru (trâu)
Chỉ người có sức vóc to khoẻ khác thường.
Ai mà béo bạo
như
tru ,
Về
đất
kẻ Ngù cũng tóm như dam
Ai mà gầy tóm như
dam,
Về
đất nhà
Chàng, cũng béo như tru.
KTCDXN,
T.1
, Tr
205
Bạo (khoẻ mạnh) không ai khen, hèn
người ta chê
1 - Thói thường, người đời ít khi
thừa nhận cái
tốt, cái đẹp của nhau mà chỉ tìm cách moi móc điều xấu, diều dở của
người. 2- Thói ganh ghét đồng loại, tìm cách hạ thấp uy thế của người
khác. Chớ có trổ tài múa may, ở đời bạo không ai khen, hèn người ta
chê.
Bát cơm
đạ
lợ đã
lỡ) chan canh vô (vào) rồi
Việc đã xảy ra, không còn cách gì
thay đổi. Mọi việc đã được an bài, nhất là trong tình duyên, không có
cách gì thay đổi được.
Thấy anh,
em cũng muốn thương anh
Bát cơm đạ
lợ chan canh vô rồi
Nuốt vào khổ
lắm anh ơi,
Nhả ra thì sợ tội
trời
ai mang.
KTCDXN,
T.
1 , Tr.
501
Bàu cạn hói khô
(Bàu: hồ nước vùng chân núi; hói:
ngòi nước nhỏ chảy ra sông lớn). Cảnh sống rất khó khăn trong việc canh
tác của cư dân vùng bán sơn địa.
Trời làm bão
lụt
mênh mông,
Sông khô hồ cạn cá trên đồng còn
chi.
Trời làm phong vũ
bất
kỳ,
Xuân thu đáo hạn cá quy về hồ.
Trời
làm bàu cạn hói khô,
Hữu ngư
hồ
thủy chỗ mô tui cũng tầm.
KTCDXN
, T.2
, Tr
3
Bay cao bay thấp cụng (cũng) kể là
diều,
Ăn ít ăn nhiều cụng (cũng) kể là ăn
1 - Mọi việc sẽ được đánh giá theo
đúng chức năng, bản chất dù mức độ
biểu
hiện thế nào. Làm việc gì phải
ra việc đó, bay cao bay
thấp
cũng kể là
diều,
ăn ít ăn nhiều cũng kể là ăn.
2- Kinh nghiệm ứng xử trong ăn
uống: ăn ít hay nhiều cũng mang tiếng, nên đã ăn thì ăn cho thỏa thích.
Chớ có làm khách mà đói, bay cao bay thấp cũng là diều, ăn ít ăn
nhiều cũng kể là ăn .
Bày cho
đị
vén váy
X.
Dáy
đi
xăn mấn.
Bày cho tiến sị (sĩ) viết văn
X.
Dáy
đi
xăn mấn.
Bày chó tra (già) liếm cối
Ngày xưa, ở nông thôn người ta giã
gạo bằng cối, giã gạo xong thì chó hay liếm cám trong lòng cối. Chó mới
lớn háu ăn nên cứ xục mõm vào đáy cối mà liếm. Vì thành cối cao nên
chúng phải rướn mình mà liếm và do đó phải thở mạnh, đáy cối đọng cám
nhiều nên cám bay tung lên và chúng thường bị sặc. Chó già khôn
hơn
chúng thường thận trọng
liếm từ miệng cối
liếm
xuống
nên không bị
sặc mà lại liếm được hết cám. Hàm
chỉ những người lúc nào cũng cho mình thông minh hơn người, lúc nào cũng
muốn
làm thầy kẻ khác. Đừng có mà bày chó tra liếm
cối.
Bảy mươi chớ cười bảy
mốt
X.
Bảy mươi chưa đui
chả
què đừng khoe một mình.
Sống đến 70 còn khoẻ mạnh, thấy
người 71 bệnh tật chớ vội chê cười. Vì tuổi càng cao mức độ sa sút về
sức khoẻ càng nhanh, sang tuổi 71 là rất có thể lại rơi vào tình trạng
như người ta. Đời người khó mà
lường
được những tai biến xảy ra khó mà
nói trước được bất
cứ điều gì. Chẳng
biết
trời
mấy tuổi, bảy mươi chớ cười bảy
mốt.
Bảy mươi chưa đui chưa què đừng
khoe một mình
X.
Bảy mươi chớ cười bảy
mốt.
Tuổi bảy mươi là thất thập cổ lai
hy (70 tuổi xưa nay hiếm), nên người già ngày xưa ở tuổi đó mà còn khoẻ
mạnh (chưa đui chưa què) lại càng hiếm. Vì thế họ thường khuyên nhau như
vậy để dè chừng vì ở tuổi đó mắt dễ loà, ngã dễ bị gãy chân gãy tay. Ở
đời, giữ được toàn vẹn là khó,
ít
ai tránh được sai lầm thiếu sót Đi
đứng cẩn thận bác ạ bảy mươi chưa đui chưa què đừng khoe một mình.
Bắt được tay nhay được cánh
Bắt được quả tang kẻ đang định làm
việc xấu, việc phạm pháp. Cái thằng trộm ni đã gian manh, bắt được
tay day được cánh mà nó cứ
chối
phăng.
Bắt chí (chấy) cho mụ gia (mẹ
chồng) chộ
(thấy) đa đa trên đường
(núi)
X.
Bắt chí cho mụ gia,
chộ
ba ba ngoài bể (biển).
Bắt chí cho mụ gia,
chộ
ba ba ngoài bể (biển)
Bắt chấy cho mẹ chồng là sự săn sóc
thân tình, nhưng lại thấy ba ba ngoài bể nghĩa
là
ngó bâng quơ làm giả vờ. 1 - Chỉ hạng người giả nhân giả
nghĩa.
2 - Chỉ hạng người lơ đễnh,
không chú ý vào việc đang làm. Cái thằng ni
(này)
rõ là bắt chí cho mụ gia
chộ
ba ba ngoài bể.
Bắt chí cho mụ gia,
chộ
ba ba giới (dưới) rào
X.
Bắt chí cho mụ gia,
chộ
ba ba ngoài bể.
Bắng nhắng như lằng (nhặng) vào
chuồng tru
X.
Lăng xăng như lằng bu kít (cứt) .
Chỉ loại người xum xoe, nịnh bợ gặp
việc gì có đông người thì lăng xăng, nhặng xị lên nhưng kỳ thực vô tích
sự, chẳng làm được việc gì. Nó
suốt
ngày bắng nhắng
như nhặng vào chuồng tru.
Bấc bỏ qua đèn, mèn (mè) bỏ qua rui
Không thể làm chuyện trái đạo ly lẽ
thường được cũng như bấc không thể bỏ qua
Đèn, mèn không thể bỏ qua rui
được.
Bấc bỏ qua đèn, mèn bỏ qua rui,
Khuyên em về bên đạo cho vui nhà
thờ
KTCDXN,
T.2,
Tr.
451
Bất nhân như lính, bạc
nghĩa
như làng
Lính tráng được huấn luyện và tổ
chức đàn áp cho nên thường bất nhân (tàn ác), làng là quần cư sinh sống
của một cộng đồng nông thôn lâu đời nên thường tồn tại nhiều hủ tục tập
quán không tốt. Quan hệ trong làng, khi có việc, thường lấy số đông áp
đảo số ít, bất
chấp chuyên ăn ở tình nghĩa thường
ngày.
Bẩy nhau ả em du (dâu), lu bù là
anh em rể
Hàm chỉ quan hệ anh em rể tốt hơn
chị em dâu. Chị em dâu thường hay kích bác, chơi
khăm nhau để hạ bệ, làm mất mặt
nhau trước người nhà đàng chồng. Anh em rể gặp nhau thường bù khú với
nhau một cách vui vẻ.
Bè lim sào ná (nứa)
Công việc nặng nề, hết sức khó khăn
nhưng khả năng giải quyết lại hết sức hạn chế.
Như bè lim sào ná
Mà nước cả sóng trào
Biết
chông chở làm sao
Cho vững vàng như trước.
KTVXN,
T.4,
Tr.
579
Bè ta ná (nứa) chú
1 - Danh nghĩa thì của mình,
nhưng
lợi ích thì của người.
2 - Có danh nhưng đạo lý lẽ thường
được cũng như bấc không thể bỏ qua đèn mèn không thể bỏ qua rui được.
Bấc bỏ qua đèn, mèn bỏ qua rui,
Khuyên em về bên đạo cho vui nhà
thờ
KTCDXN,
T.2,
Tr.
451
Bẹ ấp cành cau
Sự gắn bó gần gũi đến mức khó mà
rời nhau ra trong mọi hoàn cảnh.
Diệt
da da diết quá chừng
Em cho anh
chúi
một cái em đừng kêu
đau
Đến mùa bẹ ấp cành cau
Anh mang con lợn cơi trầu đền em.
Ca
dao
Bẻ que đo vại nước mắm
Chỉ sự bủn xỉn, keo kiệt.
Béng (bánh) cá giá ruốc
Những thứ thức ăn dân dã chợ quê mà
người quê thích và thường mua khi
đi
chợ. Mẹ nó đi chợ về chắc là đã
no rồi, ngoài chợ thiếu chi béng cá giá ruốc.
Béng (bánh)
lèng
(lành) trong lá
Khó mà biết được thực chất bên
trong khi chỉ thấy được hình thức bên ngoài. Cậu lầm là phải, béng
lèng
trong lá, có trời mà
biết.
Béng (bánh) ú đem đi, béng (bánh)
dì đem lại
Luật đời sòng phẳng, có đi có lại
có cho có nhận. Nó
rứa chịu
nhởi
(chơi), béng ú đem đi béng dì đem
lại.
Béo
cảy
(sưng) béo cương
Sự to béo đến mức gây cảm giác khó
chịu. Béo đến mức tưởng như bị sưng sỉa ra.
Ăn rồi béo
cáy
béo cương,
Không nhớ thằng ở, chẳng
thương
con đòi
Ba năm một đoạn khố vòi,
Khố bằng chạc vải, vòi bằng chạc
trân.
Đi ra nỏ dám ở trần
Che sau
mất
trước cực thân tôi là
KTCDXN,
T.2,
Tr234
Béo như trấn (rận)
mấn
(váy)
Chỉ ai đó, người nào đó béo đến mức
trông bẩn tướng, dị dạng. Mi ăn chi mà béo
như
trấn mấn
rứa
?
Béo như trùn (giun)
đụa
(đũa)
X.
Béo như trấn
mấn.
Bề ngoài làu
lảu
như hoa, mà trong ghẻ
guốc (ghẻ lở) tiêm la ba tầng
(Làu
lảu:
trơn tru sạch sẽ; Tiêm la: bệnh hoa liễu). Bề ngoài nhìn sạch sẽ, xinh
đẹp, đáng yêu nhưng bên trong thì lại dơ bẩn, bệnh hoạn.
Bể bát tát (rát)
rọt
(ruột)
Tâm lý xót xa, nuối tiếc khi của
cải, vật dụng bị hư hỏng, mất mát.
Mất
cái xe nó tiếc
lắm,
bể bát
tát rọt
mà.
Bền
cặc
(tục) lọ hơn bền gọ
(gụ) lim
(Cặc
lọ: sinh thực khí đàn ông; gỗ
lim: gụ và lim là hai loại gỗ quý thuộc nhóm thiết mộc, cứng, bền. Bền
cặc
lọ: có người nối dõi tông đường; bền
gọ
lim: nhà cửa, tài sản kếch xù, vững
bền). 1- (Quan niệm dân gian) coi trọng việc duy trì nòi giống, nối dõi
tông đường hơn là có nhiều của cải mà chẳng có ai kế thừa. Chăm thằng
cháu đích tôn để cho bền hương hoả, bền
cặc
lọ hơnbền gọ
lim con ạ. 2- (Ít dùng)
Tình cảm vợ chồng hài hoà, nồng thắm hơn là nhà cao cửa rộng, của cải
dồi dào.
Bền quai dai
cuống
1 Giỏ bền quai thì
lâu
đứt, quả dai cuống thì khó rụng.
2- Chất
lượng
tốt thì sử dụng được lâu dài. Làm một việc gì đó với một ý chí bền bỉ,
dẻo dai. Trong làng này, nó thuộc loại bền
quai
dai cuống.
Bên ngoại thương
nó
(không) bằng bên nội
ghét
Quan niệm này là sản
phẩm
của chế độ phụ hệ. Cái
gì
bên nội cũng tốt hơn, có
giá
trị hơn bên ngoại. Quan
hệ
bên nội là quan hệ
huyết
thống nên chi phối mọi mối quan hệ
khác. Về làm dâu nhà người ta còn phải nhớ rằng: bên ngoại thương nỏ
bằng bên nội ghét.
Bệnh gấp lành mau, đau lâu
trậm
(chậm) khỏi
Theo quan niệm y học cổ truyền bệnh
đổ đột ngột thường là bệnh nhẹ, mau lành chóng khỏi, bệnh âm ỉ mà phát
chậm thường là bệnh nặng phải chữa lâu và chậm khỏi. Yên tâm đi, bệnh
của nó chẳng có gì phải lo, bệnh gấp lành mau, đau lâu chậm khỏi cơ mà.
Bệnh hèn tìm thuốc
chựa
(chữa), người dại có thầy bày
(Bệnh hèn: bệnh nặng). Trong cuộc
sống, mọi khó khăn cần phải có người giúp đỡ việc dù trắc trở đến đâu
cũng tìm ra phương cách.
Bệnh hèn tìm thuốc
chựa,
Người dại có thầy bày.
Như làm sao dậy được,
Còn tỉnh hồn sao được!
KTVXN
, T.
8 , tr.
564
Biết sự trời mười đời
khỏi
đói
1 - Nếu biết trước được mọi chuyện
thì không bao giờ xảy ra bất trắc.
2 - Không ai có thể biết chuyện gì
có thể xảy ra, vì thế cần phải chấp nhận những rủi ro, khó khăn mà mình
gặp phải. Mi thì chỉ nói tài (bốc phét),
biết
được sự đời mười đời
khỏi đói
Bò đẻ tháng năm nỏ (không) bằm
(vằm) thì hui (thui)
Tháng năm là tháng nóng nhất trong
mùa hè, bò đẻ vào tháng này do nóng mà hay bị khát sữa, bê không có sữa
bú thường dễ chết.
Nuôi bò mà đẻ tháng năm
Sửa soạn dao
thớt
nỏ bằm thì hui
Ca
dao
Bò trao
chạc
(dây mũi), bạc trao tay
1 - Mua bán dứt khoát, đúng luật lệ
2- Làm việc gì cũng phải rạch ròi,
dứt điểm.
Bán mua phải giá bằng lòng,
Bò đà trao
chạc,
bạc trồng trao tay.
KTVXN
, T.6
, Tr
146
Bỏ tiếc mò su (sâu)
Không biết lượng sức, chọn những
việc vượt quá sức mình, mất công theo đuổi không đạt kết quả vì gặp quá
nhiều khó khăn cản trở, bỏ thì tiếc công, tiếp tục theo đuổi thì
không
đủ sức. Đã nói là
mần (làm) không nổi rồi mà
vẫn cứ liều, giờ
bỏ tiếc mò su, thấm
còn
chưa.
Bóng tròn còn nói chưa trưa
Cố tình nói ngược lại lẽ thường vì
một mục đích nào đó.
Bóng tròn em còn nói chưa trưa
Em có chồng rồi
dối
bạn nói chưa
có chồng
KTCDXN,
T.
1 , Tr.
451
Bớt đen lắm ló, bớt đỏ lắm tiền
(Bớt: vết chàm trên da). Quan niệm
nhân tướng học dân gian cho rằng: người có bớt đen giàu về lúa gạo,
người có bớt đỏ giàu về tiền bạc.
Người bớt đen
lắm
ló,
Người
bớt đỏ
lắm
tiền.
Lấy chồng về kẻ
Diên,
Không bớt đen cũng bớt đỏ
Vè đi nâu
Bớt nồi sang niêu
Do hoàn cảnh túng thiếu phải thu
hẹp phạm vi sử dụng tài sản, giảm thiểu việc chi Tiêu. Anh ta bán cái
nhà mặt đường để vào xóm ở cũng là
bất
đắc dĩ phải bớt nồi sang niêu.
Bún cá giá ruốc
X.
Béng cá giá ruốc.
Bún Phương Giai mai Thắng Lợi
Phương Giai một xóm thuộc xã Kỳ
Bắc, Kỳ Anh, Hà Tĩnh
là nơi làm bún ngon nổi tiếng; Thắng Lợi một xóm thuộc xã Kỳ Xuân, Kỳ
Anh,
Hà
Tĩnh
là nơi có rừng mai, đến mùa xuân hoa nở rất đẹp.
Buôn cau ăn cau sâu,
Buôn trầu ăn trầu
chậy
Buôn bán hàng gì cũng có lúc ế
ẩm,
vì tiếc của nên phải cố sử dụng những đồ ế ẩm đó.
Buồn như chó
chết
con
Gia súc trong nhà thì chó là loài
vật có tình cảm nhất. Chó mẹ mà con bị chết thì nó sầu đến mức bỏ ăn và
tru lên một cách thê thảm. Chỉ trạng thái rất buồn. Thi hỏng nó buồn
như chó chết con.
Buồn như anh mất
gấy
(vợ)
Rất buồn, buồn đến mức không nói
năng, không làm được việc gì nữa. Chú mi đi mô về mà buồn như anh mất
gấy
rứa
?
Buồn như kèn đám ma
Chỉ cảnh tượng, không khí buồn da
diết, não nùng. Mi bữa ni có chuyện chi mà ăn nói buồn như kèn đám ma
rứa
?
Buồn như chó chết con
X.
Buồn như anh mất
gấy.
Bụng ở như rương lạc chìa
Sống giả
dối,
quanh co, không trung thực.
Đầu miệng anh nói anh thương
Trong bụng anh ở như rương lạc chìa.
KT
CDXN ,
T. 1 ,
Tr 174
Bụng tròn như vại nhút
(Nhút: món ăn được muối từ xơ mít hoặc củ
chuối được trộn lẫn với một vài thứ rau gia vị khác và gạo rang dùng để
làm thức ăn ở vùng nông thôn. Ở Nghệ An, nổi Tiếng có nhút Thanh Chương.
X. Nhút
Thanh Chương, tương Nam Đàn)
1 - Quan niệm nhân tướng học: bụng tròn như
vại nhút là người giàu có;
2 - Giễu kẻ ăn uống nhiều, khi nào bụng cũng
căng tròn như vại nhút.
Bụng tròn như vại nhút
Béo như một tru Lào
Nó giết người không dao
Cũng đứng vào
nhất hạng.
HGNT,
Tr. 278
Bụng như bụng cá cóc
(nòng nọc)
Bụng ỏng trông có vẻ bệnh hoạn. Thằng bé bị
cạm, bụng như bụng cá cóc.
Bụng như bụng chó nảy (rơi) xuống ao
Chó rơi xuống ao vì uống no nước mà bụng phình
ra. ý nói bụng căng tròn vì ăn uống quá nhiều, chỉ hạng người phàm phu
tục tử Không biết
hắn ăn chi, uống chi
mà bụng
như bụng chó nảy xuống ao
.
Bụng ỏng khu (đít) beo
X. Bụng như
bụng cá cóc (nòng nọc).
Bút Cấm Chỉ, sĩ Thiên Lộc
Cấm Chỉ tức là ngõ Cấm Chỉ, thuộc phường Văn
Chương, khu Quốc Tử Giám ngày nay, là nơi xưa kia sản xuất nhiều loại
bút lông nổi tiếng. Thiên Lộc là tên cũ của huyện Can Lộc ngày nay. Xưa
kia, Thiên Lộc nổi tiếng vì có nhiều kẻ sĩ hiển đạt lưu danh sử sách.
Bút Trận có
lắm mía
mưng
Làng Bút Trận thuộc xã Diễn Thái, huyện Diễn
Châu, Nghệ An. Làng này có nhiều mía mưng - một loại mía cây to, dày
đốt,
mềm, rất ngọt.
Làng Bút Trận có
làm mía mưng,
Có o con gái tiếng
lừng gân xa,
Khéo tay thu vén việc nhà,
Giọng nói ngọt xót như là mía
mưng
Ca dao
Bụt chùa Già, ma chùa Dọc
Chùa Già là ngôi chùa của làng kẻ
Già nay thuộc xã Thạch Kênh, Thạch Hà, Hà
Tĩnh.
Ngày xưa, ngôi chùa này có Tiếng là linh thiêng. Chùa Dọc là ngôi chùa
thuộc xã Tiến Lộc, Can Lộc, Hà
Tĩnh
(gần xã Thạch Kênh), một ngôi chùa hoang có Tiếng là lắm ma. Cả hai ngôi
chùa này, nay không còn nữa.
Bừa lặp lắm ló nói lặp khó nghe
X.
Nhất chó sủa dai nhì ngài nói lặp.
Bức (vội)
chi
(gì) vội lấy chồng
non
Khuyên phụ nữ đừng lấy chồng sớm.
Bức chi vội
lấy
chồng non,
Sớm chồng tổn thọ, muộn con bạn
cười.
KTCDXN,
T.
1 , Tr.
451
Bươi
kít (cứt)
cho thôi
(thối)
Những cái dở không tìm cách che
dấu, dẹp bỏ lại còn bới lên cho thêm rắc rối; làm việc gì đó dở dang,
không xong, để lại hậu quả xấu.
Bươi
kít (cứt) mà ngởi
(ngửi)
Rỗi hơi, làm những chuyện gây hại
cho mọi người và bản thân. Biết điều thì im miệng đi, đừng có
bươi
kít mà ngởi.
Bưởi Phúc Trạch, cam bù Hương Sơn,
hồng vuông Thạch Hà
Chỉ ba loại đặc sản nổi
Tiếng ở Hà
Tĩnh
(cam, bưởi, hồng). Phúc Trạch là một xã của huyện Hương Khê có giống
bưởi ngon nổi Tiếng cả nước. Giống cam bù ở huyện Hương Sơn, giống hồng
vuông ở huyện Thạch Hà cũng được thiên hạ biết Tiếng từ xưa vì sai
quả và ăn ngon.
Bướm
chộ
(thấy, gặp) mật hoa
Tình cảnh trai gái tương tư, mong
đợi gặp nhau.
Đêm năm canh anh
ngủ có ba,
Còn hai canh nữa anh ra trông trời.
Trông trời mau
rạng đông ra,
Để cho
bướm
chộ
mật hoa bướm chào.
KTCDXN
, T.
1 , Tr
278
Bướm xa hoa bướm khô hoa tẻ,
Liệu (liễu) xa đào liệu ngẩn đào
ngây
Chỉ tình trạng sầu hận, rụng rời
khi đôi lứa phải cách xa.
Bướm xa hoa
bướm
khô hoa tẻ,
Liễu xa đào, liễu ngẩn đào ngây.
Đôi ta tình nặng nghĩa dày,
Dẫu xa nhau đi nữa
Ccũng ba vạn sáu ngàn ngày
mới
xa
KTCDXN,
T.
1 , Tr.
242
Bứt nhị hái hoa
1 - Đã có quan hệ tình dục
nam nữ;
2 - Sự tận hưởng hạnh phúc trong
tình yêu.
Đường vui ni (này) anh vẫn đi qua,
Sao anh bứt nhị hái hoa rồi lờ.
KTCDXN,
T.
1 , Tr.
296
C
Cà
cưỡng
(cưỡng) (sáo sậu) nuôi con ọ hếu (tu hú)
(Tu hú ít tự làm tổ mà hay vào tổ
sáo sậu ăn vụng trứng sáo sậu và đẻ trộm vào tổ sáo sậu. Khi nở, sáo sậu
không biết, lại chăm sóc nuôi nấng con của tu hú). Chỉ người đàn
ông bị vợ cắm sừng mà không biết lại còn phải nuôi con người ta. Mi
(mày) coi lại con vợ mi, không khéo cà cưỡng nuôi con ọ hếu.
Cả đời thì ăn của chồng,
Mới được một đồng đòi đi ăn riêng
1 - Câu này phản ánh tâm
lý
người phụ nữ xưa, thường sống phụ
thuộc, nên khi có điều kiện vật chất riêng họ thường hay làm ra vẻ. 2 -
Chỉ loại người thiển cận cạn nghĩ, không biết thân phận, khi túng thiếu
thì dựa dẫm người khác, lúc có đồng ra
đồng
vào thì trở mặt với nhau, vong ân bội
nghĩa.
Cả ngày ham
nhởi ham chơi,
Khi tắt mặt trời đổ ló ra quây
Mảng chơi, phơi lúa khi nắng đã tắt. Ham mê
chơi bời quên công việc, thực hiện công việc khi không còn có ý nghĩa,
tác dụng nữa.
Cả rặp
cả đẻ
(Rặp:
giao cấu). Làm một việc gì đó không có sự chuẩn bị hoặc đổ dồn
một lúc nhiều việc nên rất bối rối, mệt nhọc vì thiếu
nhiều thứ cần
thiết. Lần sau mần
(làm) là phải chuẩn bị trước ít nhít (nhất)
vài ba ngày, cả rặp
cả đẻ ri (thế này) thì nhọc lắm.
Cá Bàu Nậy, chè khe Yên
(Bàu: vùng đất trũng sâu, nậy: lớn) Bàu Nậy là
một cánh đồng trũng sâu lắm cá; khe Yên là một khe nhỏ trên núi Hồng
Lĩnh, hai bên bờ khe trồng nhiều chè. Cả hai địa danh này đều thuộc xã
Hồng Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh.
Ai về Hồng Lộc thì
về,
Ăn cơm
cá Bàu Nậy,
Uống nước chè khe Yên
Ca dao
Cá chạch đất sỏi
(Đất sỏi thì không thể có cá chạch). Chỉ thứ
quý hiếm, rất khó tìm. Chỉ lưa
(còn) cá chạch đất
sỏi là tau
(tao) chưa được ăn nữa mà thôi
Cá cựa Nhượng, khoai Mục Bài
(Cựa Nhượng: cửa biển thuộc xã Cẩm nhượng,
huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh
còn gọi là Nhượng Bạn. Cẩm Nhượng là nơi lắm cá, có nhiều loại cá ngon;
Mục Bài (thuộc Thạch Hà - Hà Tĩnh là nơi có nhiều khoai ngon.
Cá cựa Nhượng, khoai Mục Bài
Xin ai đừng để
phí hoài của ngon.
Ca dao
Cá đơm đó ló (lúa) đi cày
Thú vui do cuộc sống tự cung tự cấp đưa lại.
An nhiên tự tại không lệ thuộc vào ai. ăn đi chú, cá đơm đó ló đi cày
là sướng nhất
thiên hạ nhé.
Cá lẹp kẹp rau mưng
(Cá lẹp: một loại cá biển nhỏ, thịt bùi; rau
mưng: đọt lá non cây lộc vừng dùng làm gia vị). Kinh nghiệm ẩm thực dân
gian cho rằng cá lẹp kẹp với rau mưng ăn rất ngon.
Muốn ăn
cá lẹp kẹp rau
mưng,
Thì ra nhặt lái (lưới) chớ ngồi dưng mà
sèm (thèm)
Hò
kéo lái
Cá lẹp mà kẹp rau mưng
Ông ăn một
miếng mụ trừng mắt lên .
Ca dao
Cá lui về sông Vịnh, chim ngược ngàn kiếm đôi
(Sông Vịnh: sông đào chảy qua thành phố Vinh,
đổ ra sông Lam). Trở về đúng cội nguồn, môi trường sống của
mình.
Thôi thôi từ tạ biển vàng,
Cá lui về sông Vịnh, chim ngược ngàn kiếm đôi
KTCDXN,
T. 1 ,
Tr 406
Cá nhảy thác, cỏ lác đầy khe
Gặp thời cơ nhưng phải vượt qua nhiều gian
nan, thử thách.
Cá nhảy thác, cỏ lác đầy khe,
Nơi ghềnh xoáy ba bè đứt bảy mảng.
Ví phường gỗ
Cá nhỏ đó thưa
1 - Dụng cụ không phù
hợp với công
việc nên không đạt hiệu quả. 2 - Gặp quá nhiều khó khăn nên khó mà đạt
được mục đích.
Nghĩ rằng cá nhỏ đó thưa,
Vài ba nơm nữa mới
bưa (vừa) lòng
chàng
KTCDXN,
T. 1 ,
Tr. 372
Trách trời cá nhỏ đó thưa
Người cao tuổi nậy (lớn) mà chưa có chồng
KTCDXN,
T. 1 ,
Tr. 421
Cá rô bàu Nón, nước
tương Nam Đàn
Hai sản phẩm nổi Tiếng của Nam Đàn.
Cá rô cụng (cũng) tiếc, cá diếc cũng muốn
X.
Con rô cũng tiếc, con giếc
cũng ham.
Cá rô mốc mốc, gạo lốc phơi chen
(Cá rô mốc mốc: cá rô già, bạc đầu, rất béo;
gạo lốc là loại gạo trắng, thơm ngon; phơi chen là phơi khó
khén, hạt
gạo đều). Bữa ăn mà có cá rô mốc và cơm gạo lốc phơi chen thì như ăn
đặc sản.
Cá rô mốc mốc,
Gạo lốc
phơi chen.
Sức tui (tôi) thì
hèn cũng được
bảy đọi
(bát).
KTVXN,
T.2 ,
Tr. 15
Cá rô tháng năm như dằm gỗ lim
X. Măng
tháng chín thì nhịn cho chồng,
Cá rô tháng năm thì
bằm cho chó.
Mùa tháng năm thường khô hạn, ngắn ngày, cá rô
không có thức ăn nên gầy, xương xẩu cứng như dằm gỗ
lim.
Cá sông Giăng, măng chợ Cồn
Sông Giăng và chợ Cồn đều thuộc huyện Thanh
Chương, Nghệ An. Cá sông Giăng và
măng chợ Cồn
ngon có tiếng.
Cá sông Giăng, măng chợ Cồn,
Thanh Liên, Nhân Lạc,
chợ Đồn lắm
khoai
HPV
Cá trong oi (giỏ)
X. Cá vô lừ
Giừ (giờ)
trửa
(giữa) làng trửa
xã,
Đã gả bán đi rồi,
Cá đã nằm trong oi,
Còn nói năng chi nữa.
KTVXN,
T.4,
Tr.
449
Cá vô lừ (lờ)
1 - Đã bị trói buộc, kiềm tỏa
2 - Trai gái đã có hôn thú
Đến
đây cận thủy, xa ngư
Hỏi thăm cá đã vô lừ hay chưa?
Con cá đợi gió đợi mưa,
Trời
chưa
phong vũ cá chưa vô lừ
KTCDXN,
T.
1 , Tr.
280
Mình em như cá vô lừ
Khi vô thì dễ bây
giừ (giờ)
khó ra
KTCDXN
, T.
1 , Tr
3 41
Cải mới trổ bông non, gà vừa thì
nhảy ổ (tổ)
1 - Tương quan sinh sản giữa cây cỏ
và động vật.
2 - Thiên nhiên Hòa thuận, con
người và vạn vật sinh sôi nẩy nở.
3 - Niềm vui được mùa của người
nông dân.
Quả đào tiên bay nhảy,
Nắng
lấp
loá vừa tròn,
Cải mới trổ bông non
Gà vừa thì nhảy ổ
KTVXN,
T.3,
Tr.
312
Cái số
mần
(làm) khổ cái thân
Số mệnh
xấu
nên thân phải chịu nhiều đày đọa.
Câu này bộc lộ sự oán trách số phận.
Cái số làm khổ cái thân,
Lưng cơm mặn chat bao phần mồ hôi
HPV
Cam tròn, thị vẹo, khế cù queo
Kinh nghiệm chọn các loại quả Cam
có dáng tròn đều thì chất lượng tốt, còn thị và khế hình dáng cong vẹo
lại ngon ngọt
hơn những quả có hình dáng bình
thường.
Cành sườn, sa vạng (lườn) thẳng đôi
đùi,
Ướt mục, dài mui (môi)
sớm biết hơi
Kinh nghiệm chọn chó săn tốt
Càng quen càng lèn cho đau
Trong mua bán, hai bên quen nhau
thì thường nể nhau, thiếu cảnh giác, nếu có một bên không tốt thì bên
kia thường hay bị thiệt. Vì thế ở đời cần phải tỉnh táo sòng phẳng, nhất
là trong quan hệ vật chất.
Quen
mần
chi,
Càng quen càng lèn cho đau.
Càng thắm thì lại càng phai
Dễ vồn vập thắm thiết thì càng dễ
phai nhạt, chóng quên nhau.
Càng thắm
thì
lại càng phai,
Thoang thoảng hoa lài mà lại thơm
lâu.
KTCDXN,
T.2,
Tr.
98
Canh tập tàng, cơm rang, cá
náng
(nướng)
(Tập tàng: hổ lốn, hỗn độn; canh
tập tàng là loại canh hỗn hợp
nhiều loại rau dại khác nhau). Một kinh nghiệm của dân gian về ẩm thực:
canh rau vặt thì ngon vì lạ miệng, cơm rang và cá nướng ăn thơm bùi rất
ngon. Nói chung là những thức ăn dân dã, đơn giản mà lại ngon.
Canh tập tàng thì ngon,
Con tập tàng thì khôn.
Canh nấu hỗn
hợp
nhiều thứ rau dại thì ngon, con chửa hoang thì khôn.
Cao bóng dù, su (sâu) địa ngục
(Dù: Ô lớn, có cán dài, của hạng
quyền quý sang trọng dùng để che nắng, mưa; địa ngục: nơi đày đọa linh
hồn người có tội sau khi chết). Quyền thế càng lớn thì tội lỗi
càng
nhiều, theo luật quả báo sẽ bị trừng phạt nặng. Càng làm to thì càng
khốn, cao bóng dù su địa
ngục mà.
Cau Lường, trù (trầu) Hiếu
(Hiếu: là địa danh ở Thái Hoà,
Nghĩa
Đàn; Lường là một địa danh ở Đô Lương). Đây là hai địa danh thuộc tỉnh
Nghệ An, nổi tiếng về trầu cau.
Cau Lường, trù
Hiếu,
Chở
mười
noốc cho đằm.
Bánh chưng khoảng tám trăm.
Bánh dày xin tứ bát.
KTVXN,
T.3,
Tr.
559
Cau non loong (lỏng, bong) hạt, cau
tra (già) lợ (lỡ) lứa
1 - Tình trạng không đồng bộ trong
một lứa cau, buồng
thì quá già, buồng lại quá non. 2 - Trai gái trái duyên lỡ phận. 3 -
Ở
đời việc gì
thái quá hoặc bất cập đều không
tốt.
Cau già lỡ lứa khó buôn,
Em già lỡ lứa có buồn không em.
- Cau già cau lỡ em phơi,
Em
già
em chọn những
nơi cửa quyền
KTCDXN,
T.
1 , Tr.
453
Cau non, trù (trầu) lộc
Chỉ loại cau, trầu tươi ngon.
Kẻ buôn cau non trù lộc
Người mua
dóng
song mây
KTVXN,
T.2,
Tr.
401
Cay như khỉ ăn
gưng
(gừng)
Quá đau xót, cay đắng.
Thật là con rắn lục
Phun nọc độc vô chừng,
"Cay như khỉ ăn
gưng
"
Nói ra thêm khổ nhục
HGNT,
Tr
283
Cày lặp lắm ló (lúa), nói lặp khó
nghe
Đây là kinh nghiệm trong giao tiếp:
không nên nói nhiều vì như thế dễ làm cho người nghe mất cảm tình mà dẫn
đến hỏng việc.
Ruộng cày lặp lắm ló
Người nói lặp khó nghe.
Cắm rắm
như địt
(đánh rắm) trong mấn
(váy)
Chỉ người hay cằn nhằn làm người
khác khó chịu. Con mụ
nợ
(ấy) suốt
ngày
Cắm rắm như
địt
trong mấn.
Cắm rắm (cằn
nhằn) như kẻ Trằm
mất khế
(Kẻ Trằm
ở Diễn Châu). Dân kẻ Trằm
được người quanh vùng gán cho thuộc tính hay cằn nhằn, ca cẩm. Dân gian
còn có câu: "Loàm
ngoàm
như kẻ Trằm
mất tru"
để chỉ thuộc tính này.
Cắm chắc (cắn nhau) như
rạm gió
Rạm: giống
cua, thân nhỏ, càng dẹp, có nhiều lông, sống ở vùng nước lợ. Xung khắc,
không đoàn kết, không Hòa hợp.
Nhà nớ
(ấy)
suốt
ngày cắm chắc như rạm
gió.
Cắm chắc như chó với mèo
X. Cắm chắc
như rạm
gió.
Cắn (đục) trong dự (giữ) giá như vàng
Lời nguyền trong tình yêu.
Cắn (đục) trong giữ giá như vàng
Răng đen, má đỏ đợi chàng đầu xanh.
HGNT,
Tr. 62
Cũng như con
khẳng
(Con khẳng: là cái que thường bằng tre được
vót tròn, dài khoảng 40cm,
đường kính khoảng 2cm.
Con khẳng dùng để xỏ kết vì kèo, ngoài Bắc gọi là con xỏ) Chỉ chân rất
nhỏ gầy, không có bắp thịt. Thằng con nhà
nớ mười lăm
tuổi rồi mà cẳng
vẫn còn như con khẳng.
Cẳng như que
xoi điếu
X. Chân cò
tay nhện.
Chân khẳng khiu gầy guộc. Cong như que xoi
điếu
thì đâm đá chi.
Cẳng xéo khoai
(Xéo khoai: động tác dung đôi đũa cả quết
khoai khô đã đồ chín với đậu hoặc lạc. Vì loại thức ăn này vốn đã dẻo,
càng quết lại càng dẻo, nên khi quết đũa cứ dính chặt vào nhau) .
1 - Miêu tả dáng đi xiêu vẹo, hai chân líu
ríu, vướng vào nhau như đôi đũa cả xéo khoai.
2 - Biểu hiện sự rã rời mỏi mệt quá mức hoặc
do mệt mỏi, đói hoặc say rượu.
Ngồi trục cúi (đầu gối) quá tai,
Đi hai cong xéo khoai.
Đáng mặt trai Khố Nội,
Ra dáng ngài (người)
Khố Nội.
Vè ông Luyện Thỉ
Cầm cần phải giật
Việc đến tay phải làm.
Thiếp hỏi chàng phải nói ra,
Đầu đuôi tự
sự phân
qua em tường.
Anh câu
từ
câu
ếch,
câu lươn,
Chờ khi cá đói phải thương
miếng
mồi.
Cá nuốt vô khỏi miệng thì rồi,
Cầm cần phải giật chớ ngồi chờ chi.
KTVXN,
T.2,
Tr.
79
Cầu rú
Hống
(Hồng Lĩnh), mống Tả Ao
X.
Mống Tả Ao, trở trào (sào) không kịp.
Cậu bụng
trự
(chữ) không bằng mự
bụng lòng
(Bụng chữ: nhiều chữ
nghĩa,
kiến thức; bụng lòng: tạng phủ động vật, đây chỉ lòng lợn)
1 - Thói đời coi trọng cái ăn hơn
chữ nghĩa.
2 - Phê phán những kẻ coi trọng
cuộc sống vật chất hơn cuộc sống tinh thần Học chi cho lắm, cậu bụng
trự
không bằng mự
bụng lòng.
Cây mây nở hoa trời hết sấm, cây
nấm nở hoa trời ra oai sét
Kinh nghiệm dự báo thời tiết dựa
vào dấu hiệu biến đổi của cây mây và cây nấm trong quá trình sinh trưởng
Cây trên rừng chẻ ngược, cây vườn
tược chẻ xuôi
Kinh nghiệm chẻ tre (hoặc một số
loại gỗ có thớ dọc có thể chẻ như tre): tre vườn chẻ từ gốc lên ngọn
(xuôi) thì mới đều, ngược lại tre rừng thì phải chẻ từ ngọn xuống.
Cấy dày đầy ló (lúa)
Kinh nghiệm canh tác của người nông
dân, cấy dày tiết kiệm được đất cho năng suất cao. Cấy dày đầy ló,
cấy sưa (thưa) bỏ mùa.
Cấy phải trông, trồng phải chăm
1- Cấy
lúa
phải biết trông nom thời tiết, nước nôi, tốc độ sinh trưởng và cỏ dại,
sâu hại thì cây lúa mới phát triển được, trồng phải chăm sóc thì cây cối
mới tươi tốt.
2- Làm việc gì cũng phải tận tâm,
tận lực thì mới đạt kết quả. Nhà nông mà nỏ (không)
biết
câu "Cấy phải
trông, trồng phải chăm
" là mần răng (làm sao) ?
Cấy sưa thừa thóc, cấy dày cóc ăn
Kinh nghiệm gieo trồng lúa thời
xưa. Khi chưa có khoa học kỹ thuật, phải cấy thưa lúa mới phát triển,
bông sai, hạt mẩy. Ngược lại, cấy dày năng suất thấp. Cha ông nói cấm
có sai: cấy sưa thừa thóc, cấy dày cóc ăn.
Cấy sưa thừa đất, cấy dày lúa chất
đầy kho
Kinh nghiệm gieo trồng lúa thời
nay. Khi đã có phương tiện và vật tư nông nghiệp hiện đại như thuốc sâu,
thuốc trừ cỏ, phân bón tốt thì cấy dày có năng suất cao hơn ngày xưa cấy
thưa nhiều. Bây giờ cấy sưa thừa đất, cấy dày lúa
chất
đầy kho.
Cha bằng
dái
con bằng khái (hổ)
(Dái:
bìu
chứa tinh hoàn của động vật và người, nằm phía dưới dương vật). 1 -Sự
đột biến của nòi giống: con to lớn hơn cha nhiều. 2 - Sự khác nhau về
tính tình bản lĩnh,
năng lực của cha và con: con mạnh mẽ, tài ba; cha ươn hèn, kém cỏi. Thí
dụ: Nhà nớ
(ấy) rứa
(thế)
mà có phúc, cha bằng
dái,
con bằng khái.
Cha bòn con bỏ
1 - Cha mẹ
lo
tích cóp, dành dụm nhưng con cái lại phá phách, ăn Tiêu phung phí.
2 - Người làm kẻ phá, rất uổng.
Hắn nỏ biết
nghị (nghĩ) cha mẹ thì vất
vả mới kiêm được đồng tiền mà hắn đem nướng cả vô sòng bạc. Đúng là cha
bòn con bỏ.
Cha chết bấm
chin
(chân) chú,
Mẹ chết bú vụ (vú) dì
1 - Chú và dì
là
người thân ruột thịt của cha và mẹ, con
cái lâm vào cảnh
mồ côi theo lẽ thường phải nương tựa vào những người này.
2 - Gặp lúc hoạn
nạn thì chỉ có thể nương tựa vào người thân thuộc, ruột rà.
Cha
ướt
đái,
mẹ
(mẹ) đặc
nồi
Chỉ đặc điểm của
người làm nghề đánh bắt thủy hải sản. Cha phải lặn lội ướt quần, ướt áo
mới có tôm cá đầy nổi của mẹ.
Chạc
mụi
(dây thừng) tìm tru (trâu),
Tru
nỏ (không) tìm
chạc
mụi
Thường chỉ quan
hệ nam nữ, con trai tìm con gái chứ con gái không đi tìm con
trai. Đừng
chờ
cô ả mạnh dạn thế chứ đời mô có chuyện
chắc
mui
đi tìm tru.
Chắc
(dây) ngắn giếng su (sâu)
1 - Chỉ khoảng cách giữa hai người:
kẻ cao người thấp, với không tới,
không
nên duyên chồng vợ.
2 - Năng lực quá hạn chế so với yêu
cầu công việc, không thể đạt kết quả.
Trách
từ
nỏ (không) trách ai đâu
Trách đài (gàu)
kia
ngắn chạc,
trách giêng sâu nỗi gì.
Cháo nóng húp
queng
(quanh), tiền
dèng
(dành) trả nợ
Chi chút làm ăn, ki cóp dành dụm
tiền nong mới có thể giải quyết được những khó khăn lớn trong đời.
Cháo nóng thì phải húp
queng,
Muốn có tiền trả nợ thì
dèng
đừng tiêu
HPV
Chạy hơi ngút lộ (lô) tai
Chạy tất tưởi, nặng nhọc, chạy đến
nỗi hơi ra cả tai để tránh xa chỗ nguy hiểm hoặc để giải quyết
một
công việc gì đó.
Bựa
ni, hắn mắc một chuyến chạy hơi ngút lộ (lỗ)
tai.
Chạy đít (đứt)
rọt
(ruột)
X.
Chạy truốt
(tuột) rọt
(ruột).
X.
Chạy như chó phải dùi,
Chạy như chó phải lói.
Chó bị đánh vào đầu thường trúng
tiểu não là nơi chứa trung khu thần kinh điều hành vận động nên chạy
cuồng, chạy hoảng, chạy lung tung, chạy không định được phương hướng.
Thằng con gây tai nạn, cả tuần ni (nay) thằng bố chạy như chó bi đập
phải óc để kiếm
Tiền bồi thường cho người ta.
Chạy như chó dái
(Chó dái: chó đực đã đến thời kỳ
dậy. thì, phát dục mạnh chạy đi tìm chó cái
suốt
ngày). Chạy lung tung, chạy rông khắp chốn. Mi (mày)
mần
chi làm
gì) mà chạy suốt
ngày như chó dái rứa
(thế)
Chạy như chó phải dùi
X.
Chạy như chó bi đập phải óc.
Chạy như chó phải
lói
(pháo)
X.
Chạy như chó bị đập phải óc;
Chạy như chó ra dại;
Chạy như chó phải dùi.
Chạy trong trạng thái hết hoảng
kinh sợ đến mức như mất phương hướng . Nỏ (không)
biết
bựa
ni hắn bị chi
mà chạy như chó phải lói
Chạy như chó ra dại
X.
Chạy như chó phải
lói.
Chạy
trấp
(sấp) chạy ngả (ngửa)
Chạy vội vàng, loáng quáng để xoay
xở một việc gì đó Hơn tháng ni, hắn chạy
trấp
chạy ngả mà không lo được việc làm cho con.
Chạy
truốt
(tuột) rọt
(ruột)
Chạy vội vàng, tất tả,
lien
tục để giải quyết một việc gì đấy
Kiếm cho con được chút nghề mọn mà ông bố phải chạy
truốt
rọt.
Chát như lá
lấu
(Cây
lấu
mọc trên núi,
lá có vị rất chát). Hàm chỉ nước chè hãm quá chát. Nhà hắn chuyên
uống cái thứ nác
(nước) chát như lá
lấu.
Chăm làm là đống vàng mười,
Ai chăm gánh nặng, ai lười trắng
tay
Khuyên mọi người phải cố gắng, chịu
khó trong cuộc sống lao động.
Chẳng làng
chẻo
chẹt nỏ mần
chi ai,
Cu cu rúc rích nuôi trai trong nhà
(Chẳng làng: còn gọi là chim làng,
bách thanh điểu,
loại chim hay kêu, hót hay đặc biệt giỏi nhại tiếng các con vật khác. Sở
dĩ
gọi là chim chẳng làng là vì mỗi khi những con chim khác đến phạm vào
khu vực nó thường đậu hoặc làm tổ thì nó vừa đánh trả vừa kêu inh ỏi,
như chửi cả làng). Kẻ bên ngoài trông bộ hung tợn, to tiếng lớn giọng,
khoác lác phách lối nhưng thực chất lại chẳng nên cơm cháo gì, người bên
ngoài có vẻ ít nói lại đầy
mưu mô, toan tính, làm những việc
tày đình. Thường dùng chỉ quan hệ nam nữ bất chính.
Chẳng làng
chẻo
chẹt nỏ mần
chi ai,
Cu cu rúc rích phá độ, phá khoai cả
làng
X.
Chẳng làng
chẻo
chẹt nỏ mần
chi ai,
Cu cu rúc rích nuôi trai trong nhà.
Chẳng thà mắc vọng ru con;
Tội gì mà cấy mạ non tháng mười
Kinh nghiệm thời vụ, lúa vụ mùa mà
cấy mạ non tháng thì lúa không
phát triển được và sẽ mất
mùa.
Chặt tre chú ý gai, có tai lắng
nghe người
Phải cẩn trọng trong mọi trường
hợp
thì mới tránh được những nguy hiểm luôn rình rập; phải biết tìm hiểu dư
luận trước khi hành động thì mới mong tránh được hậu quả xấu.
Chấm trán lọ đuôi không nuôi cũng
nậy (lớn)
Đây là giống lợn khoang, có điểm
trắng ở trán và đuôi nuôi nhanh lớn.
Cứ bắt con
nớ
(ấy) về mà nuôi,
chấm trán lọ đuôi không ai nuôi
cũng nậy.
Chân cò tay nhện
Yếu ớt, hèn mọn, không có khả năng
chống chọi với đời không có khả năng kiếm sống.
Mưa trôi trên núi mưa về,
Chân cò tay nhện làm gì được ăn .
KTCDXN,
T.2,
Tr.
121
Chân thì trái quýt cắt hai,
Lộ (lỗ) miệng ống ná, lộ tai vạt
đầu
Chọn chó săn tốt: bàn chân khum như
quả quýt cắt đôi miệng đài nhỏ, vành tai như dùng dao vạt một nhát.
Chè chợ Lù, cá mu chợ Huyện
Chợ Lù thuộc xã Hồng Lộc (Can Lộc -
Hà Tĩnh
là nơi bán chè xanh nổi tiếng ngon. Cá mu: (cá nục nhỏ) ở chợ Huyện
(Bình Lộc - Can Lộc - Hà Tĩnh
gần biển nên tươi ngon.
Mời
em về Can
Lộc
quê anh,
Ăn cá mu chợ Huyện,
Uống chè xanh chợ Lù
Ví phường buôn
Chè ngon ấm bền
Sự tương xứng, đăng đối với
nhau
.
Em về kiếm vốn buôn chè,
Để anh buôn ấm ngồi xề một bên.
Chê ngon thì ấm cũng bền,
Chè thì tiền rưỡi, ấm tiền bốn
mươi.
Chè ôi mất nhuỵ
(Chè xanh đã mất hết hương vị). Hàm
chỉ vật gì đó đã mất hết hương sắc, không còn tinh túy; người đàn bà đã
mất tiết trinh.
Công anh xóc chén thay bình,
Chè ôi
mất nhụy,
tiếc
công trình
xiết
bao.
KTCDXN
, T.
1 , Tr.
497
Chè rú (núi) Mả, cá đồng Sâu
Núi Mả là một trong những quả đồi
trồng
chè ở Hồng Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh).
Theo kinh nghiệm của nhân dân địa phương thì chè ở đây ngon nhất; đồng
Sâu (Tân Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh
là cánh đồng trũng rất nhiều cá.
Chè rú Mả, cá đồng Sâu,
Đi mô (đâu) xa ngái nhớ lâu lâu lại
về.
HPV
Chè trưa rượu sớm
1- Cuộc sống phong
lưu,
thong dong chỉ ngồi ăn hưởng mà chẳng phải lo lắng điều gì.
2 - Phải cung đốn, đãi đằng thường
xuyên cho kẻ khác:
Thanh nhàn kể chuyện thuốc lào
Kể từ gieo hạt
biết
nào công phu.
Khi cất gánh, lúc lu bù,
Phân tro cỏ giã, sắm lo mọi bề.
Sau rồi hái cái đưa về,
Kẻ rọc người cuộn tứ bề xôn
xao
Định ngày hẹn thợ lao đao,
Chè trưa rượu sớm biết bao nhiêu
tiền.
Hoặc hồ rũ hoặc nguyên
mền,
Khi nào đóng bánh
mới
yên trong mình
.
HPV
Chết ba Tiếng
trôống
(trống),
sôống
(sống) ba
méng
(miếng) dồi chó
(Dồi chó: ruột chó rửa sạch, cho
hỗn hợp
tiết và các thứ gia vị vào, luộc hoặc nướng
lên, ăn rất ngon). 1 - Chết không
thể thiếu trống kèn cũng như sống không thể thiếu dồi chó. (Chưa ăn dồi
chó thì chưa thể nói là sống, chưa có trống kèn thì không thành đám ma)
. 2 - Đề cao một món ăn rất được ưa thích. Ăn đi chú em,
chết
chẳng qua được ba tiếng
trôống,
sôống
chẳng qua chỉ được ba
méng
dồi chó.
Chết
cặc
(tục) đe trời
1- Khi chết, con người đều giống
nhau ở tư thế nằm. 2 - Con người bình đẳng với nhau trước cái chết. Cuộc
sống con người
vô vị, dù ở cương vị nào, dù giàu sang đến đâu, rồi cũng kết thức tầm
thường như nhau cả. Mần
(làm) to mần
nậy (lớn) chi rồi chết
cặc
cũng đe trời cả.
Chết cha ăn cơm với cá,
Chết mẹ đứng
nga
(ngã) ba đàng (đường)
Đề cao vai trò của người mẹ đối với
con cái trong nhà
Chết nghe tiếng
trôống,
sôống
méng
dồi chó
X.
Chết ba tiếng
trôống,
sôống
ba méng
dồi chó.
Chết no hơn
sôống
(sống)
sèm
(thèm)
1 - Thỏa mãn nhu cầu ăn uống khi
đang sống.
2 - Không chấp nhận sống khổ sở
thiếu thốn; sẵn sàng, bất chấp mọi nguy hiểm để
sống thỏa thích. Ai nhịn làm
giàu cứ việc, chớ (chứ) bầy tui (bọn
tôi) thì chết no hơn sống
sèm.
Chết thì chúc thực điểm trà,
Sôống
(sống) thì xin đọi
(hát) nác
(nước) cà nỏ (không) cho
Thói đời giả
dối,
khi sống keo kiệt với nhau, khi chết lại nghi lễ, cầu cúng linh đình.
Chết thời cơm nếp thịt gà;
Sống thời xin bát nước cà không cho
Sự giả dối của con cháu đối với ông
bà, cha mẹ hoặc người thân.
Chết tru (trâu) còn thêm mẻ
rìu
Khi làm thịt trâu, người ta phải
dùng rìu để chặt xương. Tổn thất, thiệt thòi đủ đường: đã gặp tai họa
lại còn phải tốn kém vì tiếp đãi láng giềng. Năm nay nhà tôi xui xẻo
đủ đường, rõ là chết tru còn mẻ rìu.
Chi (cái gì) cụng (cũng) hay,
lưa
(còn) tí hột cay (ớt) cụng (cũng) nghiện
1 - Nghiện đủ thứ.
2 - Cái gì cũng thông thạo, sành
sõi.
Cha con ông
thì
chi
cũng hay, lưa
tí hột cay cũng nghiện.
Chiếu hoa trải cội (gốc) cây bần
Hàm chỉ việc làm hướng tới mục đích
tốt đẹp.
Chiếu hoa trải cội cây bần
Anh xích duyên lại cho gần duyên em
HPV
Chim gà, cá lệch, cảnh cau
Ba thứ ngon nhất: chim ngon nhất là
gà, cá ngon nhất là lệch, cảnh đẹp nhất là cau.
Chim gà,
cá
lệch, cảnh cau
Mùa nào thức ấy giữ màu thú quê
KTCDXN,
T.2,
Tr
23
Chim
khun
(khôn) ăn trái bù lù,
Người
khun
(khôn) ở với
người ngu bực mình
(Bù lù: một
loại
cỏ có quả chua). Trong ăn ở,
chềnh lệch nhau về năng lực, trí tuệ khó sống với nhau.
Chim
khun
(khôn)
chưa bắt đá
(đã) bay,
Người
khun
(khôn) chưa nắm lấy tay đạ
(đã) cười
Sự khôn khéo trong giao tiếp, ứng
xử.
Chim
khun
(khôn) chưa độ (đậu) đạ
(đã) bay ;
Người
khun
(khôn) chưa nói đạ
(đã) hay miệng
cười
(Chưa đậu đã bay: một số loài chim
rất nhát, hay cảnh giác với những hiểm nguy rình rập, khi đáp xuống cành
cây để đậu nhưng cánh vẫn chập chờn; người chưa nói đã cười là người
luôn luôn có ý thức thăm dò đối phương). Luôn cảnh giác, ứng phó với
xung quanh là cách sống khôn ngoan để đảm bảo an toàn cho cuộc sống của
bản thân.
Chim rừng gà
rú (núi) chớ
nuôi,
Bò hoe lọ (lõ)
trán, cộc (cụt) đuôi thì đừng
Kinh
nghiệm chăn nuôi: chim rừng,
khó nuôi, hay bị bệnh; bò lõ
trán, cộc đuôi hay bị cảm.
Chim rừng gà rú (núi) chớ nuôi;
trai có lông bụng, gái thâm mui (môi) xin đừng
Loại động vật hoang dã nuôi không
có lợi; đàn ông có lông bụng, đàn bà thâm môi là loại người hiểm ác
không nên gần gũi.
Chín cạnh đúc một
trự
(đồng Tiền)
(Chín cạnh: khuôn đúc Tiền ngày xưa
có chín cạnh). Muốn có chút tài sản phải biết tiết kiệm dành dụm từng li
từng tí. Tính ông ấy xưa nay vốn
rứa,
chín cạnh đúc một trự,
khá giả cũng phải.
Chó ăn mồm
Câu chửi loại
người
khinh bạc, không thèm nói năng,
chào hỏi ai. Cái thằng chó ăn mồm đó ai mà
nhởi
với nó.
Chó
cắm (cắn) áo rách
X.
Mèo què phải trận chó đòi.
Chó cắm (cắn) gậy ăn mày
Đã nghèo lại gặp lúc eo.
1 - Đến bước đường cùng còn gặp tai
họa 2 - Kẻ nghèo hèn thường hay bị bắt nạt, đàn áp. Hắn mới bị cháy
nhà xong lưa
(còn) con bò cũng chết nốt,
đúng là chó cắm gậy ăn mày.
Chó cắm (cắn) bị (túi, giỏ) rách
X.
Chó cắm (cắn) gậy ăn mày.
Chó chạy trước
hươu
nây
(nai)
X.
Chó chạy trước mang.
Chó chạy trước hươu
nây
Để sau
rồi dở chuyện.
KTVXN,
T.4,
Tr562
Chó chạy trước mang (hoẳng)
1 - Hấp tấp,
làm
những việc vượt quá phận sự của mình khi chưa được phép. 2 - Chỉ hạng
người bẻm mép, hay phát ngôn lung tung làm lộ chuyện của người khác.
Mi (mày) biết chi mà nói, đồ chó chạy trước mang.3 - Hành động hấp
tấp, thời cơ chưa đến đã nói hoặc làm dẫn đến hỏng việc. Chưa làm
được mi (mày) đã huênh hoang, đúng tà chó chạy trước mang.
Chó dại tha kít (cứt) về nhà
Do ngu
dốt
nên tự chuốc lấy phiền toái, làm
khổ mình và người thân. Con với cái đồ chó dại tha kít về nhà
Chó
khun
(khôn) tha kít (cứt) ra bại (bãi),
Chó dại tha kít về nhà
X.
Chó dại tha kít (cứt) về nhà
Chó le (thè) lại (lưỡi),
Ngài (người) vại (vãi)
vưng
(vừng)
Vào lúc
cuối
xuân sang hạ, nắng bắt đầu gay gắt (nắng đến mức chó thè lưỡi mà thở)
cũng là lúc đúng thời vụ gieo vừng. Cha
ôông
(ông) nói rồi: chó le lại, ngài vại
vưng,cứ
rứa
(thế)
mà
mần
(làm), đừng lo
muộn.
Chó nằm
chủi
(chổi) hoàn chó nằm chủi
1 - Chó thường thích nằm trên chổi,
nhất là về mùa lạnh. Khi nằm nó hay cắn hỏng chổi, mặc dù chủ nhà đuổi
đánh thế nào rồi
nó cũng cứ tìm được chổi để nằm. Cái đồ chó nằm
chủi,
nuôi mần
chi cho nhớp nhà.
2 - Thân phận thấp hèn, dù cố gắng
bao nhiêu
cũng không thể vươn lên để thay đổi địa vị xã hội. Hắn đi tứ phương
rồi cũng
cứ phải quay về đất ni (này), có ngóc
trôốc
(đầu) lên được mô (đâu), chó nằm
chủi
hoàn chó nằm
chủi.
Chó ngáp táp phải ròi (ruồi)
Vô tình gặp may. Hành
động
một cách bản năng nhưng lại đạt
được một kết quả nào đấy. Cái thằng chó ngáp táp phải ròi,
méng
(miếng)
đất
xin khôông
(không) mà
giừ
(giờ)
có
mấy trăm triệu.
Chó nhà cắm (cắn) người nhà
Việc quái gở, chẳng lành. Sự phản
trắc, tàn hại lẫn nhau trong nội bộ gia đình hoặc trong tổ chức, cộng
đồng.
Khen cho
tốt
bộ, Chó nhà lại cắm người nhà. Trước có "tề gia
" Sau ra
trị
quốc ".
KTVXN,
T.6,
Tr.
50
Chó sủa lòi trê (dom)
Chó sủa quá nhiều, quá mạnh đến nỗi
sa trực tràng.
Bọn con nít (trẻ con) choai choai
rình hái trộm trái cây làm con chó nhà
tau
(tao) sủa một bữa lòi cả trê.
Chó tha lá béng (bánh)
Chỉ tác phong lôi thôi, luộm thuộm.
Dép guốc mô mà đi như chó tha lá béng
rứa
con?
Chó trụ
nây
(nai)
1- Chó săn khi gặp nai, mặc dù cặp
sừng của nai rất nguy hiểm, chúng vẫn vây lại kiên cường chặn lối chạy
của nai, để người đi săn có thể hạ sát nai một cách dễ dàng.
2 – Kiên quyết làm bằng được một
việc gì đó. Cái thằng thật kiên trì, trụ ở ngoài rọng
(ruộng)
suốt
ngay (ngày) như chó trụ nây.
Chó
búp
(cụp) tai ngài (người) nạc mặt (dày mặt)
C.n.
Mặt nạc đóm dày, mo nang trôi
trấp
(sấp) biết ngày nào khôn.
Chó cụp tai
thì đần, không tinh; người nạc mặt
thì không khôn ngoan, linh lợi.
Chọc kít (cứt)
không lên hơi
Chỉ hạng người ươn hèn không làm
nên tích sự gì. Cái hạng chọc kít không lên hơi như mi mà cũng đòi
mần
(làm) thôn trưởng!
Chọng
(chõng) chợ Gát,
nát (gầu dai) chợ Lối
Chọng
(chõng tre) chợ Gát
(xã Thạch Minh, Thạch Hà, Hà
Tĩnh
hình thức đẹp, chất lượng tốt; nát (gàu dai) chợ Lối (xã Quang Lộc, Can
Lộc, Hà Tĩnh
bền, dễ tát nước.
Ai thích nằm thì mua
chọng
chợ Gát,
Ai thích tát thì mua nát chợ Lối.
Ví
phường đan
Cho
ngài (người) ta được ăn,
Mình bốc kít (cứt) bỏ bị,
Cho
ngài (người) ta mần
đi,
Mình xách
mấn
chạy theo
Cách ứng xử không phải lối do đố kỵ
lẫn nhau.
Chối trơn mít (trơn tuột) như chó
liếm kít (cứt) lá tre
Thành ngữ này nhằm phê phán những
kẻ lật lọng một cách trắng trợn trong nói năng, cư xử. Hắn nói
rứa
(thê) rồi mà
giừ
(bây giờ) đã chối
trơn mít như chó liếm kít lá tre.
Chồn đèn bao lăm thịt, con nít
trẻ
con) bạo lăm hơi
(Chồn đèn: thú nhỏ, thuộc họ cầy,
mõm ngắn, thường sống ở vùng núi, mắt to, trong đêm bắt sáng mạnh trông
như ngọn đèn vì thế người ta mới gọi là chồn đèn).
1 - Trẻ con dù khoẻ
cũng không
có nhiều sức lực ông bắt nó gánh nhiều chi cho lắm, chồn đèn bao lăm
thịt, con nít bao lăm hơi.
2 - Thái độ không them chấp những
kẻ non nớt mà lên mặt tự cao tự đại. Tưởng
dệ
(dễ) dọa tau
(tao), chồn đèn bao lăm thịt, con nít bao lăm
hơi
.
Chồng sang vợ được đi
giày
Vợ sang chồng phải ăn mày có khi
Quan niệm xưa (hệ quả ư tưởng trọng
nam khinh nữ): chồng sang trọng, phú quý thì vợ được hưởng theo, vợ sang
trọng phú quí thì chồng cũng chẳng được nhờ vả gì, có khi còn sa cơ thất
thế.
Chồng sang vợ được đi giày,
Vợ sang chồng cụng (cũng) ghe
(nhiều) ngày sướng thân
Quan niệm hiện đại: chồng giàu sang
thì vợ được hưởng phú quí, vợ giàu sang thì chồng cũng nhờ đó mà sung
sướng hơn.
Chớ cho ai lận, chớ hề lận
ai
(Lận: lừa dối người khác để chiếm
đoạt tài sản). Khuyên sống trung thực, ngay thẳng, không tham chiếm của
người và cũng không để người lừa gạt chiếm đoạt của mình.
Thấy trò cờ bạc thì xê (tránh),
Chớ cho ai lận, chớ hề lận ai.
Vè dạy con
Chợ Cày chân dép chân giày
Chợ Cày là chợ thị trấn Thạch
Hà, huyện Thạch Hà, Hà
Tĩnh.
Chợ tan nhanh, người đi chợ tất bật đến nỗi đi lạc cả giày dép.
Chợ Cày chân dép chân giày,
Em không bặt
bạnh
đi chợ Cày mần
chi (làm gì) ?
Ví phường buôn
Chợ đại, ngài (người) dại cụng
(cũng) đi
Chợ đại là chợ phiên chính, người
đi chợ đông, mua bán nhộn nhịp hơn phiên chợ thường nhiều. Người dại khờ
ít khi dám đi chợ vì dễ mua đắt bán rẻ, dễ bị lừa,
nhưng
với không khí tưng bừng của phiên
chợ đại thì cũng bị cuốn hút mà đi. Mi (mày) đi phiên chợ ni (này)
rồi biết,
chợ đại ngài dại cũng đi.
Chợ Eo nuôi rể, chợ Huyện kể du
(dâu)
Chợ Eo (thuộc Hậu Lộc, Can Lộc) là
nơi thường bán lòng lợn ngon, người ta hay mua về đãi khách, mà con rể
thì được coi là khách quý Chợ Huyện (Bình Lộc, Can Lộc) là chợ lớn nhất
vùng hạ huyện Can Lộc, nơi đây đàn bà ngồi chợ cả ngày và hay đưa chuyện
nhà, chuyện ăn ở với dâu con ra kháo nhau.
Chợ Voi chân dép chân giày
Người Nghệ
Tĩmh
xưa nghèo đói chủ yếu
đi chân đất chân dép chân giày là
nói đến sự sang trọng, lịch
sự. Câu này
nói
niềm tự hào của người dân Chợ Voi, chợ nổi tiếng lâu đời ở vùng bắc Kỳ
Anh, nơi có đặc sản bánh tày nổi tiếng cả nước.
Chợ Voi chân dép chân dày
Thung rung nhàn hạ nỏ mô tày chợ
Voi.
Ca dao
Chớp cửa Lò rệt (đuổi) bò mà chạy
Chớp
phía
Cửa Lò tức là chớp phía đông, ngoài biển. Cơn giông từ ngoài biển thường
ập đến nhanh, phải tránh kịp thời .
Chớp cửa Rào,
dợ
(dỡ) hàng rào mà nấu
Theo kinh nghiệm của nhân dân địa
phương nếu cửa Rào (một cửa biển ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh Có Chớp
thì
mưa lụt dài ngày vì vậy không đi
rừng lấy củi được và chắc chắn phải dỡ hàng rào (tre hoặc gỗ) mà đun
bếp.
Chớp đằng đông vừa trông vừa chạy,
Chớp đằng bắc trật
cặc
(tục) mà coi
Kinh nghiệm xem xét thời tiết: chớp
đông thì
mưa đến rất nhanh, chớp phía bắc
thì ít khi mưa đến nơi.
Chớp
mụi
(mũi) Đao dợ
(dỡ) rào mà nấu,
Chớp
mụi
Lội cổi
(cởi) áo ra phơi
(Mũi Đao: Hòn núi nhỏ nhô ra biển
hình lưỡi đao ở gần Đèo Ngang; mũi Lội tức đảo Sơn Dương, một hòn đảo
nhỏ ở vùng biển phía Nam huyện Kỳ Anh, Hà
Tĩnh.
Một kinh nghiệm xem thời Tiết của nhân dân vùng Kỳ Lợi, Kỳ Phương huyện
Kỳ Anh, Hà Tĩnh:
thấy chớp ở phía mũi Đao biết chắc
trời sẽ mưa to, mưa lâu, chớp ở mũi Lội thì trời sẽ tạnh, ráo.
Chú khi ni (này), mi (mày) khi khác
1 - Không nên bận tâm đến việc của
người khác vì ai rồi cũng có phần trách nhiệm và hưởng thụ như nhau.
Tị nẹng
(nạnh) mần
chi (làm
gì), Chú khi ni mi khi khác.
2 - Sự mắc mớ trong quan hệ trách nhiệm. Chưa thoát được mô (đâu) mà
hí hửng, chú khi nỉ mi khi khác. 3- Sự thay bậc đổi ngôi một cách
trớ trêu. Thời
giừ
(bây giờ) nó lộn
quất (thoái hoá)
rứa
(như thế)
đó chú khi
ni
mi khi khác.
Chua nhắt (són)
nác
(nước) đấy (đái)
Chỉ hiện tượng do ăn phải thực phẩm
quá chua đến mức són đái. Chanh nhà hắn ăn chua nhắt
nác
đấy.
Chua như kít (cút) mèo
(Cứt mèo mùi chua khắm rất khó
chịu). Chỉ sự nói năng cửa ai đó với giọng điệu gây khó chịu
cho
người khác. Cái thằng ăn nói
chua như kít mèo.
Chui rú (núi) tội ngài (người) cao,
lội rào tội ngài (người) thấp
1- Đi rừng thì người cao bất lợi;
lội sông thì người thấp bất lợi. 2 - Điều kiện khách quan thường thuận
lợi đối với người này, bất lợi đối với người khác. Ở đời là
rứa
(thế)
lấy mô (đâu) ra đồng đều, đi rú tội
ngài cao; lội rào tội ngài thấp, thôi thiệt đầu ni (này) thì hơn đầu
khác.
Chụm (chũm)
chút (bé, nhỏ) với cau sần
(Chũm
chút: chũm
cau bé, xơ cứng là phế phẩm
khi người ta bửa cau. Cau
sần: cau hạt già, cứng, ăn không ngon) . Chỉ cuộc sống quá nghèo
túng, đạm bạc.
Cơm ngày ba
bựa,
Trù (trầu) bà phát ba lần.
Những
chũm
chút
với cau sần,
Lại thêm nùi (dúm) thuốc nhánh.
KTVXN,
T.6,
Tr
201
Chúng chê bạn cười
Bị mọi người chê trách, dè bỉu.
Thôi thôi cắp sách mà
về,
Học hành chi nữa chúng chê bạn
cười
KTCDXN
T.2,
Tr
80
Chuối mùa đông cho
khôông
nỏ (không) lấy
X.
Măng tháng chín thì nhịn cho chồng;
Chuối mùa đông quăng cho lợn.
Chuối mùa đông do ít nắng nên ăn
rất nhạt.
Măng tháng chín thì nhịn cho chồng,
Chuối
mùa đông cho không nỏ lấy.
Chuồn chuồn
đạ
(đã) dạo không bạo (bão) thì cụng (cũng) lụt
X.
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.
Chuồn chuồn đi dạo (bay thấp là đà
thấp như người ta đi dạo) thì mưa to gió lớn. Đi đâu
thì đi nhanh mà về chứ chuồn chuồn
đã dạo không bạo (bão) thì cũng lụt.
Chuột chù ăn trù (trầu) đỏ mui
(môi)
Lố lăng, kệch
cỡm;
xấu mà hay làm đỏm.
Chuột chù ăn trù đỏ mui,
Ai muốn
mần
(làm) mọn thầy tui (tôi) thì về
Mẹ tui ghê gớm, gớm ghê,
Mài dao cho sắc
mổ mề
dì hai.
KTCDXN,
T.2,
Tr153
Chuồng gà hướng Đông, cái lông nỏ
còn
Theo kinh nghiệm dân gian,
chuồng
quay về hướng Đông khó nuôi gà.
Chút kít (cứt) đàn ông bằng một
công đàn bà
Quan niệm phong kiến xem thường phụ
nữ: người đàn ông bao giờ cũng hơn phụ nữ về mọi mặt nhất là việc làng
nước và các công việc nặng khác. Lăng xăng chi mấy ả
nớ
(ấy), chút kít đàn ông bằng một công đàn bà.
Chưa ăn cha rìu con rạ (rựa),
Ăn rồi cha ngả con nghiêng
Quy luật tâm sinh lý tự nhiên của
con người, chưa ăn uống thì còn hăng hái làm; ăn rồi thì muốn nghỉ ngơi,
sinh lười biếng. Tranh thủ mà
làm
đừng cho ăn vội chưa ăn thì cha rìu
con rạ, ăn rồi cha ngả con nghiêng.
Chưa chồng chơi đúm chơi đu;
Có chồng chẳng dám mở trù (trầu) ai
ăn
Khi đã có chồng, để giữ gìn hạnh
phúc gia đình, người phụ nữ phải chịu
nhiều
thiệt thòi không còn tự do như thời con gái.
Chưa đặt khu (đít)
đạ
(đã) tu mồm
(Tu: nói to, nói liên tục). Chỉ
những kẻ hấp tấp, vô duyên, vừa ngồi xuống đã nói huyên
thuyên,
bất chấp hay dở, đúng sai. Nó chứng nào vẫn tật ấy, chưa đặt khu đã
tu mồm.
Chưa đập
người
ta mặt đỏ như vang,
Đập người ta rồi mặt vàng như nghệ
(Mặt đỏ như vang: chỉ trạng thái
tâm lý rất tức giận, khiến máu dồn lên đầu làm da mặt đỏ bầm như màu
rượu vang; mặt vàng như nghệ: chỉ trạng thái tâm lý quá sợ hãi làm cho
huyết áp hạ đột ngột, mặt tái đi, da mặt vàng ệch như nghệ) 1 - Chưa
đánh được người khác thì hung hăng, tức tối khó chịu; đánh được rồi,
nhìn thấy tai vạ mình gây cho người ta, lại sợ hãi. 2 - Khi bị kích động
thì hung hăng, nhưng lúc hành động xong rồi mới biết rằng mình mắc dại.
Chưa giàu
đạ
(đã) lo kẻ trộm
1 - Chỉ những người quá cẩn thận,
quá cảnh giác.
2 - Chỉ loại người hồ đồ,
huênh
hoang, khoác lác. Chẳng ai như
mi (mày) chưa giàu đã
lo kẻ trộm
.
Chưa giơ roi đã chạy,
Chưa hò (họ) đứng ngay
Chỉ những kẻ quá hèn nhát, hèn nhát
đến mức mất hết cả tự chủ.
Chưa học bắt chuột
đạ
(đã) học
ẻ
(ỉa) bếp
1 - Chỉ
loại
mèo vô dụng. 2 - Chỉ loại người chưa học làm điều tốt đã nhiễm phải thói
xấu. Chưa học bắt chuột đã học
ẻ
bếp, rõ loại ngài (người)
vô tích sự.
Chưa mở mắt
đạ
(đã) ngoắt mỏ
X.
Chưa học bắt chuột đã học
ẻ
bếp.
1- Đặc tính của giống chó cỏ là đẻ
ra chưa mở mắt nhưng đã biết sủa (ngoắt mỏ)
2 -
Hấp
tấp, nóng vội, bộc lộ bản chất quá sớm. Chỉ loại người hay nói hay chửi,
hễ thức giấc là mở mồm chửi mắng người khác.
Chưa nói
đạ
(đã) cười là người vô duyên
Chỉ hạng người bất nhã, trong giao
tiếp chưa đưa ra thông tin gì đã bộc lộ thái độ bằng cử chỉ (cười cợt)
khiến cho người trong cuộc dễ chạnh lòng hoặc mất cảm tình. Cấy (cái)
thứ con gấy
(gái) chưa nói đã cười là thứ vô duyên, vô hạnh mi cưa (tán tỉnh)
mần
(làm)
Chưa nói
đạ
(đã) cười,
Chưa đi
đạ
(đã) chạy là người vô duyên
X.
Chưa nói đã cười là người vô duyên
Chưa nuôi tằm
đạ
(đã) kể tiền dâu với tằm
Chỉ hạng tiểu nhân, chưa giúp được
gì cho người khác đã vội kể công.
Thiếp trách chàng một nỗi,
Vội vạch tá tìm sâu,
Chưa nuôi tằm đã vội kể tiền dâu
với tằm.
Khi ra
viếng
vào thăm,
Anh vội vàng công kể.
KTVXN,
T.3,
Tr.
52
Chưa qua truông đã (đã) trật
cặc
cho khái (hổ)
Phê phán loại người thiển cận, bội
bạc, không có trước có sau. Kể chi cái hạng
bất
nghĩa bất nhân,
chưa qua truông đã trật cặc
cho khái.
Chưa ra khỏi lòi (lùm cây)
đạ
(đã) trỏ bòi
(buồi,
dương vật) cho khái (hổ)
1 - Dân sơn tràng khi vào kiếm củi
ở những bụi cây, lùm cây rậm trong rừng, sợ nhất là bị cọp vồ; vì cọp
thường hay rình mồi ở những nơi này, người khó phát hiện, khó tránh khi
bị chúng tấn công. Cho nên thường khi vào những chốn này họ thường khấn
ông (thần hổ) để được an toàn. Đây chỉ kẻ ngông cuồng, ngu muội, chưa
hết gian nguy đã vội khinh thường. Nó gan góc lắm, thuộc dạng chưa ra
khỏi lòi đã trỏ bòi
cho khái 2 - Chỉ hạng
người hay khinh suất, hấp tấp, thiếu chín chắn. Chú mi (mày) phải
hết
sức cẩn thận, đừng có mần
(làm) cái kiểu chưa ra khỏi
lòi đã trỏ bòi
cho khái. 3 - Chỉ hạng
người quay quắt, vô ơn thiếu chung thủy. Hắn là kẻ chưa ra khỏi lòi
đã trỏ bòi
cho khái.
Chửa hoang ràng bụng
Cách che dấu của người phụ nữ khi
lầm lỡ. Chứa nhân nghĩa thì giàu; chứa bạc, chứa ác
ốm đau rạc rài Quan niệm về luật
báo ứng trong nhân gian: người tích thiện (chứa nhân
nghĩa)
thì gặp điều may mắn, được báo đền xứng đáng; người làm điều bạc ác thì
bị trừng
phạt (ốm đau rạc rài).
Chựa
(chữa) được bệnh, ai chựa
được mệnh
Số mệnh đã định phải chết thì không
ai chữa được. Bệnh hiểm
thế
thì tui (tôi) đành chịu, chựa
được mệnh chứ ai chựa
được mệnh.
Chựa
loà hoá đui
X.
Chựa
(chữa) mù ra đui.
Chựa
(chữa) mù ra đui Bệnh
nhẹ chữa thành nặng; đồ dùng hỏng ít thì sửa thành hỏng hoàn toàn. Đồ
dốt
nát,
chựa
mù ra đui mà cũng trương biển mở hiệu.
Co ro như cò tháng tám
Tháng tám là tháng mưa bão, cò vốn
mảnh dẻ, không đi kiếm ăn được chỉ đứng co ro tránh mưa gió. Cái loại
ngài (người) co ro như cò tháng tám thì
mần
(làm) nên
cơm
cháo chi.
Có bị cháy nhà, không cho kẻ Già
đến chựa
(chữa)
Kẻ Già nay thuộc xã Thạch Kênh -
Thạch Hà, tương truyền, dân ở đây sống quay quắt nên bị người trong vùng
tẩy chay.
Có cây mới có
dây
leo;
Có cột có kèo mới có đòn tay
Nương tựa vào nhau để cùng tồn tại,
có cái này thì mới có cái kia và ngược lại.
Có chồng như gông đeo
cổ
Không chồng
cổi
lổ
(cởi truồng) mà đi
Hai trạng thái, hai cực đoan khác
nhau trong cách ứng xử của người phụ nữ.
Có đi có bấp (vấp)
Đã làm việc thì ít nhiều có sơ xuất
Có
làm
hàm nhai, không làm hàm nhịn
Luật đời sòng phẳng: có làm có
hưởng, không làm không hưởng.
Suốt
ngày rong chơi thì lấy
cái gì mà ăn, tau
(tao) nói cho mà hay: có làm hàm nhai, không làm hàm nhịn.
Có khó mới có miếng ăn
Muốn có thành quả thì phải chịu
khó, có cống hiến hy sinh mới được hưởng thụ.
Có khó mới có
miếng
ăn;
Có nhọc, có nhằn mới có phong
lưu.
KTCD
XN,
T.2,
Tr.
102
Có
khun
(khôn) ngoan đến cửa quan mới
chộ
(thấy)
Đến nơi quyền thế mới biết rõ bản
lĩnh của mình là thế nào. Đi đâu nó cũng khoe
khun
khoe ngoan, có khun
ngoan
đến
cửa quan mới chộ
Có kiêng mới lành, có dành mới
lưa
(còn)
Sống phải thận trọng, giữ gìn một
cách chu đáo thì mới mong bình yên, biết dành dụm mới có của cải.
Có kiêng thì mới có lành
Của tiền có dụm có dành mới
lưa.
Ví phường
cấy
Có lời rơi ra nước mắt
Những cảnh ngộ éo le, những đau khổ
không thể nói nên lời. Trong những lời trình bày cảnh ngộ của bà ấy,
có lời rơi
ra nước mắt.
Có nam có
nự
(nữ) mới nên xuân,
Có xôi có thịt mới nên phần
Có con trai con gái thì mới trọn
vẹn hạnh phúc cũng như một phần
tế phải
có xôi và thịt mới hợp
lệ.
Có phúc dâu hiền rể thảo,
Vô phúc dâu cáo rể chồn
X.
Có phúc lấy được dâu hiền, vô duyên lấy được dâu dại;
Có phúc là nàng dâu, vô phúc là cái
báo. Nhà có phúc cưới được dâu hiền rể thảo, nhà vô phúc thì gặp phải
dâu rể gian tà, vô đạo. Chọn
lựa
mãi
rồi cũng thế thôi,
có phúc dâu hiền rể thảo, vô phúc dâu cáo
rể chồn.
Có phúc sinh con biết lội,
Có tội sinh con hay trèo
Con hay bơi lội thì khi gặp nạn rơi
xuống nước hoặc lũ lụt không bị chết đuối, con hay leo trèo thì có ngày
ngã gãy tay què chân hoặc chết. Thằng bé hay leo trèo tôi lo lắm anh
ạ, có phúc sinh con hay lội, có tội sinh con hay trèo.
Có tiếng không có miếng
X.
Bè ta ná chú.
Có trăng chớ phụ bóng đèn
Khuyên người đời phải sống thủy
chung, không nên có mới nới cũ.
Có trăng
chớ phụ
bóng đèn
Có chồng
chớ phụ,
bạn quen chớ chào
KTCDXN
, T.
2 , Tr
102
Có
trụ
(chữ) mà không có nghịa
(nghĩa)
1 - Có kiến thức mà không có văn
hoá, có học vấn mà làm
những điều trái đạo lý:
2 - Chê trách phê phán những hành
vi ứng xử thiếu văn hoá của một ai đó. Loại có
trự
mà không có nghĩa
cho học hành tốn
cơm
Có tuổi mà
khuông
(không) có tác
(Tác: vóc dáng, tư cách). Chỉ những
người lớn tuổi nhưng đáng vẻ, tác phong không đứng đắn nghiêm túc.
Cóc
cợi
(cưỡi) rồng
Sự đời ngược ngạo, trái lẽ thường
gây nên cảnh cười ra nước mắt trong quan hệ hôn nhân, gia đình khi người
phụ nữ xinh đẹp khôn ngoan lấy phải người chồng đần độn, xấu xí.
Nỏ (không) thà ấp mạ
giường
không,
Đừng cho con cóc
cợi
rồng khó coi.
KTCDXN
, T.
2 , Tr.
124
Cóc hủi núp (nấp) bụi tre còi,
Tui (tôi) không dạm (cầu hôn) nó,
nó đòi lấy tui
Kẻ thân phận chẳng ra gì nhưng lại
cuồng vọng, ao ước những điều viễn vông.
Cóc mà không cắm (cắn) thì thôi,
Hệ (hễ) cóc
đạ
(đã) cắm thiên lôi cụng (cũng) chờn
Theo truyện cổ tích "Cóc kiện trời"
thì Ngọc hoàng thượng đế còn phải sợ cóc. Người
hiền
lành ít nói nhưng hễ nói câu nào thì rất sâu cay.
Cọc
giàng
(ràng) nhà trời
Chỉ những người suốt ngày lam lũ
đầu tắt mặt tối ngoài đồng. Con mẹ
Chắt
cấm có
khi mô (nào)
chộ
(thấy) nó trong nhà, rõ là cọc
giàng
nhà trời.
Cói chó ngó cá tràu (cá quả)
X.
Tru tóm mà đòi leo
giường cao.
(Cói chó: loại cò nâu mình nhỏ).
Cói chó chỉ bắt được tép, cá long tong nhưng thấy cá tràu vẫn thèm. Muốn
làm những việc vượt quá sức mình. Sức học như mày mà đòi thi đại
học, thực là cói chó mà ngó cá
tràu.
Con có khóc mẹ mới cho bú,
Cháu đòi ngủ bà mới phải ru.
Ở đời có đòi hỏi mới được đáp ứng.
Ta không đấu
tranh là không được chi mô, con có
khóc mẹ mới cho bú anh ạ.
Con du (dâu) vô (vào) nhà, mụ gia
(mẹ chồng) ra ngọ (ngõ)
1- Phong tục khi cưới hỏi: khi con
dâu vào nhà, mẹ chổng phải ra ngõ. 2 – Con dâu và mẹ chổng không ưa
nhau, cả hai không muốn chạm mặt nhau. Con du, mụ gia nhà
nớ
như mặt trăng mặt trời, con du vô nhà mụ gia ra ngọ.
Con
gấy
(gái) chọn nơi gả,
Con trai chọn nơi hỏi
Nguyên tắc chọn vợ gả chồng: phải
tìm hiểu kỹ càng để có thể chọn được nơi xứng đáng.
Con
gấy
(gái) mà lấy chồng xa
Như con lợn béo khái tha lên rừng
Người xưa cho rằng: cho con gái đi
lấy chồng xa là coi như mất đứa con, bởi ngày xưa điều kiện giao thông
khó khăn, người con gái lấy chồng xa là biệt tăm biệt tích, không mấy
khi về thăm cha thăm mẹ.
Con
gấy
mà lấy tra dòng (cha dòng)
Như nước mắm
cốt
chấm lòng lợn siu
(thiu)
(Cha dòng: người đàn ông goá vợ).
Sự bất tương xứng đến bi hài trong cảnh ngộ người con gái tân lấy phải
người đàn ông đã từng có vợ nhất là khi người ấy đã quá già.
Con gái mà
lấy
cha dòng,
Như
nước
mắm
cốt
chấm
lòng lợn thiu
Đêm nằm gió mát hiu hiu,
Cắn
răng
nuốt
bụng chín chiều ruột đau.
Rờ chồng chẳng thấy chồng đâu,
Quàng
tay chạm phải bộ râu ba chòm
.
HPV
Con
gấy
(gái) rào (sông)
Trai mười hai nén vàng
(Rào Trai, tức cầu Đò Trai ở Đức
Thịnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh).
Tương truyền từ xưa,
con gái rào Trai, xinh đẹp, nết na
làm ăn giỏi giang. Hắn lấy được ả
nớ
(cô ấy) thì tuyệt
vợ
con
gấy
rào Trai đáng giá mười hai nén vàng đó.
Con hay mách, mẹ sạch đầu
Sau ba tháng, khi đứa con đã "biết
mách", người mẹ phải trải qua giai đoạn rụng
tóc ở cữ để mọc tóc mới. Người mẹ
phải tẩm bổ để hồi phục sức khỏe.
Con
khun
(khôn) đẹp mặt mẹ cha;
Nhược bằng con dại nhuốc nha (nhuốc
nhơ) trăm đàng (đường)
Hai trạng thái khác nhau của cha mẹ
trước con cái.
Con không đẻ không thương, của
không mần
(làm) không tiếc
Bất cứ thứ gì, nếu không đo bản
thân bỏ công sức làm ra đều không quý, không xem trọng, do đó mà sử dụng
phung phí. Cho nó bao nhiêu tiền nó
cũng phá,đúng
là con không đẻ không thương, của không
mần
không tiếc.
Con không nghe mẹ nghe cha;
Mắm không nghe muối ắt là mắm ươn
Hậu quả đau lòng của việc con cái
không nghe lời cha.
Con
khun
(khôn) cha mẹ sướng, chó dại nhà chủ lo
X.
Con khun
đẹp mặt mẹ cha,
Nhược bằng con dại nhuốc nha trăm
đàng.
Con cái khôn lớn, thành đạt thì cha
mẹ hạnh phúc sung sướng; chó dại thì nhà chủ lo sợ vì nó có thể cắn phải
người ta mà mắc vạ.
Con mắt to hơn lộ (lỗ)
mồm
1 - Nhìn thức ăn dọn ra
lo thiếu nhưng
hoá ra ăn không hết.
2 - Tham lam,
thèm muốn thì nhiều nhưng ăn chẳng được mấy. Nó thấy ăn là sáng mắt
lên, nhưng ăn có là bao, rõ là con mắt to hơn lỗ mồm.
Con ngài (người) méo mó mới có
trự (đồng)
tiền
Làm được đồng tiền phải trả giá: tính cách,
nhân cách, nhân dạng đều có thể bị thay đổi đáng sợ. Ở đời tưởng có
của mà dệ
(dễ), con ngài méo mó mới
có trự
tiền .
Con nhà giàu hay
mần
(làm), con nhà bần hay ăn
Con nhà giàu (chân chính) thường
siêng năng, con nhà nghèo lại dễ sinh lười biếng, siêng ăn nhác làm.
Nhìn bầy con phá gia chi tử nhà hắn mà phát ớn, đúng là con nhà giàu hay
mần,
con nhà bần hay ăn.
Con nhà giàu đẻ chợ Cày,
Con ăn mày đẻ chợ
Gát
1 - Chợ Cày (chợ thị trấn huyện
Thạch Hà) là chợ giàu, đẻ ở chợ Cày thì sướng; Chợ
Gát
(chợ Gát
là chợ của xã Thạch Minh, Thạch Hà) là chợ của dân nghèo, đẻ ở chợ
Gát
thì
nghèo khổ.
2 - Con người ta sướng khổ là do
hoàn cảnh xuất thân.
Con nít (trẻ con)
khun
(khôn) hơn ông vải (ông bà)
Trẻ con làm những việc quá tầm của
mình, có những hành động ranh ma hoặc hỗn láo, không khiêm tốn. Im
mồm (miệng) mà nghe, con nít đòi
khun
hơn ông vải.
Con nít (trẻ con) kẻ nậy (người
lớn)
Chỉ trẻ con, người lớn nói chung
.
Con nít kẻ nậy,
Chạy trốn
mất
mù
tăm,
Vô chùa truông ta đợi,
Tới
đến
lều ta đợi
KTVXN,
T.2,
Tr522
Con nít lộ (lỗ) đít có tinh
Còn ít tuổi mà đã ranh mãnh, tinh
tướng; biết nhiều chuyện của người lớn Đừng coi thường con nít thời
ni (nay),
con nít lỗ đít có tinh.
Con nít (trẻ con) mất long kẻ nậy
(người lớn)
Vì trẻ con mà làm người lớn hiểu
lầm, xích mích nhau.
Con nít (trẻ con) sướng khi ăn
giộ
(giỗ),
Tru (trâu) bò sướng khi sổ ràn
(xổng chuồng)
1- Trẻ con thích ăn, thích vui cho
nên sướng nhất là khi được ăn giỗ; trâu bò bị
nhốt nhiều,
nên sướng nhất là khi được sổng chuồng.
2 - Hạnh phúc nhất là khi được thỏa
mãn nhu cầu. Bựa
ni (hôm nay) cho chúng thoải
mái, con nít sướng khi ăn giỗ, tru
bò sướng khi sổ ràn.
Con nỏ (không) chê cha mẹ khó, chó
nỏ chê chủ nghèo
Đạo lý trong quan hệ ứng xử giữa
con cái với cha mẹ, tớ với chủ: những quan hệ này / không phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế. Cha ông đã dạy: con nỏ chê cha mẹ khó chó
nỏ chê chủ nghèo, nhưng thật tốt phúc mới được như
rứa
(vậy).
Con nối cha
mần
(làm) ra nổi ngọn
(Nổi ngọn: nổi trội lên, đạt những
thành tích, thành tựu lớn) Thế hệ sau kế tục và
phát huy sự nghiệp của thế hệ
trước. Cha con nhà
nớ đáng mặt ở cái
đất
ni: con
nối
cha mần
ra nổi ngọn.
Con ơi nghe lấy lời cha,
Mồng năm tháng chin thật là bạo
(bão) rươi
Bão rươi đúng vào ngày mồng năm
tháng chín.
Con rô cụng (cũng) tiếc,
Con
diếc
cụng (cũng) muốn
Chỉ hạng người tham lam, cái gì
cũng muốn vơ về cho mình. Cái loại con rô cũng tiếc con
diếc
cũng muốn, có trừa
(chừa) chi cho ai.
Con so về nhà mạ (mẹ),
Con rạ về nhà chồng
Một số địa phương có tục con gái đi
lấy chồng, khi sinh con so thì về sinh ở nhà cha mẹ, hết thời gian ở cữ
thì mới đưa con về nhà chồng, ngược lại sinh con rạ thì ở nhà bên chồng.
Con so ba tháng mười ngày,
con rạ một tháng đôi ngày cụng (cũng) nên
Thời hạn vợ chồng có thể gần gũi nhau sau khi
sinh nở.
Con trong lừ (lờ) đỏ hoe con mắt,
Con ngoài lừ ngút ngoắt muốn vô
(vào)
(Lờ là loại dụng cụ đánh cá như cái
lồng hình trụ, đan mắt cáo, hai đầu đặt hom. Khi bẫy cá, người ta đặt lờ
xuống nước, cá đã mắc vào lờ thì chui chỗ này chỗ khác đến mức đỏ hoe
mắt để tìm cách thoát ra, trong khi đó con ở ngoài lờ chưa biết đó là
cạm bẫy thì hớn
hở (ngút ngoắt đuôi) muốn tìm cách
chui vào). Chuyện đời kẻ lâm nạn thì hối không kịp, kẻ chưa lâm
nạn lại hồn nhiên vô tư lao vào cạm bẫy. Cái chuyện vô, ra hợp tác xã
trước đây hay thật con trong lờ đỏ hoe con mắt, con ngoài lờ ngút ngoắt
muốn vô.
Con tru (trâu) còn sắm được
nựa
(nữa) là chạc mụi
(dây thừng)
Cái lớn lao, cái phần chính yếu còn
đủ sức mua thì không có lí gì lại không mua nổi
nhữg
thứ phụ trợ, lặt vặt.
Con tru (trâu) không tiếc, đi tiếc
chạc
mụi
(dây thừng)
Chỉ những kẻ thiển cận, tiết kiệm
không phải lối, đã bỏ ra vốn lớn làm ăn mà lại tiếc những thứ nhỏ nhặt
khiến cho công việc không trôi chảy. Chẳng ai như chú, con tru không
tiếc lại đi tiếc chạc
mụi,
mần
việc lớn răng (sao) được.
Còn
duyên
kén cá chọn canh; hết duyên ốc đực
cua kềnh cũng vơ
X.
Ba lọc bảy lừa mắc phải bừa rụng răng.
Giá trị của cái duyên đối với người
phụ nữ.
Còng lưng tối mắt
Chỉ cuộc sống quá gian truân, vất
vả.
Đào
Hạnh không biết
việc
Người thì lặt cứt, kẻ thì đi buôn .
Từ mai cho
đến
chiều hôm,
Tháng ngày
vất
vả nuôi con trưởng
thành.
Phải khi mưa gió
bất
bình,
Bỏ quê bỏ quán lên rừng xanh đào
mài.
Còng lưng
tối
mắt suốt
ngày,
Xa gần đều muôn
lấy
người làng tôi
KTCDXN,
T.2,
Tr.
29
Cổ cao ba ngấn, tóc quấn ba vòng
Theo nhân tướng học cổ truyền thì
đây là tướng quý của phụ nữ: Cổ cao tóc dài là người đẹp, hiền thục, có
hậu.
Cổ cao ba ngấn tóc quấn ba vòng,
Thắt đáy lưng ong, con dòng cháu
giống.
Tướng mệnh
khảo luận
Cổ cày vai bừa
Chỉ công việc lao động sản xuất tất
bật, vất vả của người nông dân. Mang
Tiếng
địa chủ, nhưng bố tôi cũng cổ cày vai bừa, có khi mô được nhàn hạ.
Công mô (đâu) mà tát nước bè,
Ná (nứa) mô đan đậu mà chè (rào)
vườn hoang
(Bè: gỗ, nứa
v.v.
được kết thành mãn, thường nổi lập lờ trên mặt nước nên luôn
luôn bị nước tràn) . Không
nên làm những việc vô ích.
Cột pheo, kèo nứa
ăn ở đơn sơ, tạm bợ.
Vào ra
mỏi
cúi (gối) chui lòn,
Cột pheo kèo nứa lại còn phên
thưng.
KTVXN,
T.9,
Tr.
278
Cột sắt
men
đồng
Giàu có sang trọng.
Nhà anh cột sát
mên
đồng,
Gương tàu mái bạc, em hòng chê chi.
Nhà anh cột sắt kèo tre,
Nên
vách nỏ (không) có phải che đùng đình.
Anh muốn
lấy
vợ cho xinh,
Đừng có nói dối thực tình là hơn.
KTCDXN,
T.
2, Tr
1 80
Cơm cá trích ních mấycụng (cũng)
không no
Cá trích thịt thơm bùi, ăn không
ngán cho nên ăn được nhiều cơm. Với người dân nghèo trước đây, cơm cá
trích đã là điều mơ ước. Đi cày mà ăn cơm cá trích thì ních mấy cũng
không no.
Cơm cày cá đó
1- Những thức tự túc sẵn cớ tạo nên
niềm hạnh phúc giản dị của người lao động. Ai mâm cao
cộ
(cỗ) đầy
mặc họ, anh em mình cứ cơm cày cá
đó như ri (thế)
này) kể
cũng sướng chán.
Cơm chín tới, cải vồng non,
Gái một con, gà mái ghẹ
Những thứ vừa đến độ hấp dẫn nhất.
Cơm gạo
môốc,
trôốc
(đầu) cá rô
(Cơm gạo mốc thì hôi, khó ăn;
đầu
cá rô toàn xương xẩu cứng không nhá nổi).
Chỉ cuộc
sống
quá ư kham khổ Sống như hắn còn khổ hơn đi tù , quanh ăn
cơm
gạo
môôc
trôốc
cá rô.
Cơm gạo trú, mắm hôi
Ăn uống kham khổ, cuộc sống vất vả
gian nan.
Lớp sau đi cũng tới,
Đều nghỉ lại một nơi.
Cơm gạo trú, mắm hôi,
Bốn người chung một
vựa.
KTVXN,
T.9,
Tr286
Cơm gói trù (trầu) khăn
(Trù khăn: trầu têm sẵn và buộc vào
chéo khăn vấn ngang lưng). Chuẩn bị chu đáo để làm một việc gì đó.
Bạn phường ta thức dậy,
Cơm gói với trù khăn.
Ta hãy đi dần dần,
Vô chùa
truông
ta đợi,
Tới cầu lêu ta đợi.
KTVXN,
T.2,
Tr.552
Cơm ló (lúa) lốc,
Trôốc (đầu) cá thèn,
Đèn dầu tây
Mây chợ Dùng,
Mủng chợ Găng,
Măng chợ Cồn
Ngày trước, các đặc sản này được
xem là tốt hơn các thứ cùng loại.
Cơm mô (đâu) cho đầy bụng chó,
Ló mô (đâu) cho
đầy
niều
(diều) ga (gà)
X.
Cơm mô (đâu) no chó,
Ló (lúa) mô no ga (gà).
Cơm mô (đâu) no chó,
Ló (lúa) mô no ga (gà)
1 - Chó và gà nhà nông chỉ nuôi
theo kiểu tự nhiên, ăn những sản phẩm phế thải của con người. Khi có cho
ăn cơm, ăn lúa chúng ăn rất khỏe. Cuộc sống kham khổ, người đói thì vật
nuôi cũng không có ăn.
2 - Không nên quá lãng phí cơm gạo
mà phải để cho vật tự đi kiếm ăn. Cho chúng ăn vừa vừa thôi,
có
mô no chó,
ló
mô no ga.
Cơm nhà trù
đạy
Phải tự lo liệu mọi thứ, không ai
lo thay cho mình.
Cơm sôi bớt lửa,
gấy
(gái, vợ) chửa bớt đòn
Cơm sôi bớt lửa thì sẽ tránh được
khê vợ có chửa giảm bớt việc đánh đập để không
ảnh hưởng đến thai nhi. Nó đang
có mang, mi (mày) có giận mấy cũng phải nhớ
câu: cơm sôi bớt lửa,
gấy
chửa bót đòn.
Cơm sôi đừng cho đàn ông độ, ló
(lúa) lổ
(trổ) đừng cho đàn bà thăm
(Độ:
chắt
nước cơm). Đàn ông vụng về,
chắt nước không khéo cơm dễ
sống hoặc khê. Người xưa kiêng không cho đàn bà đi thăm khi lúa trổ, vì
họ quan niệm lúa trổ cần hấp thụ tinh hoa trời đất mà người phụ nữ thì
không được tinh khiết sạch sẽ. Việc chi cũng phải
mần
cho đúng cách: cơm sôi đừng cho đàn
ông độ, lúa lổ
đừng cho đàn bà thăm.
Cơm sôi thì tốc lửa
vào
Chồng
giận thì nhảy giường
cao mà ngồi.
Nói ngược: Ý nói cơm sôi thì bớt
lửa kẻo trào hết ra ngoài; chồng nóng giận thì
cố tránh đi, đừng trêu ngươi mà no
đòn.
Cơm tấm ăn với cá rô,
Sao em phụ bạc lấy dùi gồ (vồ) đập
chôông
(chồng)
Trách người phụ nữ không biết giữ
gìn sự êm ấm trong gia đình, lăng loàn, trắc nết làm những điều vô đạo.
Cơm trắng mà khê. Người con gái xinh đẹp, trong trắng, thảo hiền nhưng
duyên phận lại hẩm hiu.
Tiếc
nồi cơm trắng mà khê,
Tiếc
con người lịch mà về tay ai
KTCDXN,
T.2,
Tr.
129
Con
(cây) cỏ héo gặp trộ (trận)
mưa
rào
1 - Người gặp vận may.
2 - Sự thỏa thuê, sung sướng khi
đạt được những điều khao khát từ lâu.
May mô may, khéo mô khéo,
Cơn cỏ héo gặp trộ mưa rào,
Mối tình duyên
hội ngộ,
Liễu với đào ta kháp nhau.
KTCDXN ,
T. 1 ,
Tr. 327
Cơn (cây)
có cội (gốc), sông có nguồn
Khuyên con người luôn ý thức về nguồn cội.
Con người có tổ có tông,
Như cơn có cội như sông có nguồn.
KTCDXN,
T.2,
Tr.
209
Cơn khô không lộc, ngài (người) độc
không con
Cây khô thì không thể đâm chồi, nẩy
lộc; người độc ác thì không thể có con (lời rủa đối với những người phụ
nữ tính tình độc ác).
Cơn (cây) tốt một chồi
Khi lấy chồng, người con gái nên
tránh những gia đình con một. Những nơi đó dù khá giả nhưng gia cảnh
thường neo đơn, trơ trọi khó lòng nương tựa lâu dài.
Tham chi cơn tốt một chồi,
Đến
khi
cơn đổ
biết
đứng ngồi vô mô.
Ca dao
Cơn Trang
Nu,
đập tru mà chạy
(Trang
Nu
ở Diễn Châu) . Kinh nghiệm xem thời tiết của dân địa phương.
Cu cu (cu gáy) không gáy
Không thỏa mãn trong tình duyên.
Công anh chẻ ná (nứa) đan lồng,
Cu cu không gáy, anh cực lòng lắm thay.
Ví phường cau
Cu cu (cu gáy) ra ràng
Sự trưởng thành, đã có khả
năng tự lập.
Hết hè rồi lại
qua sang thu,
Chờ lâu không
chộ (thấy) cu cu ra ràng.
Cú đâu dám sánh phượng hoàng; Trùn (giun) đâu
lại dám nằm ngang trên rồng. Không thể xảy ra chuyện ngược đời; những kẻ
thấp hèn, tầm thường không thể sánh cùng hoặc vượt lên trên những bậc
xuất chúng.
Cú kêu ma ăn
X. Cú kêu
cú mắc vạ, ma ăn ai dám nhìn,
Cốc mò cò xơi
Người này làm, người khác hưởng.
Cú kêu ma xực (ăn)
X. Cú kêu ma
ăn
Bát Kinh xơi một vố,
Đội Kép có ít nhiều
Phần Nầy Thiếu
nói của không ngon nhà nhiều con cũng hết sao
?
Của lồn (tục) lồn nhắc, của
cặc (tục)
cặc
quên
X. Cả đời
thì ăn của chồng,
mới được một
đồng đã đòi ăn riêng.
Đàn bà thường hẹp lượng, chi li, cái gì nhỏ
nhặt nhất cũng nhớ để đòi lại; còn đàn
ông không hay để
ý những cái vặt vãnh mà thường phóng khoáng,
rộng lượng.
Thói đời rõ hay, của 1ồn (tục) lồn nhắc, của
cặc
(tục) cặc
quên".
Của mình thì
giự (giữ) bo bo;
Của người thì muốn ngả mo mà đùm (gói)
Của người thì thả cho bò nó ăn.
(Mo: bẹ cau già rụng xuống, thường dùng để gói cơm hoặc thức ăn). Chỉ
hạng ích kỷ, keo kiệt, giữ riệt của mình,
muốn dùng của
người. Cái hạng người của mình thì
giự bo bo; của
người thì muốn ngả mo mà đùm, chơi với nó bị nó rút ruột có ngày.
Của như của Cửu
Thọa
Giàu Bát Xu không bằng cái lộ khu (lỗ đít) Cửu
Thọa;
To như mả cha Cửu
Thọa.
Cửu Thọa
là tên một địa chủ có tiếng giàu có ở Thạch Hà, Hà
Tĩnh trước cải
cách ruộng đất. Cửu Thọa
giàu đến nỗi không biết mình có bao nhiêu mẫu ruộng, không biết hết
người ăn kẻ ở trong nhà. Ăn như cha con nhà bay (chúng mày) thì
đến
của như của Cửu
Thọa cũng nỏ
(không)
mấy tí mà hết.
Cục phân
cân ló
(lúa)
Đề cao vai trò của phân bón trong việc trồng
lúa
Đừng có phí phạm để rơi vãi thế này, cục phân cân ló con ơi
.
Củi kẻ Sàng, vàng Đông Tháp
Kẻ Sàng (Yên Thành), Đông Tháp (xã Diễn Hồng,
Diễn Châu, Nghệ An) - dân
Đông Tháp phần lớn buôn bán, chạy chợ.
Cúi khỏi lọi (gãy) lưng
1 - Cúi lưng
qua cho khỏi vật cản thì có khi đã gãy lưng.
2 - Cái giá phải trả cho sự luồn cúi, nịnh bợ.
Chạy cửa ấy dễ cúi khỏi lọi lưng.
Cùn như chủi
(chổi) tùa
(Chổi tùa:
chổi làm bằng rơm dùng
để quét cối xay, cối giã gạo, do dùng thường
Xuyên nên chóng mòn) .
1 - Rất
cùn,
cùn trơ sát gốc.
2 - Nghèo khó sa sút một cách thảm hại. Hắn
mần
ăn kiểu chi nỏ
biết mà chộ
(thấy)
Càng ngày càng cùn như
chủi tùa.
Cuốc cùn
sánh với thuổng cùn
Sự hợp
duyên phận của những người nghèo
đói với nhau.
Cuốc cùn sánh
với thuổng cùn,
Cái o thấp thấp bên
nớ (ấy)
thì lấy chú lùn lùn bên ni (này).
KTCDXN ,
T. 1 ,
Tr 2 2
8
Cuông (công)
bỏ rú (núi), rồng bỏ mưa
1 - Bị rơi vào cảnh ngộ không còn đất sống.
2 - Buộc phải na bỏ nơi thâần thiết gắn bó máu
thịt với mình vì một lý do nào đó .
Ai làm cho vịt bỏ đồng,
Cho cuông
bỏ rú, cho rồng bỏ mưa
KTCDXN,
T. 1 ,
Tr 220
Cưa Chân Phúc, đục Tràng Thân
Chân Phúc nay thuộc huyện Nghi Lộc và Tràng
Thân nay thuộc xã Diễn Phúc, Diễn Châu, Nghệ An. Đây là hai nơi có nghề
mộc rất nổi tiếng.
Cái cưa Chân Phúc,
Cái (đục) Tràng Thân.
Muôn làm nhà ngói sa chân đi tìm .
KTCDXN,
T. 1 ,
Tr. 146
Cưa ván đóng thùng
Chuẩn bị chu đáo việc cưới hỏi.
Anh về
cưa ván đóng thùng,
Mua nem nấu rưa
cho
em chung một
nồi.
KTCDXN,
T. 1 ,
Tr223
Cửa Hội khó vào, Cửa Trào khó ra
Theo Bùi Dương Lịch, Cửa Hội chính tên là Hội
Thống. Cửa Hội (Hội Hải) ở giáp hai huyện Nghi Xuân và Chân Phúc. Nước
sông Lam chảy ra cửa này, do các sông khác đổ vào, nguồn xa, đường dài.
Nước triều mặn dâng lên rất gần. Đảo Song Ngư đứng sừng
sững ở cửa biển, thuyền ra vào gặp nhau khó
khăn. Vì thế ngạn ngữ có câu: Cửa Hội khó vào, Cửa Trào khó ra (Cửa Trào
tức là Lạch Trào ở Thanh Hoá, cũng gọi là cửa Hội rào. Cửa này sâu hẹp,
quanh co, vì thế dân địa phương quen gọi là cửa dễ vào - khó ra. Lê
Thánh Tông tuần thú phương Nam có thơ vịnh cửa Đan Nhai (là tên khác của
Cửa Hội, ngày nay ở địa phương còn có những địa danh Đan Hoàng, Đan Hải,
Đan Phổ,...)
Đến Nghệ Cửa Hội khó vào,
Ra Thanh mắc phải Cửa Trào khó ra.
Ví phường buôn
Cười chảy nác
(nước) mắt, nhắt nác
(nước) đấy
Cười liên tục đến mức trào nước mắt són cả
nước tiểu.
Có chuyện chi mà hắn
cười chảy
nác
mắt, nhắt nác
đấy rứa
hè (thế nhỉ)
Cười đó khóc đó
Hạnh phúc, may mắn đi liền với rủi ro, tai
họa.
Sớm mưa, trưa nắng, chiều nồm,
Cười đó khóc đó một mồm mà ra .
Ví phương cấy
Cười hở mười
cái răng
Chê cười người ta thì mình cũng chẳng tốt lành
gì.
Cười gì mà cười, cười hở mười cái răng.
Cười lắm khóc lắm
Sung sướng bao nhiêu thì đau khổ bấy nhiêu.
Mi cứ cười đi, cười lắm khóc lắm con ạ.
Cười ngoác miệng ra mang tai
X. Cười
toét mồm.
Cười nhe nanh
Cười lộ cả răng nanh, trông đáng sợ. Trông
nó như con quỷ gặp ai cũng cười nhe nanh.
Cười như bò đấy (đái) tấm tôn
Cười to, thành tràng dài, tiếng rổn rảng; cái
cười vô duyên vô lối của những kẻ nông nổi.
Mấy thằng vô
công rổi
nghề, xúm nhau uống rượu vặt rồi cười như
bò đấy
tấm tôn
.
Cười như đười
ươi nắm ống
(Dân sơn tràng kể: đi rừng phải chuẩn bị sẵn
hai cái ống tre, gặp đười ươi phải xỏ hai
tay vào hai cái ống tre để cho nó nắm, đến khi
nó nhắm mắt lại cười thì cứ việc rút tay ra khỏi ống tre mà đi) Cười
ngây ngất, chẳng biết gì đến xung quanh. Người đâu mà ngây ngô quá
thể hễ gặp nhau là cứ cười như đười
ưu nắm ống.
Cười như gụ (gấu)
say mật (ong)
Cười tít cả mắt, lăn ra mà cười Cái thằng
thật vô duyên, nỏ (chẳng) có chuyện chi mà cũng cười như gụ say mật.
Cười như khỉ được mùa ngô
Cười một cách sung sướng, thỏa mãn. Mua
được chiếc xe máy cộ
(cũ), nó cười như khỉ được mùa ngô.
Cười như mụ tra (bà già) được
mấn (váy) mới
Cười một cách rạng rỡ, mãn nguyện. Lấy ảnh
về rồi
thỉnh thoảng hắn đem
ra nhìn, nỏ
biết
răng (không
biết làm sao)
mà cười nhại
mụ tra được
mấn mới.
Cười như nghé
(Câu mắng). Cười
không thành
tiếng, cười một cách
ngờ nghệch. Hắn
suốt
ngày cười như
nghé chớ (chứ) lại
(không) biết
mần
(làm) chi (gì) mô (đâu) .
Cười như người phát dại
Cười một cách điên
dại , trông
rất dáng sợ. Chẳng
biết ả ta bị
bệnh chi mà cười như người phát
dại.
Cười như tru hít 1ồn.
Cái cười đắc chí, thỏa thuê của kẻ tầm thường.
Cười
chi (gì) mà cười như tru
hít lồn.
Cười như Vện
Cớt
(Vện Cớt:
tên người đàn bà ở xã Khố Nội, Can Lộc, Hà
Tĩnh, nổi
tiếng đần độn). Cười một cách ngây dại. Nói thánh nói tướng, tưởng
hắn lấy được tiên, ra đều (hoá ra) rước
về một ả tối ngày cười như Vện
Cớt.
Cười re ré
như chó xé dẻ lụa.
Ré lên cười
từng hồi lien thanh như phát rồ. Con
gấy (gái) con
gớm chi
(gì) mà cười re ré
như chó xé dẻ lụa .
Cười sặc đờm
Cười đến mức
phát ho, sặc đờm. Bựa ni (hôm nay)
tau được
bựa (bận) cười
sặc đờm.
Cười sắt (thắt)
rọt (ruột),
tọt (tuột) địt
(rắm)
Cười đến mức quặn cả ruột, bụng bị ép xịt cả
rắm. Tui (tôi) coi (xem) chương trình
Gala cười mà
cười đến
sắt rọt,
tọt địt.
Cười toét mồm
Ngoác miệng ra mà cười. Cái thứ đàn bà gặp
đâu cũng toét mồm ra cười thì ma nó lấy.
Cười trớt lợi
Cười phơi cả lợi ra trông rất xấu Con
gấy
(gái) con gúng
chi (gì) mà gặp cũng trớt lợi ra cười
.
Cười tươi như hoa kít (cứt) lợn
(Hoa cứt lợn: một loại cỏ dại thường mọc nơi
vườn hoang, hoa màu vàng úa, trông rất xấu). Nụ cười gượng, trông héo
hon, nhợt nhạt (cách nói ngược). Bựa
ni (hôm nay), bị
gấy (vợ) nạt
hay sao mà cười
tươi như hoa
kít lợn
rứa?
Cười xười
(chảy, nhểu) nác
méng
(nước dãi)
Cười liên tục, cười ngặt nghẽo đến mức chảy
nước dãi. Đồ vô duyên, cười chi mà cười
xười cả
nác
méng.
Cười bá ngành
dâu
Đã bị ràng buộc, không còn khả năng tự chủ, tự
quyết. Đã yên bề gia thất, có nơi có chốn.
Anh thương em
không nói từ đầu
Bây giờ cười
bá ngành dâu đi rồi.
KTCDXN,
T. 1 ,
Tr 222
Cưới vợ không cheo, như kèo không chết
Con
Cưới vợ không cheo như cù ngoèo không
mấu;
Cưới vợ không cheo mười heo cũng mất;
Cưới vợ
không cheo tiền gieo xuống bể.
(Cheo: xưa cưới vợ,
nhà trai phải
nạp cho làng cô dâu một khoản Tiền gọi
là Tiền cheo; kèo: nhà làm bằng tre nứa, kèo nhà
được làm bằng
hai đoạn tre kẹp
vào đầu cột và được
chết bằng con
xỏ để khỏi bị bật ra). Cưới vợ mà không
nạp Tiền cheo thì rất dễ trục trặc
vì chưa có một sự rang buộc chắc chắn của cộng
đồng.
Cưới vợ tháng hè, bò
què tháng sáu
Bò què tháng sáu đúng vào vụ mùa, việc đồng
áng sẽ bị ngưng trệ. Cưới vợ tháng họ
cũng gặp những hạn chế như vậy.
Cứt bại chó bầy
X. Kít bại
chó bầy.
Cứt cối xay
1- Gạo (cách nói hài hước).
2- Bình thường, không có gì cao sang. Tưởng
tà thánh thần chi, ra đều (hoá ra) cũng ăn cứt
cối xay cả
thôi.
Cứt ga (gà) một nơi bỏ mun (tro) một
chộ (chỗ)
Hành động không chính xác; làm việc thiếu cẩn
thận; tinh thần loáng quáng, không tỉnh táo. Con với cái, sai làm
việc gì cũng cứt
ga một nơi, bỏ mun một
chộ.
Cứt ga (gà) một lộ (chỗ), bỏ mun (tro) khắp
nơi
1 - Luộm thuộm, cẩu thả, làm việc này mà hại
đến nhiều việc, nhiều người khác. Có việc chi mà nhờ lão ấy làm thì
buột
chạc
(tuột dây buộc, hỏng việc), lão thì cứ cứt ga một chỗ
bỏ mun khắp nơi.
2 – Tung hỏa mù, khiến cho đối phương hoảng
sợ, mất phương hướng; trương thế lực giây dấu vào nhiều nơi để chiếm
đoạt được nhiều lợi lộc. Cái hạng
cả ga một lộ,
bỏ mun khắp nơi, dây với hắn chỉ có thiệt.
Cứt một bại (bãi) chó cả bầy
Quyền lợi ít, kẻ tranh giành nhiều Thôi,
dẹp quách đi, thầu với thiếc chi (gì), cứt một bại chó cả bầy, tranh mô
nổi.
Cứt trong bụng thì
thối (thối),
cứt
trục cúi (đầu gối) thì thơm
X. Kít người
thì thúi,
kít trục cúi thì thơm;
Cứt con người thì thối thì tanh,
cứt con mình nấu canh cũng ngọt.
Con mình thì dù có mất vệ sinh bao nhiêu cũng
chăm sóc chu đáo không nề hà, con người ta thì ngại bẩn. Của mình bao
giờ cũng cho là tốt, của người khác thì trái lại.
D
Da bùng
bụng báng
Người bị
sết rét kinh
niên nên
da vàng úng nước, gan
lách to khiến
bụng trương cứng
lên.
Lên Ngàn Sâu, Ngàn Phố,
Đi chặt ná (nứa)
phá cây.
Ốm da bủng, bụng
báng,
Gấy (vợ) chạy thuốc
chạy thầy
Vè đi bè
Da đen khu
(mông, đít) đỏ
lắm ló (lúa) lắm tiền
1 - Tướng người giàu.
2 - Những
người siêng năng lao
động,
da thịt rắn rỏi, thường có màu đen hoặc đỏ hồng, nên lắm ló, lắm tiền.
Những người ít lao động thì ít ló, ít t tiền, dễ trở thành gánh nặng cho
gia đình nhưng da thịt thường trắng trẻo .
Da đen khu đỏ lắm ló lắm
tiền,
Da trắng khu trắng chỉ phiền vợ con
Ca dao
Da đen như
côộc (gốc)
muồng cháy
Da rất đen.
Suốt ngày phơi
nắng, da nó đen như côộc muồng
cháy.
Da đen nỏ (không) mối mọt, da trắng rọt
(ruột) thâm kim
(Thâm kim: cà muối bị hỏng, thâm lấm tấm như
kim châm). Hình thức bên ngoài tuy xấu nhưng bản chất lại bền chắc.
Ngược lại hình thức bên ngoài dễ coi nhưng bản chất bên
trong mềm yếu, dễ bị hư hỏng.
Da đen nỏ mối mọt,
Da tráng rọt
thâm kim.
Anh đây chắc như
côộc lim.
Đông, tây, nam, bắc em tìm mô ra.
Hát phường vải Tràng Lưu
Da đen thui thui như thép trui (tôi)
nác (nước)
mói
(muối)
Da rất đen, đen như bị cháy và có màu xỉ như
thép trui. Da hắn đen thui thui như thép trui
nác mói.
Da
như đọt chuối non
Nước da (phụ nữ hoặc trẻ con) trắng mịn.
Da em như đọt
chuối
non,
Lưng
em thắt đáy như con tò vò
KTCDXN,
T.
1 , Tr266
Dạ trước mặt trật
cặc
(tục) sau lưng
Sự tráo trở quay quắt của hạng
người lưu manh phản phúc. Nghe chi thằng dẻo mỏ, dạ trước mặt trật
cặc
sau lưng.
Dai như đỉa đói
Đỉa đói cắn lâu, bám dai, hút máu
căng tròn vẫn chưa chịu nhả. Chỉ loại người quá kiên trì, quá dai dẳng
nhằm đạt được điều có lợi. Thêm có hai thước
đất
vườn mà hắn bám địa chính xã dai như đỉa đói, xin bằng được mới thôi.
Dán vô 1ồn (tục) mèo
Làm việc sơ sài, tắc trách, làm đâu
hỏng đấy. Săm với
lốp vá như ri (thế này) thì
có chết người ta không, rõ là dán vô 1ồn mèo.
Dao vàng lắt (cắt) rọt
(ruột) tằm rơi
Hành vi ứng xử dù trân trọng đến
đâu cũng không xoa dịu được sự mất mát, đau xót.
Dao vàng lát
lọt
tằm rơi,
Không đau, không xót bằng
lời
em than.
KTCDXN,
T.
1 , Tr.
266
Dao vàng tiện
đốt
mía mưng
(Mía mưng: một loại mía thân to,
đốt
ngắn, ăn mềm và ngọt). Hành vi ứng xử đầy trân trọng đối với người khác
Dao vàng tiện
đốt
mía
mưng,
Ta chưa quên bạn, bạn đừng quên ta.
KTCDXN,
T.
1 , Tr.
267
Dáy
(dạy) đị xăn (vén) mấn (váy)
X.
Bày cho tiến sị (sĩ) viết văn,
Bày chó tra (già) liếm cối
1- Đòi chỉ dẫn cái việc mà người ta
thành thạo hơn mình cho nên đâm ra lố bịch. Việc
nớ
(ấy) thì hắn phải làm thầy mi. Đừng có
dạy
đị
xăn
mấn
.
Dặn cun cút trở mỏ đa đa.
Cun cút và đa đa là hai loại chim
khác nhau. Căn dặn một đằng làm một nẻo, làm
hỏng việc. Chỉ con cái hư hỏng
không biết nghe lời cha mẹ.
Dậm (đầm) cội (gốc) cho bền
(Dậm: dùng chân
dận
xuống, đầm đất bằng chân). Vun gốc
dày, đầm cội chắc
thì bền cây; giữ đạo nhà cho vững
thì bền nghĩa nhân.
Chàng về dậm cội cho bền,
Gió rung mặc gió em không quên
nghĩa chàng.
KTCDXN, T. 1 , tr. 255
Dân chợ Cày vắt mỏ trày (chày) lấy
nác (nước)
(Chợ Cày: chợ thị trấn huyện Thạch
Hà; mỏ trày: mõm chày ; nác : nước) . Dân vùng này có tiếng keo
kiệt bủn xỉn.
Dân ngu khu (đít) đen
Dân nghèo, ít học, lam lũ (cách nói
khinh miệt của tầng lớp trên hoặc cách nói tự ti của tầng lớp dưới).
Bầy tui (chúng tôi) là hạng dân ngu
khu đen biết gì mà nói.
Dần tảng sáng, mạo rạng
ngày
Dần, mạo (giờ dần, giờ mạo): người
xưa chia một ngày đêm ra mười hai giờ (thập nhị chi) là: tý, sửu, dần
mão, thìn, tỵ, ngọ, vị, thân, dậu, tuất, hợi. Giờ dần tương đương khoảng
từ 3 giờ 30 đến 5giờ 30, giờ mạo tương đương khoảng từ 5 giờ 30 đến 7giờ
30).
Khả năng tri nhận của dân gian về
các thời điểm vận động của không gian vũ trụ trong quá trình chuyển
tiếp.
Nhít (nhất) vui dận đám (đưa ma) cố
Lớn
Mắc cơn mưa rào,
Phải hoạn (hoãn) lại bựa (bữa) sau,
Giờ dần tảng sáng,
Giờ mão rạng ngày,
Con cháu sum vầy,
Khóc ôông
bà hỡi.
Minh tinh đi trước,
Bình thủy đi sau,
Cổ bồng cao đi chính trửa (giữa)...
Dẻo béng (bánh) ăn chung,
Bể vung mình phải
X. Béng (bánh) khéo không ai
khen,
Cháy seng (xanh) mình phải vạ.
Làm ra sản phẩm thì mọi người cùng
hưởng, nhưng xảy ra sự cố, tai nạn thì người trực tiếp làm phải gánh vác
một mình.
Diều reo thì nắng, sáo tắm thì mưa
Kinh nghiệm dự báo thời tiết trong
dân gian.
Dóng xa triêng
(Dóng: quang, triêng: gánh, đòn
gánh) Sự chia lìa của những cái đáng lẽ phải gắn bó với
nhau.
Vì ai dóng phải xa triêng,
Vì ai em phải sầu riêng một mình.
KTCDXN, T. 1 , tr.43 3
Dồn điền đổi thửa mới hòng (mong)
bựa (bữa) cơm no
Ruộng đất thửa nhỏ manh mún, dồn
lại thành thửa lớn phù hợp với việc áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ
thuật và điều kiện canh tác mới, năng suất cây trồng mới được tăng lên.
Dốt nát như bùn
Dốt đến mức làm việc gì cũng sai,
cũng hỏng.
Toán pháp thầy dạy vài hàng,
Để con ngược huyện kiếm trường cho
khun (khôn)
Nỏ hay dốt nát như bùn,
Không khun hoá dại.
KTVXN, T.2, tr.l02
Dốt như me lặt (bê thiến)
Bất cứ con đực nếu bị thiến sớm
cũng đần. Kẻ quá dốt nát. Nó học dốt như me lặt, sau ni (này) nỏ
(không) biết rồi mần (làm) được việc chi (gì)
Dợ (dỡ) nhà người ta về mần (làm)
truồng (chuồng) lợn
Chỉ hạng người ngang ngược, tham
tàn một cách quá đáng, vì lợi ích cá nhân, sẵn sàng xâm hại tài sản
người khác cho những mục đích tầm thường của mình. Anh đừng có quá
thể, muốn dợ nhà người ta về mần truồng lợn hay sao?
Du (dâu) chợ Sò, bò chợ Si
(Chợ Sò và chợ Si đều thuộc Diễn
Châu). Chọn dâu và chọn bò ở hai nơi
này dễ được như ý.
Du (dâu) là kế thế, rể là người
dưng
Con dâu làm nhiệm vụ sinh con đẻ
cái nối dòng và giữ gìn gia đạo, còn rể chỉ là người dưng, không máu mủ
ruột rà, không có quan hệ đến nghiệp nhà (quan niệm phong kiến). Cái
nhà ấy trọng du hơn rể là khun (khôn) đấy, du là
kế thế
rể là người dưng.
Du (dâu) là rệ (rễ), rể là khách
X. Du là kế thế rể là người dưng.
Con dâu được coi như cội rễ của gia
đình, nghiệp nhà có vững có phát triển hay không là cốt ở con dâu, chứ
rể tuy được trọng vọng (khách) nhưng chỉ là người ngoài. Bà trọng rể
như khách nhưng đừng quên rằng con
du mới là cội rệ.
Du (dâu) mới đừng nấu rượu hạt ngô,
Ở rể chớ phát cơn (cây) bên đàng
(đường)
Rượu hạt ngô khó nấu, dễ bị khê;
phát cây bên đường nhiều người qua lại, nếu có động tác nào đó vụng về
dễ bị búa rìu dư luận. Đó là hai việc khó làm được tốt, do đó cô dâu mới
cũng như chàng rể mới nên tránh.
Dù ai như cú như ma,
Về đất Đồng Lộ cụng (cũng) ra con
ngài;
Dù ai béo bạo như voi,
Về đất Ngo Trọt cụng (cũng) lòi
xương ra
Đồng Lộ và Ngo Trọt là hai địa
phương thuộc huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. Đồng Lộ thì giàu có, trù phú gạo
trắng nước trong, thong dong con người; Ngo Trọt nước mặn đồng chua,
nghèo đói, con người cằn cỗi lam lũ.
Dù trong cụng (cũng) chỉ nác đôồng
(nước đồng),
Dù đục cụng (cũng) nác mụi (mũi)
Rồng chảy ra
(Mũi Rồng: tên một khe nước vùng
núi huyện Thạch Hà). Sự quý trọng sang hèn, giỏi dốt của con người tuỳ
thuộc vào cội nguồn, gốc gác.
Dui (dùi) nồi mà hàn
Việc làm ngớ ngẩn của kẻ vô công
rỗi nghề, không có duyên cớ gì cũng sinh sự để mất công giải quyết.
Chẳng ai như mi (mày), khi không dui nồi mà hàn.
Dư tiền đủ ló (lúa)
Chỉ cuộc sống khá giả về vật chất
của người nông dân.
Dư Tiền đủ ló,
Bụng không muốn làm giàu .
Như ý sở cầu,
Làm những điều công đức.
KTVXN, T. 1 , tr. 1 82
Đ
Đạ (đã) hèn thấy thịt bò đen chớ sờ
Thịt bò đối với người hèn yếu khó
tiêu.
Đạ (đã) quyết thì hành, đạ (đã) đan
thì lận
Quyết tâm làm xong việc, không bỏ
việc dở dang.
Đôi ta đã quyết thì hành,
Đã đan thì lận tròn vành thì thôi
KTCDXN , T. 1 , tr. 288
Đạ
(đã) quyết thì liều
X. Đã quyết thì hành, đã đan thì
lận.
X. Đôi ta đã quyết thì liều,
Gẫm như con trẻ chơi diều đứt dây
KTCDXN , T. 1 , tr. 287
Đạ (đã) yêu thì yêu cho chắc;
Đạ (đã) trục trặc thì trục trặc cho
luôn
Yêu cần phải có thái độ yêu ghét
dứt khoát, rõ ràng.
Đã yêu thì yêu cho chắc,
Đã trục trặc thì trục trặc cho
luôn.
Đừng như con thỏ đứng đầu truông,
Khi vui giỡn bóng, khi buồn giỡn
trăng.
KTCDXN, T. 1 , tr.272
Đại (đãi) cứt ga (gà) lấy tấm
Chỉ loại người bủn xỉn, keo kiệt
đến mức đê tiện. Cái loại người đãi cứt ga lấy tấm thì chơi với nó
làm gì?
Đàn bà lo khi sinh đẻ,
Đàn ông lo khi đi ẻ trời mưa
Đối với người phụ nữ, sự sinh đẻ
cực kỳ nguy hiểm, mặc dầu đó cũng là bản năng tự nhiên như việc đi ẻ
(ỉa) của người đàn ông. Nhưng đối với đàn ông việc đi ẻ là một việc dễ
chịu (buồn ỉa) còn đối với đàn bà, sinh đẻ là cả một sự đau đớn (đau như
đau đẻ) thậm
chí có thể nguy hiểm đến tính mệnh
(người chửa cửa mả) ấy vậy mà dân gian đưa hai nỗi lo đó ra so sánh với
nhau để châm biếm cái sự tào lao vớ vẫn của người đàn ông. Mày rõ vớ
vẫn, nỏ trách người
ta nói đàn bà lo khi sinh
đẻ, đàn ông lo khi đi ẻ trời mưa .
Đàn ông bán nhà, đàn bà bán lợn
Đàn ông giỏi tính toán những việc
lớn như bán nhà, đàn bà giỏi tính toán những việc nhỏ như bán lợn Trong
gia đình, mỗi người có một sở trường và vai trò khác nhau. Muốn đạt hiệu
quả tối đa, phải tùy việc để có sự phân công phù hợp.
Đàn ông trục cúi (đầu gối) mắt
giang,
Đàn bà lang nhang cẳng (chân) nhện
(Đầu
gối mắt giang: cẳng chân quá gầy
nên đầu gối lộ như mắt cây giang; lang nhang cẳng nhện: gầy, khẳng khiu)
. Hai kiểu người này có hoạt động sinh lý khoẻ. Trông lão xì
ke rứa
(thế)
chứ khoẻ lắm đó đàn ông trục cúi
mắt giang, đàn bà lang nhang cẳng nhện mà.
Đàng (đường) rẹ (rẽ) phân đôi
Sự chia phôi mỗi người một ngả
Ra về đàng rẽ phân đôi,
Gánh anh anh gánh, gánh tôi tôi
gồng.
Bao giờ nên vợ nên chồng,
Gánh anh tôi gánh, tôi gồng cho
anh.
KTCDXN, T. 1 , tr. 282
Đàng (đường) trơn đi cho chóng,
Cháo nóng húp lộn quanh
Đường trơn bước nhanh thì ít bị
chầy, cháo nóng húp vòng quanh mép bát (chỗ tỏa nhiệt nhanh nhất, đỡ
nóng) thì dễ ăn hơn.
Đàng trơn đi cho chóng,
Cháo nóng húp lộn quanh.
Sự lẹ (lẽ) đã rành rành,
Muốn cho kíp nỏ (không) thành,
Muốn cho chầy răng (sao) được,
Nỏ muốn chầy răng được?
(Vè cố Luyện)
Đánh giặc giự (giữ) vua, làm mùa
giự (giữ) giống
1 - Đánh giặc mà không giữ được vua
thì không có ai làm minh chủ trụ; làm mùa mà không giữ giống thì mùa sau
không thể sản xuất được.
2 - Làm cái gì cũng phải giữ được
cái gốc, giữ được cái vốn để phát triển về sau. Cố mà chọn lấy ít nếp
thơm
để dành mùa sau, đánh giặc giữ vua,
làm mùa giữ giống bà nó ạ.
Đánh đu với tinh có ngày ra tóp
Giao du với hạng người xấu hạng lưu
manh, ranh ma, độc ác thì có ngày mang họa vào thân. Tau
(tao)
nói cho mà biết mấy con mắt xanh mỏ
đỏ đó là yêu tTinh đấy, đánh đu với
Tinh có ngày ra tóp đó.
Đau như lấy gây (gai) mà lể
Đau nhói vì bị vật nhọn đâm vào
thịt đột ngột.
Nghĩ khi cất gánh,
Lấy nón đội đầu.
Trong lòng anh đau,
Bằng lấy gây mà lể.
K TVXN , T. 3 , tr. 485
Đặng Sơn người đẹp nước trong,
Dâu non xanh bại (bãi), tơ tằm vàng
sân
Đặng Sơn là địa danh hiện nay bao
gồm Đặng Sơn, Bắc Sơn, Nam Sơn thuộc huyện Đô Lương, Nghệ An. Con gái
vùng này xinh đẹp và có nghề truyền thống là nuôi tằm dệt vải.
Đắt chợ hơn béo lợn
1- Giá trị vật hạng tùy thuộc vào
phiên chợ (hiếm thì đắt, nhiều thì rẻ) hơn là giá trị tự thân của mặt
hàng.
2 - Ở đời, gặp thời, tốt số nhiều
khi còn hơn tài giỏi, có
năng lực. Học hành như
hắn
mà làm nên ông này bà lọ đúng là
đắt chợ hơn béo lợn.
Đắt như
quế, ế như gộ gỗ) sài tân
Quế là thứ cây có giá trị kinh tế
cao vì vỏ của nó chứa Tinh dầu thơm, dung làm dược liệu và sản xuất mỹ
phẩm nên bán rất đắt. Sài tân là thứ gỗ tạp chỉ để làm củi cho nên giá
bán rất rẻ. Đối sánh những sự vật có giá trị trái ngược nhau, hoặc cùng
một vật nhưng giá trị trái ngược ở những thời điểm khác nhau.
Khi đắt như quế,
Khi ế như gỗ sài tân.
Em đừng nghĩ xa gần,
Mà lòng em sao lãng.
KTVXN, T.3, tr. 423
Đắt chè hơn rẻ nác (nước)
Mua chè về tự nấu nước dù đắt vẫn còn rẻ hơn
là mua nước chè đã nấu. Mua nguyên liệu dù đắt còn hơn mua sản phẩm đã
được chế biến.
Đập đi hò đứng
Người kém cỏi về năng lực, suốt đời không bao
giờ chủ động làm việc gì chỉ nhất nhất làm theo sự chỉ dẫn của người
khác như than phận trâu ngựa. Con nớ có thằng chồng hiền như đất, đập
đi hò đứng.
Đất xấu vắt chẳng nên nồi
Không thể nên duyên chồng vợ, không thể cùng
chung sống với kẻ phàm phu, tục tử.
Bây giờ tôi về cùng anh,
Anh đập anh
đánh, anh tình phụ tôi.
Đất xấu vắt chẳng nên nồi.
Cho anh lấy vợ, cho tôi lấy chồng.
KTCDXN, T. 1 , tr.460
Đất làng Trù, tru Dao Tác
Làng Trù còn gọi là kẻ Trù tên Nôm của làng
Phù Lưu Hạ, nay thuộc xã Phù huyện Can Lộc, Hà Tĩnh là nơi đất đai màu
mỡ, trù phú. Dao Tác tên làng, nay thuộc thôn Đồng Tiến, xã Thuận Lộc,
thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh. Dao Tác là một làng cổ, trước còn tên gọi là
Nhà Dào. Thế kỷ
XIX thuộc xã Nguyệt Ao tổng Lai Thạch, huyện
La Sơn Sau này chuyển về huyện Can Lộc. Khi thành lập thị xã Hồng
Lĩnh (1991) thì
nhập về TX
Hồng Lĩnh. Trâu làng Dao Tác nổi tiếng khoẻ
mạnh chọi hay, cày giỏi; (Theo Bùi Thiết - TỪ ĐIỂN HÀ TĨNH - sở VHTT Hà
Tĩnh xuất bản năm 2000 - mục từ Kẻ Trù tr.317, Dao
Tác tr. 121) .
Đập bò bỏ bầy
1 - Tách ra một việc có 1ợi cho bản thân để
làm, bỏ mặc những việc liên đới khác trong phần trách nhiệm của mình.
Này, đừng quen thói đập bò bỏ bầy, việc dọn dẹp đống rác ni
(này, mi (mày) định đùn cho ai rứa
(thế) hả?
2 – Làm việc qua loa xong chuyện,
vô trách nhiệm, không cần biết kết quả ra sao. Anh thì cứ đẩy con đến
lớp rồi là phủi tay xong việc, khác chi đập bò bỏ bầy.
Đập phên xoi mọt
Kẻ hay bới móc, tìm kiếm từng khuyết điểm nhỏ
nhặt của người khác.
Đừng đập phên xoi mọt
Đừng vạch lá tìm sâu
Ai cũng dân đen đầu,
Chớ làm điều bạc dạ.
~
HGNT,
tr. 294
Đập tắn (rắn) bỏ dùi
Hành động không kiên quyết nửa vời, không có
hiệu quả. Không thể đập tắn nửa dùi được, phải làm cho ra môn ra
khoai thì hắn mới biết tay.
Đập toe (vỡ) tông đục
(Tông đục: cán đục thường làm bằng gỗ). Đập
mạnh và liên tục làm cán đục bị nứt, bị xé đến mức toè ra. Bựa ni
(hôm nay) uống mô (đâu) say tợn (dữ), về nhà hắn đập toe tông
đục.
Đầu cá xương mắm
X. Đầu cua mắt tre.
Đầu cua mắt tre Chỉ hạng người ương bướng,
ngang ngạnh, lì lợm, bất chấp tất cả. Xóm ta bựa ni (hôm nay), không
biết ở mô (đâu) kéo về một bọn đầu cua mắt tre, rồi lôi thôi với chúng
đó.
Đầu dây múi nhợ (rợ)
Chỗ quan trọng để thắt nút các quan hệ tình
cảm.
Đến đây hỏi thật một lời,
Đầu dây múi nhợ đã có ai rồi là chưa
?
KTCDXN, T. 1 , tr.280
Đầu gối Lèn, chận đạp
Câu Lèn Hai Vai (Diễn Minh) và hòn Câu tên chữ
là Câu Sơn (Diễn Hải) - là hai địa
danh thuộc huyện Diễn Châu Nghệ An. Khi chết,
các thầy địa lý trị huyệt đều lấy hướng đầu ở phía lèn Hai Vai, chân ở
giữa hòn Câu Dân trong vùng còn truyền tụng câu ca sau:
Đầu đội Lèn, chân đạp Câu,
Tứ đại công hầu, nhất đế vương.
Bao giờ thây chết đầy đường,
Câu sơn
đáo địa, Trần vương ra đời.
Đầu gúi (gối)
quá tai
Dáng ngồi rũ rượi của kẻ già yếu, ốm đau không
còn sức lực hoặc của kẻ lười biếng, ươn hèn, siêng ăn nhác làm.
Đầu gúi quá tai,
Niêu mết thì giận, niêu hai thì mừng.
KTCDXN, T.2, tr. 108
Đầu hôm suốt sáng
Liên tục, suốt đêm, không bị gián đoạn một lúc
nào. Bựa (hôm) qua không hiểu
răng (sao) mà mình thức đầu hôm suốt
sáng, khôông tài mô (nào) nhấp mắt được
Đầu má xương chó
(Má: chó) 1- Cùng một giuộc, một đồng một cốt.
Bố con nhà nó cũng là một đồ đầu má xương chó cả đấy
2 - Giả dối, lừa đảo. Cái thứ hàng nó đưa
đi tiếp thị là loại đầu má xương chó đó.
Đầu năm gặp nạn cháy nhà,
Cuối năm anh bạn Thạch Hà tới chơi
Cách nói ngoa để trêu dân Thạch Hà (Hà Tĩnh)
của người nơi khác. Họ cho rằng người Thạch Hà vốn hay làm phiền người
khác cho nên ai cũng ngại tiếp.
Đầu ngoài sân sau lần vô (vào) bếp
X. Đầu ở độ (ở nhờ) sau phỉnh thổ (dỗ
dành, lừa gạt) lấy nhà.
Đầu ở độ (ở nhờ) sau phỉnh thổ (dỗ dành, lừa
gạt) lấy nhà. Ban đầu ở nhờ về sau phỉnh phờ, dỗ dành tìm cách chiếm nhà
người ta. Ở đời, việc vay mượn, nhờ vả chung chạ với nhau phải hết sức
cảnh giác vì thói đời hay lật lọng, tráo trở Cậu chơi với nó phải cẩn
thận, loại người ấy đầu ở độ sau phỉnh thổ lấy nhà.
Đầu xương sôống (sống) đến môống (mống) lộ khu
(đít)
Bao quát, rà soát hết mọi thứ, mọi nhẽ (thường
dung để chê người nói năng, vặn hỏi quá cặn kẽ, chi li). Hỏi chi (gì)
mà hỏi từ đầu xương sôống đến môống lộ khu có trời mà trả lời được cho
mi (mày).
Đẻ con mô cắt rún (rốn) con nấy
Đã việc gì phải làm dứt điểm, tránh để dây dưa
lằng nhằng. Mang hàng đến thì thu tiền
luôn, dứt
luôn từng đợt
- đẻ con mô cắt rún
con nấy cho chắc ăn.
Đém (bớt) trọ (sọ) lọ đuôi
Không ai nuôi cụng nạy (lớn)
Kinh nghiệm chọn giống lợn, con nào trán và
chót đuôi có vệt trắng thì dễ nuôi, chóng lớn. Mua lợn giống thì tốt
nhất là chọn được con mô (nào) đém trọ lọ đuôi loại nớ (ấy) thì không
nuôi cụng (cũng) nậy.
Đen Đông, chớp rạch,
Quái ráng hoa bầu,
Trong ba điều đó có lành đâu
(Quái ráng hoa bầu: ráng hiện lên vào chiều
hôm như hoa cây bầu rợ) Ba
hiện
tượng trên đều là dấu hiệu mưa bão lớn.
Đen như côộc (gốc) muồng cháy
(Côộc muồng: gốc cây muồng, một loại cây thuộc
họ Dừa, mọc hoang ở các đồi thấp)
Đen nhẻm, đen nham nhở, lem luốc như gốc muồng
bị cháy. Thằng bé suốt ngay (ngày) thảy (dãi) nắng nên da đen như
côộc muồng cháy.
Đêm nằm nghị (nghĩ) lại mà coi;
Lấy chồng đánh bạc như voi phá nhà
Nổi buồn khổ của người vợ có chồng nghiện cờ
bạc, gia tài tan hoang, hạnh phúc gia đình tan nát.
Đếm Tiền cho gấy (vợ) đi chợ
Chỉ đàn ông keo kiệt.
Đền Cờn, đền Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng
1 - Đền Cờn, đền thờ Tứ Vị Thánh Nương, ở xã
Quỳnh Phương, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Tương truyền, vào thời Nam Tống (Trung
Quốc), có một hoàng hậu, hai công chúa và một nữ tỳ bị quân Nguyên đánh
đuổi dạt vào cửa Cờn thuộc địa phận xã Quỳnh Phương và tuyệt mệnh ở đó.
Vì quan hệ liên minh chống Nguyên - Mông nên nhân dân địa phương đã
chôn cất tử tế, lập miếu thờ phụng. Về sau trong một lần vua Trần Anh
Tông đi đánh Chiêm Thành qua đây, được Tứ Vị Thánh Nương báo mộng về
quân tình đối phương nên vua đã thắng trận. Để ghi nhớ công ơn nhà vua
cho xây đền thờ và phong thần cho Tứ Vị Thánh Nương. Từ đó hương hỏa
không dứt, đền nổi tiếng linh thiêng một vùng.
2 - Đền Quả thờ Lý Nhật Quang tại xã Ngọc Sơn,
Đô Lương, Nghệ An. Lý Nhật Quang, hoàng tử thứ tám của vua Lý Thái Tổ
ông đã có công hướng dẫn dân sở tại khai hoang lập nên nhiều làng mạc
vùng này nên được nhân dân địa phương tôn thờ và triều đình phong thần
cho ông sau khi mất, cho lập đền thờ, tục gọi là đền Quả. Ngoài đền Quả
ở Ngọc Sơn Đô Lương, Lý Nhật Quang còn được thờ nhiều nơi trong khu vực
Nghệ Tĩnh, nhưng đáng kể nhất là đền Cả (còn gọi là đền Lớn hoặc Tam toà
đại vương) tại làng Ích Hậu, Can Lộc, Hà Tĩnh. Tại vùng đất tây nam Hồng
Lĩnh, ông cùng hai vương hầu nhà Lý là Lý Đạo Thành, Lý Thái Giai đã
giúp dân khai hoang lập nên nhiều làng trong đó có làng Kẻ Nhật (đến đời
Lê đổi tên là Ích Hậu). Vì thế dân địa phương thờ chung cả ba ông và gọi
là Tam toà đại vương. Sang đời Trần, công việc khẩn hoang vùng này lại
được hai vương hầu nhà Trần là Trần Quang Khải và Trần Khánh Dư tiếp
tục. Sau khi mất, hai ông này cùng được hợp tự trong đền Đền Bạch Mã ở
xã Võ Liệt, Thanh Chương, Nghệ An. Đền Bạch Mã thờ tướng quân Phan Đà,
một tướng trẻ nổi tiếng thao lược của nghĩa quân Lam Sơn, từng lập nhiều
chiến tích oanh liệt, được Bình Định Vương Lê Lợi rất yêu mến. Ông người
cao lớn hùng dũng, dung mạo rất đẹp, Lê Lợi ban cho ông một chiến mã màu
trắng (bạch mã), một bộ giáp trắng. Lúc ra trận, trông ông kiêu hùng như
Mã Siêu thời Tam Quốc. ông vì mê hát bội mà bị giặc Minh phục kích rồi
tử trận. Sau Lê Thái Tổ cho lập đền thờ ông tại nơi ông mất, tục gọi là
đền Bạch Mã.
3 - Đền Chiêu Trưng thờ Lê Khôi. Ông là cháu
ruột, con người anh trai của Lê Lợi và là một võ tướng từng lập được
nhiều chiến công trong nghĩa quân Lam
Sơn. Quân công hiển hách nhất của ông
là cùng với đại tướng quân Lê Vấn chỉ huy 3000 thiết đột quân phối hợp
với cánh quân Lê Sát tiến công quân Minh ở đồn Xương Giang tháng mười
năm Đinh Mùi (11-1427) bắt sống bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc và 3 vạn quân
giặc. Năm sau ông cùng Tư mã Lê Liệt đem quân vào trấn thủ Thuận Hoá.
Thời Lê Thánh Tông, ông được phong hàm Tư mã tham tri chính sự, thời Lê
Nhân Tông thăng Tiếp chức Khâm sai Tiết chế thủy bộ chủ doanh, Thượng
tướng quân nhập nội thiếu uý tư mã. Năm Thái Hòa thứ 4 (1446), ông vâng
mệnh làm tướng trong đội quân đi đánh Chiêm Thành do Bình chương Lê Thụ
làm Tiết chế. Ông cùng Lê Thụ chỉ huy quân đội vây thành Chà Bàn bắt
sống vua Chiêm là Bí Cai giải về triều. Khi qua cửa Nam Giới, ông lâm
trọng bệnh rồi mất tại đây. Vua Nhân Tông nghe tin bãi triều ba ngày rồi
sai quân đến cửa Nam Giới tổ chức điếu tang trọng thể và xây lăng mộ cho
ông ở phía tây chân núi Long Ngâm, nay thuộc xã Thạch Kim, Thạch Hà, Hà
Tĩnh. Nhân dân địa phương cảm công đức của ông đã lập đền thờ ông tại
đây. Năm Thuận Thiên thứ 2 (1429), Lê Thái Tổ xét công bình Ngô, ông
được xếp hạng công thần, được phong tước Đinh thượng hầu. Tục gọi là đền
Chiêu Trưng là vì ông được triều Lê truy phong tước Chiêu Trưng đại
vương; lại còn có tên gọi là đền Võ Mục, tức là gọi theo tên thuỵ của
ông.
Đi cúi trôốc (trốc, đầu) về cúi tai
Chỉ hạng người vô sự, không muốn quan tâm đến
chuyện của người khác để giữ yên thân mình. Anh nớ
(ấy) đi cúi
trôốc về cúi tai
rứa mà cũng không thoát khỏi vạ vương (vạ
lây)
Đi cưởi (móc) về sương
Đi đầu hôm khi móc mới buông, về khuya khi
sương đã xuống dày, chỉ cảnh sống lam lũ, đầu tắt mặt tối.
Đi cưởi về sương,
Vất vả trăm đường,
Cũng nhọc lòng ta lắm.
KTVXN , T. 5 , tr. 320
Đi họp nói ngộ, đi giộ (giỗ) nói trây
Chỉ hạng người đầu bò đầu bướn, đến đâu cũng
gây rối, phá đám. Chẳng ai như mi
(mày), đi họp nói ngộ, đi giỗ nói trây.
Đi hôm về trầm
1 - Lăn 1ộn, vất vả để 1àm ăn.
2 - Chỉ hành vi
khuất tất, mờ
ám của ai đó. Dạo ni (này) mi (mày) mần (làm) chi mà đi hôm về trầm
nhiều rứa (thế)
Đi hơn đứng
Vận động, hoạt động thì tốt hơn là nghỉ ngơi,
làm việc hơn ở không. Con với cái,
đứng mô (đâu) thì đứng một lộ (chỗ), đi hơn
đứng con ạ.
Đi hơn đứng, chựng hơn bò
X. Hơn một ngay hay một điều.
Cố gắng them được chừng nào hay chừng đó hơn
nhau dù một tý vẫn là hơn.
Đi mòn đàng, chết cỏ, chó quen hơi
Phải đi lại một địa điểm nào đó rất nhiều lần
để giải quyết một vấn đề khó khăn. Đi mòn đàng chết cỏ chó quen hơi
mà chẳng nên việc gì
Đi ngúc (gục) trôốc (đầu) ngúc tai
Cúi đầu đi không thèm để ý đến xung quanh.
Đi ngúc trôốc
ngúc tai,
Chưng "Dĩ Hòa vi quý"
KTVXN, T.6, tr. 286
Đi quanh đi quắt không bằng nác
(nước) giắt chợ Hạ
(Nước giắt chợ Hạ: Chợ Hạ ở Đức Thọ
Hà Tĩnh, là nơi bán nhiều giắt - một loại
hến nhỏ - nấu canh rất ngon). Đi
đâu cũng nhớ về hương vị quê hương.
Đỉa Nậy Na, ma Xối Ải
(Nậy Na là một cái đìa
(đầm
nhỏ), Xối Ải là một bãi tha ma, cả
hai địa danh này đều nằm ở vùng Phú Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Nậy Na lắm
đỉa, Xối ải nhiều ma). Chỉ điều kiện khắc nghiệt của một vùng đất
Đỉa Trậm Cà, ma Rú Đất
Ý nghĩa tương tự câu đỉa Nậm Na, ma
Xối ải.
Điếc câm điếc cảy
Điếc đến mức không nghe thấy gì
hết. Bà lão điếc câm điếc cảy thế mà vẫn thích hóng chuyện.
Điếc trào tai
X. Điếc câm điếc cảy
Định Lự tốt nết đẹp ngài (người)
Định Lự là một làng cổ ở xã Tân
Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Nơi đây có nhiều truyền thống đẹp, nhân dân
thuần hậu, chăm chỉ làm ăn, trai thanh, gái lịch. …………..
Định Lự tốt nết đẹp ngài
Ngàn năm lưu
sử, muôn đời ghi công
HPV
Địt (rắm) khỏi khu (đít), tru
(trâu) khỏi ràn (chuồng)
1- Không còn trong tầm khống
chế, kiểm soát nữa.
2 - Không còn tang chứng, bằng
chứng để bắt tội.
Địt khỏi khu, tru khỏi ràn,
Chớ nghe mồm thiên hạ mà tàn hại
nhau.
Vè cố Thiệm
Đo bò mần (làm) truồng (chuồng)
Toan tính mọi việc sít sao, chặt
chẽ đâu vào đấy. Nhà mình eo hẹp, phải biết đo bò mần truồng
con ạ.
Đò dọc quan cấm, đò ngang không
chèo
Vô phương, hết lối, tiến thoái
lưỡng nan.
Khi sang mẹ chẳng cho sang,
Bây giờ đò dọc quan cấm, đò ngang
không chèo
KTCDXN, T.2, tr.170
Đỏ cọng (gọng) nóng nác (nước)
1 - Nói về việc 1uộc tôm, cua chưa
kịp chín (đỏ cọng) đã vớt ra ăn.
2 - Nóng vội, hấp tấp.
Đỏ mày cay mắt
Dễ bị kích động, dễ xúc động.
Thằng ni lạ thật, động một chút là đỏ mày cay mắt.
Đỏ như mồng gà ri (gà rừng)
Đỏ đậm và tươi màu.
Tóc bay như mây cuốn,
Má bay đỏ như mồng gà ri.
Cái chân bay đi,
Vê tròn thăn lẳn,
Đã trắng lại tròn lăn lẳn.
KTVXN, T.7, tr.422
Đó rách ngáng trộ
(Đó: một loại dụng cụ đánh bắt cá,
hình trụ, kết bằng tre, miệng túm, hom trổ ở hông, đặt chắn ngang ở dòng
nước chảy để đón cá; trộ dòng nước chảy bị chắn lại để đặt đó) Không có
năng lực gì hoặc đã hết khả năng, hết thời mà vẫn chiếm giữ vị trí, cản
trở người. đáng được trọng dụng hơn. Chủ tịch chủ tiếc gì cái
loại nớ (ấy), đó rách ngáng trộ thì có.
Đó rách mà đó nỏ (không) trôi
Đó còn ngáng trộ cho tôi
cực lòng.
(Ca dao)
Đói ăn cháo ga (gà), tra nhai gân
bò
Chỉ hạng người sống vờ vịt, lắt léo
Nhà nó mà kêu đói à? Đói đến nỗi chỉ ăn cháo
ga phải không?
Đói ăn cháo kê, no chê cơm hẩm
1 - Đói ăn cháo kê thì no lâu no
thấy cơm hẩm thì chán, không muốn ăn.
2 - Thói đời khi cần thì cái gì
cũng quý, khi không cần thì coi thường.
Đói lòng ăn đọi cháo kê,
Khi no cơm hẩm lại chê
không
dùng.
HPV
Đói ăn chùng (vụng), cùng ăn trộm
Ở vào tình thế khó khăn thường dễ
làm liều. Cái thằng hiền lành rứa mà lại rơi vào cảnh đói ăn chùng,
cùng ăn trộm.
Đói ăn phúng (vụng), túng mần (làm)
càn
X. Đói ăn chùng (vụng), cùng ăn
trộm.
Đói rau, đau thuốc
1- Những thứ tối cần thiết cho sự
sống, không dung không thể được.
2 - Những phương sách cần thiết
phải áp dụng trong các tình huơng cụ thể. Đói rau đau
thuốc có cách chi hơn nựa
(nữa)
mô (đâu).
Đói cơm hơn no rau
1 - Ít mà có chất hơn nhiều mà chỉ
có số lượng.
2 - Thanh bần hơn trọc phú, nghèo
nhưng cao quý hơn giàu mà thấp hèn.
Đói cơm còn hơn no rau,
Đói chàng quân tử hơn giàu vũ phu.
KTCDXN , T. 2 , tr. 2 2 1
Đói cơm rách áo phải ra ăn mày
Rơi vào tình trạng khốn quẫn, cùng
đường, không còn lối thoát.
Ăn mày là ai, ăn mày là ta,
Đói cơm rách áo phải ra ăn mày
Ví phường
cấy
Đói cơm thì ăn độn rau,
Tội chi mần (làm) mọn (vợ bé) nằm
sau lưng chồng
Quyết không làm vợ bé dù rơi vào
bất cứ hoàn cảnh nào.
Đói đết lói (pháo) mà nhởi (chơi)
(Nói ngược). Cảnh báo những kẻ đã
nghèo khó còn thích làm chuyện phù
phiếm, xa xỉ. Hắn mới tha cái
đài về mở hát ra rả suốt ngay (ngày), đúng là đã đói
còn đốt lói mà nhởi.
Đói hư việc, điếc hư thân
Đói nghèo, thiếu thơn thì thường
hỏng việc trong nhiều trường hợp vì thiếu điều kiện giải quyết; người
điếc không nghe được người ta nói về mình, không biết điều chỉnh trong
quan hệ, ứng xử nên khó hoàn thiện nhân cách. Ở đời đói hư việc, điếc
hư thân, không ai nói tài được mô (đâu) .
Đói khó đất ni (này) hơn giàu đất
khác
Quan niệm ngày xưa, làm ăn sinh
sống, xây dựng tổ ấm gia đình không đâu bằng ở quê hương bản quán, nơi
mà mọi người trong thân tộc quây quần để có thể tương trợ lẫn nhau.
Lấy chồng em lấy đất nhà,
Cha mẹ chú bác ông bà một quê.
Đói khó đất ni,
Hơn giàu đất khác.
KTVXN, T.4, tr. 191
Đói Khố Nội, tội cả xứ
X. Nhất Yên Huy, nhì Khố Nội. Khố
Nội là tên cũ của xã Trung Lộc và Yên Huy là tên cũ của xã Yên Lộc (Can
Lộc, Hà Tĩnh). Xưa kia, Yên Huy là xã giàu nhất trong tổng Bạt Trạc, Khố
Nội là xã giàu nhất trong tổng Nga Khê. Cho nên năm nào mất mùa đói kém,
nếu daân Khố Nội đói thì người thiên hạ cũng chẳng còn gì để mà sống.
Lấy chồng về Khố Nội thì khỏi lo
rồi, không nghe người
ta nói đói Khố Nội tội cả xứ à
?
Đói không ai tha, giàu ra có phận
1 - Chế độ phu dịch bất công, tàn
bạo ngày xưa: người nghèo đói thì bị bắt phu, bắt lính; kẻ giàu có thì
được miễn giảm.
2 - Việc đời nhiễu nhương: người
nghèo số phận lênh đếnh, chịu dủ mọi thiệt thòi; kẻ giàu thì được yên
hưởng mọi bề.
Không ai bắt phu ông lão,
Không ai bắt lính đàn bà.
Đói không ai tha,
Giàu ra có phận.
KTVXN, T.6, tr.404
Đói lòng ăn trái cùm cang,
Đừng ăn khu gióng mà làng phải
khiêng
Vùng Hương Sơn, Hương Khê Hà Tĩnh
có hai loại trái này. Trái cùm cang có vị ngọt, ăn được, còn khu gióng
có chất độc, ăn vào chết người.
Đói mọi (muỗi) đút (đốt) không ra
máu.
Đói đến mức cơ thể cạn kiệt sức
sống, cơ hồ như không
còn máu (cách nói thậm xưng).
Đói mờ mắt, mờ mũi. Đói đến mức
giác quan tê liệt
Đói nghèo sinh hư, no dư sinh tử tế
Nhân cách con người phụ thuộc vào
hoàn cảnh. Gặp hoàn cảnh thuận lợi trở
thành tốt, gặp hoàn cảnh khó khăn
có thể trở nên đồi
bại. Con người ta hễ đói nghèo
thì sinh hư, hễ no dư thì sinh tử tế.
Đói ngưởi (ngửi) khói càng sèm
(thèm)
Bị cái đói dày vò, hành hạ đến mức
khó chịu, ngửi mùi khói cũng nghĩ đến thức ăn.
Đói rau khoai chấm mói (muối) cụng
(cũng) ngon
1 - Đói đến mức ăn những thứ tầm
thường cũng cảm thấy ngon.
2 - Gặp điều kiện khó khăn eo hẹp,
dễ chấp nhận những vật dụng tối thiểu.
Đói sinh cùng, túng sinh hoảng
X. Đói ăn phúng (vụng), túng mần
(làm) càn.
Đói thì ăn ngô ăn khoai,
Đờng chộ (thấy) ló (lúa) lổ (trổ)
giêng hai mà mờng (mừng)
X. Đói thì lôộc độ (ngọn đậu)
đọt (ngọn) khoai,
Đừng chộ (thấy) ló (lúa) lổ (trổ)
giêng hai mà mờng (mừng).
Giêng hai là lúc còn rét đậm, lúa
trổ vào thời điểm này không phơi màu, bông lép thường mất mùa. Dù là lúc
giáp hạt, cần có nhanh lương thực, nhưng lúa trổ giêng hai không phải là
điều đáng mừng.
Đói thì trục cúi (đầu gối) hay bò:
1 - Do bản năng sinh tồn thúc đẩy
nên chẳng từ nan việc gì để mưu sinh.
2 - Ở đời hễ có nhu cầu là sẽ tìm
cách để thỏa mãn.
Đói thì trục cúi phải bò,
Cái chân hay chạy, cái dò hay đi.
KTCDXN, T. 1 , tr. 110
Đói tóp lộ khu (đít)
1 - Đói đã lâu ngày nên người gầy
đến mức mông đít vốn là chỗ tập trung
nhiều cơ nhất nhưng đã teo tóp lại
2 - Cuộc sống đói khổ đến cùng cực.
Giừ (bây giờ) dân đang cơ cực
Vừa thuế vừa phu
Đói tóp lộ khu,
Lấy chi mà gánh vác.
KTVXN, T.6, tr. 371
Đói troong (trong) bụng không ai
hay,
Áo rách cựa (cửa) tay người ta
biết.
Cần phải hạn chế một cách tối đa
những nhược điểm dễ lộ ra ngoài. Đi
cưới
bạn
bè,
xe cộ nhếch nhác rứa mà chịu được à,
đói trong bụng không ai hay, áo rách cựa tay người ta biết.
Đói trục cúi (đầu gối) hay bò,
No con mắt buồn ngủ
Đói thì phải chăm chỉ
làm
để mà sống, no thì dễ sinh lười
biếng.
Đói vàng mắt
Đói đến mức không có thức ăn để
tiêu hoá, gan tiết mật ra quá nhiều làm vàng cả mắt. Năm ấy cả xóm
phải trận đói vàng mắt.
Đói vàng mắt, tắt tiếng
X. Đói vàng mắt.
Đói đến nỗi da mặt vàng ệch, không
còn hơi sức để nói. Cái năm ất Dậu, dân làng phải một trận đói vàng
mắt, tắt tiếng.
Đọi cơm ăn sẻ đọi cà ăn chung
1- Sự san sẻ nhường nhịn nhau trong
hoàn cảnh thiếu thốn, nghèo túng.
2 - Ân tình
sâu
nặng nên đồng cam cộng khổ trong
mọi cảnh đời.
Ra
về vừa đến đất nhà,
Đọi cơm ăn sẻ đọi cà ăn chung.
KTCDXN , T.1, tr. 382
Đón gió ngọn cơn (cây)
Ám chỉ những kẻ hóng hớt, chuyên
tâng bốc, nịnh bợ, phỉnh phờ người khác.
Tôi không ăn thì đói,
Tôi
không nói thì buồn.
Đi
về bà đón gió ngọn cơn .
Mụ dối lừa con nít,
Mụ phỉnh phờ con nít.
KTVXN , T.6 , tr. 176
Đong mua đong bán thì giàu,
Đong ăn đong nói thì đau thân mình
Ăn nói riết róng, ăn thua với thiên
hạ, chỉ chuộc lấy phiền phức tai hoạ.
Đồ ải ải
Chỉ loại người khó bảo, tính nết
thất thường, ương sượng, đồng bóng. Nhởi (chơi) với cái đồ ải ải như
hắn có ngày mắc vạ .
Đồ ăn mặn
Chỉ hạng người lao động vất vả
Giàu như hắn cũng là đồ ăn mặn
Đồ ăn đong
Chỉ hạng người sống tạm bợ, gặp
chăng hay chớ.
Mần như đồ ăn đong.
Đồ bỏ bụi
1 - Chỉ người hoặc vật không đáng
giá, không đáng quan tâm, có thể vứt bỏ không thương tiếc.
2 - Chỉ hạng người hư hỏng, ăn tàn
phá hại, đáng phải vứt bỏ, loại trừ.
Thôi thôi đồ bỏ bụi,
Đừng nói nữa mà rầy (xấu hổ)
HGNT
Đồ bợt bợt
(Cây rẻ quạt, một loại cây thuốc
nam thuộc họ gừng, lá xếp đối xứng nhau xoè ra trông như cái quạt; củ
giống củ gừng, vị cay lẫn đắng dùng để chữa ho). Loại người không đáng
tin cậy vì không có bản lĩnh, ý chí, lập trường dao động, quan điểm sống
không rõ
ràng,
lẫn
lộn. Cái đồ bợt bợt như hắn thì
làm được việc chi.
Đồ cá tràu (cá quả)
Cá tràu là loại cá khoẻ, khi cạn
nước
hoặc động nước vọt rất mạnh khỏi
chỗ trú ẩn để tìm nơi ở mới. Hàm chỉ loại người hay luồn lách len lỏi,
hay trắng trợn vượt mặt kẻ khác. Nhởi ( chơi) mần (làm) chi với cái
đồ cá tràu nớ (ấy).
Đồ can ranh
X. Đồ lận hồi.
(Can: bậc cụ kỵ; ranh: trẻ con). Can ranh: sự
luân hồi, lộn kiếp đã năm đời. Đồ can ranh,
mần (làm) chi nên nổi mà đòi vô (vào) đây
Đồ cặc (tục) ga (gà)
Chỉ hạng người xỏ lá, lọc lừa, tráo trở, quay
quắt.
Cha con nhà nớ là đồ cặc
ga.
Đồ cắm đụa (đũa) lộ khu (đít)
Làm những việc trẻ con, vô tích sự, ngu xuẩn.
Mần ăn như cái đồ cắm đụa lộ khu.
Đồ chà vá đục đạc
(Chà vá: vượn khoang; đục
đạc: khỉ đột).
Chỉ hạng người ngu si đần độn, khó dạy khó bảo. Trò với vè chi (gì
)cái đồ chà vá đục đạc nớ (ấy) .
Đồ chết dậm (dẫm)
X. Đồ bỏ bụi.
Đồ chết đàng
(đường), chết
sá
X.
Đồ khái (hổ) tha ma vật.
Đồ chết đâm chết chém
X.
Đồ khái (hổ) tha ma vật.
Đồ chết nghiệp
X. Đồ khái (hổ) tha ma vật.
Đồ chết mất dổ (giỗ)
X. Đồ khái (hổ) tha ma vật.
Đồ chết mất mả
X. Đồ chết đàng,
chết
sá;
Đồ chết tiệt.
Đồ chết mất nòi
X. Đồ chết mất giỗ.
Đồ chết mất ngáp
X. Đồ khái (hổ) tha ma vật.
Đồ chiếu ọt
X.
Đồ bỏ bụi.
Đồ chó đấy (đái) giường lèo
(Giường lèo: Án thờ gia tiên).
Chỉ hạng người làm
những điều vô luân, nhơ nhuốc tổ
tiên. Trời tru đất diệt cái đồ chó đấy giường lèo nớ đi.
Đồ chuột chù
X. Đồ bỏ bụi.
Đồ đứng đàng
X. Đồ bỏ bụi.
Đồ hàm hô côộc (gốc) chuối
(Hàm hô, côộc chuối: Tục xưa, những
người chết mất xác người nhà thường dùng củ chuối hoặc sọ dừa làm đầu,
cây chuối làm thân giả làm hình người để chiêu hồn trở táng). Chỉ hạng
người diện mạo hung ác, hình hài méo mó, trông ghê tởm. Con với cái,
rặt
một đồ hàm hô, côộc chuối.
Đồ hớp lại gió
X. Đồ bỏ bụi.
Đồ khái tha ma trừ
X. Đồ khái (hổ) tha ma vật.
Chỉ loại người hung hiểm, độc ác
chuyên làm hại người khác nhưng bất trị. Cái đồ khái tha ma trừ nớ
(ấy) thì gặp mô (đâu) là cứ tránh cho khỏi lôi thôi.
Đồ khái (hổ) tha ma vật
Lời nguyền rủa những kẻ táng tận
lương tâm, thường gây ra những việc bạc ác đối với đồng loại. Cái đồ
khái tha ma vật nớ thì không chết đâm thì cũng chết chém.
Đồ khỉ gió
(Khỉ gió: loại khỉ sóc, than nhỏ,
lông dài và mượt, nhanh nhẹn, tinh nghịch). Chỉ những người hay nghịch
ngợm, trêu chọc người khác. Cái đồ khỉ gió nhà anh, ngồi đâu cũng cứ
nhiếu (trêu) người ta được.
Đồ khỉ khô
Chỉ những người quá gầy yếu, nhỏ
bé. ăn uống suốt ngày mà trông hắn như đồ khỉ khô.
Đồ khu (mông, đít) mấn (váy)
Chỉ những người, những đồ vật vô
tích sự, bỏ đi.
Đồ lận (luân) hồi
(Lận (luân) hồi: quan niệm mê tín
cho rằng: những trẻ chết yểu thường hay trở về đầu thai để quấy phá gia
đình mình). Lời rủa những kẻ số phận đen đủi hay mang đến những sự rủi
ro, xúi quẩy cho người khác. Tưởng sinh được thứ ra
người,
ai ngờ đẻ ra đồ
lận hồi.
Đồ lật mặt
Chỉ hạng người lá mặt lá trái hay
phản phúc. Từ nay trở đi, mi phải cạch cái đồ lật mặt nhà hắn.
Đồ lộn lại
X. Đồ lận hồi.
Đồ lộn kiếp
X. Đồ lận hồi.
Đồ lộn quất
Lời mắng đối với những kẻ có lớn
không có khôn, làm những điều dại dột lẽ ra không nên có. Mười lăm
mười sáu rồi mà còn đấy trấm (đái dầm; Đái mế (Thừa Thiên)) trên giường,
đồ lộn quất.
Đồ ma trơi quỷ quái
Chỉ hạng người tinh quái, nhiễu sự,
hay quấy rối, trêu chọc người khác. Làm tau hết
cả hồn, đồ ma
trơi
quỷ quái.
Đồ ma vương quỷ sứ
X. Đồ ma trơi quỷ quái.
Đồ mọi đôồng
(Mọi đôồng: muỗi đồng, một loại
muỗi đốt rất đau). Chỉ những kẻ độc địa với người khác.
Chơi
với đồ mọi đôồng, hắn chích cho là
phải.
Đồ moọng ăn
X. Đồ troọc ăn.
Đồ nát nát
X. Đồ ải ải
Đồ ngất ngất
X. Đồ ải ải
Đồ phản phúc
X. Đồ lật mặt.
Đồ phải gió
X. Đồ khỉ gió.
Đồ quét chợ
Rủa những người hèn kém, chỉ đáng
làm những nghề mạt hạng. Cái đồ quét chợ nhà mi (mày) mà cũng đòi học
với hành.
Đồ sổ điên
Chỉ hạng người tính tình thất
thường, hay có những hành động rổ dại. Bựa ni (hôm nay) không biết có
chuyên chi mà hắn mần như đồ sổ điên.
Đồ sổ dại
X. Đồ sổ điên.
Đồ trấn mấn (rận váy)
X. Đồ khu (mông, đít) mấn (váy)
Đồ troọc (trọc) ăn
Chỉ kẻ cứ hau háu chuyện ăn, chỉ
chực ăn của người khác Cái đồ troọc ăn nớ (ấy) thì mần (làm) được
tích sự chi (gì).
Đồ trơi (xấu hổ, xấu xa) đời nhớp
(bẩn) nhà
Rủa những người phô ra những chuyện
xấu xa, Ô danh, làm nhục gia phong.
Đồ vô căn vô cước
Rủa kẻ xuất thân không rõ ràng như
con hoang, dân ngụ cư loại con cái vong gia, vong bản sống lang bạt kỳ
hồ. Ở cái nhà ni (này), không có đồ du (dâu) con vô căn vô cước nớ
(ấy) mô (đâu).
Đồ vô hậu
X. Đồ bỏ bụi.
Rủa loại người bất nghĩa, không có
tương lai .
Đồ vô phúc
X. Đồ bỏ bụi.
Rủa loại người ăn ở thiếu phúc đức,
khó mà gặp được may mắn ở đời.
Đôi mách đôi lai
Chỉ hạng người hay ngồi lê nói xấu
người khác. Không phải kể đôi mách đôi lai
Mà để gánh vác việc đời
Học chữa thuốc cho hay
Học máy móc cho tài
Cày cấy thay bạn trai,
Cho họ ra mặt trận.
HGNT, tr. 306
Đội dần đi ẻ (ỉa)
X. Vắt cổ chày ra nước;
Bắt kít (cứt) không lọt tay.
Chỉ hạng người keo kiệt, bủn xỉn chỉ vì một
chút lợi nhỏ có thể bất chấp nhục nhã, liêm sĩ. Nhởi mần chi với cái
loại đội dần đi ẻ.
Đông anh em trai thì đánh khái (hổ),
Đông chị em gái thì đánh ghen
Quan niệm cũ, trọng nam khinh nữ, cho rằng phụ
nữ không có sức lực, ý chí như đàn ông, cho nên trong cuộc mưu sinh
chẳng có tích sự gì, ngược lại chỉ hay gây rối trong gia đình. Đẻ con
gấy (gái) mần chi cho nhiều, đông anh trai thì đánh khái, đông chị em
gấy
thì đánh ghen.
Đông con hơn đông của
Con đông thì sum vầy đầm ấm, vui cửa vui nhà,
cha già mẹ yếu có điều kiện phụng dưỡng chu đáo; ngược lại, của nhiều mà
con hiếm thì cửa nhà cũng buồn tẻ, ốm đau chẳng biết cậy dựa vào ai.
Cứ đẻ cho nhiều vào, đông con hơn đông của mẹ nó ạ.
Đông Tháp cậy thế lắm quan,
Đem về mà nộp chợ Giàn cho vui
Các địa danh Đông Tháp, chợ Giàn thuộc xã Diễn
Hồng, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Vùng này có nhiều người đỗ đạt làm quan.
Đồng khô đất trắng, cóc kêu inh làng
1 - Cảnh hoang tàn, thê lương của nông thôn
trong những đợt hạn hán lâu dài.
2 - Cảnh sống
khắc nghiệt, T. 2 , tr. 131
Đồng Môn dệt vải,
Cổ Đạm vắt nồi,
Chợ Bộng vắt (nặn) bình vôi,
Xuân Liệu bắt nạm (nắm) cáy hôi.
Đồng Môn là tên cũ của hai xã Thạch Đồng và
Thạch Môn, thuộc huyện Thạch Hà, Hà
Tĩnh. Xã Đồng Môn có từ trước thế kỷ XIX,
thuộc tổng Thượng Nhị, phủ Thạch Hà, đến
năm 1954 mới chia thành xã Thạch Đồng và Thạch
Môn. Đồng Môn vốn có nghề dệt vải từ lâu đời và rất nổi tiếng. Cổ Đạm là
tên một làng cổ vốn có từ trước thế kỷ XIX, thuộc huyện Nghi Xuân, Hà
Tĩnh. Về sau thuộc xã Xuân Hoa, nay lại tách ra thành xã Cổ Đạm. Xã có
ba thôn: Kỳ Ba, Mỹ Cầu, Yên Lan. Làng Cổ Đạm từ xưa đã nổi tiếng với
nghề sản xuất đồ đất nung. (Theo
Bùi Thiết - Từ ĐIỂN HÀ TĨNH - Sở VHTT Hà Tĩnh
xuất bản năm 2000 - tr. 105 - 196) . Chợ Bộng thuộc xã Cẩm Trang,
huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh nổi tiếng về nghề sành, vò, chậu, bình
vôi và Xuân
Liệu là xã thuộc huyện Can Lộc – vùng đồng chua nước mặn, chuyên bắt cáy
về làm mắm.
Đất Đồng Môn dệt vải,
Đất Cổ Đạm vắt nồi,
Đất Chợ Bôộng vắt bình vôi,
Đất Xuân Liệu bầy tui (bọn tôi)
Ra bắt nạm cáy hôi,
Về đâm đâm phơi phơi , . . .
KTCDXN, T. 1 , tr. 2 1 3
Đồng tiền như méng (miếng) chín
Tiền bạc cũng như miếng ăn đã nấu chín, không
dễ để dành, vì luôn luôn có nhu cầu phải ăn phải tiêu, càng sẵn thì càng
tiêu nhiều. Được đồng mô (nào) gửi tiết kiệm thì còn dành dụm được
chứ đồng tiền như méng chín, để trong bâu (túi) là tiêu hết.
Đốt giấy lấy xôi
Chỉ việc làm bịp bợm của
bọn thầy cúng, phù thủy:
đất
văn cúng, vàng mã là giả, nhưng lấy xôi thịt mới
là mục đích.
Thà rằng không giúp thì thôi,
Ăn
đừng đốt
giây
lấy
xôi mà phiền.
HPV
Đời cha ăn lạt (nhạt), đời
con biếu cổ
Thế hệ trước làm điều xấu
khiến thế hệ sau phải chịu tội Mi (mày) ăn ở cho phải đạo chứ đừng để
xảy ra chuyện đời cha ăn lạt, đời con
biếu
cổ.
Đời dưa dưa ăn, đời mít mít
ăn
Thế hệ nào làm thế hệ ấy
hưởng, không nương tựa, dựa cậy được nhau. Đời dưa dưa ăn, đời
mít
mít
ăn, chi mà phải
ghen tức.
Đời dưa nói dưa đỏ, đời mít khen mít thơm
Chỉ hạng người quay quắt, tráo trở, thích nịnh
hót để vụ lợi Thật không thể chịu được cái loại ngài
(người) đời dưa
hắn nói dưa đỏ, đời
mít
hắn khen mít thơm.
Đời ngưòi được mấy gang tay;
Ai hay ngủ ngày chỉ được nửa gang
Tranh thủ thời gian để làm được nhiều việc
hơn, sống được nhiều hơn.
Đời người được mấy gang tay,
Ai hay ngủ ngày còn được nửa gang.
Anh lo ăn uống cho sang,
Hết hàng thịt chó đến hang cháo kê.
Khuyên anh anh nỏ chịu nghe,
Ôm mấn (váy) ôm áo, tôi về nhà tôi.
KTCDXN, T.2, tr.165
Đời ông cho chí đời cha,
Mây kéo rú (núi) Xước mưa ba bốn
ngày
(Rú (núi) Xước thuộc khu vực
Hoàng
Mai, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Núi này
kéo dài từ xã Quỳnh Phương đến giáp Thanh Hoá, sát biển). Theo kinh
nghiệm của dân địa phương, hễ
phía núi Xước rậm mây thì ắt có mưa
to, mưa lâu.
Đời tu huýt
(Tu huýt: đồ chơi trẻ em nặn bằng
đất sét, hình thuôn, giống thân con chim, rỗng ruột có khoét lỗ để thổi,
tiếng kêu gần như còi). Chỉ thời gian quá khứ, cách xa hiện tại, từ thủa
còn chơi tu huýt. Chuyện nớ xảy ra từ đời tu huýt mô, ai còn nhớ được
nữa!
Đụa (đũa) non chẳng dám quấy nồi
cháo kê
Năng lực thấp kém, thân phận hèn
mọn không dám làm những việc quá khả năng bản thân.
Phận
hèn chẳng dám sánh đôi,
Đụa non chẳng dám quấy nồi cháo kê.
KTCDXN, T.2, tr.249
Đụn Sơn phân giái (giới),
Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh
thánh
(Đụn Sơn: Núi Hồng Lĩnh. Theo Bùi
Dương Lịch: suối Bò Đái, ở núi Cô Sơn, xã Vũ Nguyên, huyện Thanh Chương,
Nghệ An. Núi Cô Sơn trông xuống sông Lam, vách đá dựng đứng dài vài chục
trượng, suối từ trên núi chảy thẳng xuống, tiếng suối lanh lảnh, ngoài
mười dặm cũng nghe tiếng . . . Xưa có câu sấm (quyết) rằng "Bò
Đái tuyệt thanh" (Bò Đái mất tiếng) tức là chỗ này (Bùi Dương Lịch -
Nghệ An ký). Đây là một câu sấm ký có từ xưa, tương truyền là của Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nghĩa của câu này là: bao giờ khe Bò Đái mất
tiếng thì đất Nam Đàn sinh ra bậc thánh nhân.
Đút cặc (tục) vô (vào) be (chai),
lấy que mà chọt
Thong thả rỗi hơi, làm những việc
ngu ngốc, vớ vẩn để chuốc lấy tai vạ.
Đui đầu chánh (nhánh) nè, què đầu
lẻ (que) củi
Cẩn trọng trong mọi tình huơng, lứa
tuổi.
Đừng đi lang chạ
Không quan hệ bất chính.
Đừng đi lang chạ mà hư,
Ở đây với dượng cũng như có chồng.
Chưa chồng dượng kiếm chồng cho,
Chưa con dượng kiếm con cho mà
bồng.
KTCDXN, T.2, tr.165
Đứng bể nồi, ngồi bể ấm
Vụng về, hậu đậu hay làm hỏng việc.
Con gấy chi mà đứng bể nồi, ngồi bể ấm, rồi có ma nó rước.
Đứng thấp thì chẳng ai nhìn;
Trèo lên cây quế ba nghìn người
ngong (ngóng)
Phận thấp hèn thì không ai thèm đếm
xỉa, khi sang trọng thì lắm kẻ muơn quan hệ.
Được ăn được nói, được gói mang về
Chỉ hạng người đắc ý khi được thỏa
mãn mọi thứ. Hay thật, ông ta đến nói chuyện với cơ quan tui (tôi) về
đạo đức cách mạng, về đức liêm khiết của người cán bộ, xong rồi cũng
nhận phong bì một cách vui vẻ, thật là được ăn được nói, được gói mang
về.
Được bựa nào xào bựa (bữa) ấy,
Bựa nào không thấy đắp chiếu nằm
không
Chỉ hạng người sống theo kiểu gặp
chăng hay chớ, thà chịu khổ chứ không chịu khó, lười biếng, thụ động,
không chịu làm việc, sống vất vưởng.
Được Cao Xá thiên hạ há mồm
(Cao Xá thuộc Diễn Châu).
Cao Xá được mùa bội thu thì vùng khác bị hạn hoặc úng thủy.
Được dập mất đè
X. Xay lúa khỏi bồng em.
Được việc này thì hỏng việc khác
được cái này thì mất cái khác. Không tham được mô, ở đời được đập mất
đè.
Được méng nào xào méng nớ
X. Được chăng hay chớ;
Được bựa nào xào bựa (bữa) ấy,
Bựa nào không thấy đắp chiếu nằm không.
Được mùa cau, đau mùa lúa;
Được mùa lúa, úa mùa cau
Năm nào được mùa lúa thì mất mùa cau và ngược
lại.
Được mùa hồ Nón thì ló (lúa) mười bảy,
Mất mùa hồ Nón thì ló (lúa) bảy mươi
(Hồ Nón thuộc Nam Đàn). Hồ Nón được mùa thì
lúa rẻ, mất mùa thì lúa đắt.
Được mùa tháng năm nhìn trăng rằm tháng tám
Mùa tháng năm thường năng suất thấp, dù có
được mùa thì dự trữ lương thực
cũng chẳng được là bao; mùa tháng mười năng
suất thường cao hơn, nhưng lại
hay mất mùa vì lụt bão, vì thế người dân dù có
được mùa tháng năm, nhưng vẫn
còn tuỳ thuộc vào tình hình thời tiết tháng
tám.
Được thời ngồi ghế, thất thế ngồi trệt
Lẽ đời là vậy, gặp thời vận, làm nên thì có vị
thế oai phong trong thiên hạ, thất thế thì đành chịu phận lép vế thấp
hèn.
Được tru (trâu) bán bò
Có mới nới cũ, có cái có giá trị hơn thì phủ
nhận, coi thường cái cũ.
Được tru (trâu) anh lại bán bò,
Được o (cô) má thắm quên o chưa chồng.
KTCDXN, T. 1 , tr. 296
Ẻ (ỉa) cả đòn
(ghế)
Chỉ loại người quá lười biếng, lười đến mức
buồn ỉa không đi, cứt són ra cả ghế.
Ẻ (ỉa) dài rọt
Mắc phải chứng ỉa chảy quá nhiều, quá lâu do
ăn uống không hợp vệ sinh.
Ẻ (ỉa) dầm rưng (đang còn) khen tốt kít
Làm những việc không ra gì lại còn chống chế,
bào chữa, nói tốt cho việc làm
xấu đó
Éc (ách) trửa (giữa) đàng (đường) quàng vô
(vào) cổ
Hấp tấp, dại dột, khi không rước vạ vào thân.
Éc trửa đàng quàng vô cổ,
Đã làm người phải biết chỗ dở hay,
Đi ra đàng con chớ thày lay,
Nơi đô hội chớ cậy tài, cậy giỏi.
Vè dặn con
Ê
Ếch tháng ba, ga (gà) tháng tám
Kinh nghiệm dân gian cho hay tháng ba là mùa
sinh sản của ếch nên ếch rất béo; tương tự, tháng tám là lúc thu mùa vào
dịp mưa gió, lúa rụng rơi nhiều, gà tha hồ ăn nên rất béo.
G
Ga (gà) chê ló chó chê kít (cứt)
(Gà mà chê lúa, chó mà chê cứt người, ấy là
những hiện tượng bất thường, dấu hiệu
của ốm đau, bệnh tật)
1 - Những việc ngược đời, khó có thể xảy ra.
2 - Cái đã trở thành bản chất tập tính thì
không thể thay đổi được.
Hắn mà không uống
rượu nữa thì có
mà gà chê ló, chó
chê kít (cứt).
Ga (gà) cỏ trỏ mỏ về rừng
Gốc gác ở đâu thì hướng về, quay về nơi đó.
Nuôi connuôi phức tạp lắm anh ạ, biết đâu gà cỏ trỏ mỏ về rừng.
Ga (gà) mô (nào) no ló (ló) chó mô
no cơm
X. Cơm mô (đâu) đầy diều chó, ló mô
(đâu) đầy diều ga (gà). Trong điều kiện lương thực chưa đủ cho người,
thì không thể có thức ăn cho gà và chó ăn no được.
Ga (gà) Trảo Nha gáy tiếng hay trự
(chữ),
Chó Văn Cử sủa tiếng hư ăn
(Trảo Nha là tên một làng cổ thuộc
thị trấn Nghèn, Văn Cử tên một làng thuộc xã Xuân Lộc. Cả hai địa danh
trên đều thuộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Trảo Nha vẫn nổi tiếng từ xưa về
truyền thống học vấn, có nhiều người đậu đạt cao, trong đó nổi tiếng
nhất là họ Ngô trải mười tám đời quận công. Văn Cử là một làng nghèo,
đồng chua nước mặn, dân tình xác xơ, người không đủ ăn, gia súc lại càng
đói). Câu này hàm ý: nơi hay chữ thì đến con gà cũng gáy ra chữ, nơi đói
nghèo tiếng sủa con chó cũng nghe như tiếng đòi ăn.
Gái bén hơi trai như rau khoai bén
hơi đạm
Chỉ quan hệ tình cảm nam nữ. Khi đã
có tình cảm, đã quen hơi bén tiếng với người con trai thì thể chất người
con gái cũng trở nên đầy đặn hơn.
Gái bén hơi trai như khoai bén hơi
cào
X. Gái bén hơi trai như rau
khoai bén hơi đạm.
Gái bén hơi trai như thài lài gặp
cứt chó
X. Gái bén hơi trai như rau
khoai bén hơi đạm.
Gái có chồng như gong mang cổ,
Trai có vợ như nhợ (dây) buộc chân
Đàn ông hay phụ nữ khi đã có gia
đình thì bị ràng buộc, không còn được tự do như lúc còn độc thân. Đặc
biệt, trong xã hội phong kiến, người phụ nữ khi lấy chồng coi như bị cầm
tù chung thân.
Gái có chồng như gong mang cổ,
Trai có vợ như nhợ (dây)buộc chân
KTCDXN, T. 1 , tr. 475
Gái goá là vạ miệng trai
1 - Gái goá chồng thường bị mang
tai tiếng vì miệng lưỡi bọn đàn ông.
2 - Gái goá chồng thường làm đàn
ông bị mang tai tiếng.
Con không nghe người ta nói,
"Gái goá là vạ miệng trai
"
Khi giờ giấc hôm mai,
Khôn ba năm dại một giờ không biết.
KTVXN, T.4, tr.634
Gái ở cự (cữ), trai ngự nóc nhà
(Ở cữ: người phụ nữ mang thai trong
giai đoạn đầu, rất dễ bị sa sẩy, cho nên phải hết sức kiêng cữ; ngự nóc
nhà: cưỡi lên nóc nhà, đang lơp nhà) . Đàn bà trong thời gian
mới mang thai, đàn ông trong tư thế đang ngồi trên nóc nhà để lơp nhà,
đều là những tình thế cực kỳ nguy hiểm, nếu không cẩn thận dễ bị tai
nạn, thậm chí mất mạng. Phải cẩn thận con ạ, có thai lần đầu
con phải nhớ câu tục
ngữ “gái ở cữ, trai ngự nóc
nhà”.
Gái Tràng Lưu, sưu làng Mật
Tràng Lưu nay là xã Trường Lộc;
làng Mật (Mật thôn, Mật Thiết) nay thuộc xã Kim Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh.
Xưa nay, hai làng này vốn có tiếng là văn vật. Làng Tràng Lưu có dòng họ
Nguyễn Huy vốn nổi tiếng có nhiều danh nhân như: Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn
Huy Tự, Nguyễn Huy Hổ,... xưa kia có nghề dệt vải, con gái ở đây xinh
đẹp và có lối hát phường vải nổi tiếng một thời. Làng Mật Thiết vốn là
đất trù phú, nên sưu thuế ở đây cũng phải nạp cao hơn các nơi khác.
Gan đâu dám đánh con voi một ngà
(Voi một ngà là loại voi sống một
mình, khoẻ và hung hãn, đữ tợn) Không thể đọ sức cùng những kẻ hung bạo,
dữ tợn.
Tưởng
ngờ nói chút mà thôi,
Gan đâu dám đánh con voi một ngà.
KTVXN, T.5, tr.616
Gan kẻ Sọt, rọt (ruột) kẻ Sừng
(Kẻ Sọt: xã Trung Thành, kẻ Sừng:
xã Lăng Thành, Yên Thành). Chỉ sự kiệm ước đến keo kiệt.
Gan như sắt
Rất gan dạ, không ai có thể doạ
nạt, không cái gì khiến phải run sợ. Thằng bé mới tí
tuổi đầu mà đã gan như sắt.
Gan thỏ đòi mó dái ngựa
(Gan thỏ: nhát như thỏ; mó dái
ngừa: ngựa vơn hay đá, nếu kích vào chỗ hiểm thì nó đá rất dữ). Nhát gan
mà lại dám làm những chuyện động .trời, làm những việc mạo hiểm. Chú
mi (mày) gan thỏ mà đòi mó dái ngựa hay sao ?
Gan trời phổi mọi (muỗi)
1 - Những thứ cực kỳ quý hiếm,
những thứ trong thế giới hiện thực không thể có được
2 - Chỉ cuộc sống vương giả, không
thiếu thứ gì Nó thì còn thiếu gan trời phổi mọi chi nữa?
Gạo giộ (giỗ) đổ lộn gạo tốt
1 - Sự 1ộn xộn, thiếu rành mạch, vô
lối trong công việc
2 - Đánh đồng mọi giá trị xoá nHòa
mọi ranh giới nhằm thực hiện một mục đích xấu nào đấy. Đừng có mần
cái việc gạo giỗ đổ lộn gạo tốt mà
người
ta
cười
cho.
Gạo lưng chum dệ (dễ) bớt
Gấu cộ dễ nấu, chồng xấu dễ sai
X. Nồi đồng dễ nấu, chồng xấu dễ
xài.
Gấu (gạo) lưng chum dệ (dễ) bớt
1 - Cái gì đã mất dấu, mất niêm
phong thì khó an toàn
2 - Người đàn bà đã có chồng thì dễ
có điều kiện quan hệ bất chính. Chồng con đàng hoàng lại càng dễ
quan hệ lăng nhăng, gấu lưng chum dệ bớt mà.
Ghé Tĩnh au cau Thượng đầy cơi
không màng
(Chợ Thượng, thuộc xã Châu Phong,
Đức Thọ, Hà Tĩnh là nơi có cau ngon nổi tiếng). Khi đã không thương
nhau, ghé Tĩnh au, thì mọi thứ của ngon vật lạ, vật chất sang trọng đều
bị xem thường.
Thương nhau trù chũm ăn chơi
,
Ghé Tĩnh au cau Thượng đầy cơi
không màng.
KTCDX N T. 1 , tr.408
Ghin
(gần)
tre che một phía
1 - Do gần gũi nên có điều. kiện
nhờ vả láng giềng.
2 - Do thân quen nên có thể được sự
giúp đỡ của người có vai vế. May mà
mần
láng giềng bác, ghin tre che một
phía, nhà cháu được nhờ bác nhiều.
Giả chết bắt quạ, giả mù coi 1ồn
(tục)
Chỉ hạng người sống giả dối, giả
ngây giả dại nhưng thực ra rất tinh khôn. Hắn không đần mô, hắn giả
chết bắt quạ, giả mù coi 1ồn thì có.
Giàu cha giàu mẹ được phần,
giàu anh giàu chị ai mần (làm) nấy
ăn
Cha mẹ giàu có thì con cái ai cũng
được hưởng, nhưng anh em giàu có thì của ai người ấy giữ. Dù là ruột
thịt nhưng không thể trông cậy vào sự giúp đỡ của nhau như khi còn ở
chung một nhà.
Giàu chi giàu ló (lúa) giàu tiền,
Giàu bạc giàu ác, nhân duyên không
giàu
Phải sống có đạo đức, giữ phẩm hạnh
thì nhân duyên, phúc phận mới tốt đẹp được; giàu có mà bạc ác thì thì
cũng không thể bền được
Giàu chi giàu ló giàu tiền,
Giàu bạc giàu ác nhân duyên không
giàu.
Giàu có số, đừng cố mần chi (làm
gì)
Cái gì cũng do số phận định trước,
con người không cưỡng lại được. Giàu có số, mi (mày) đừng cố bươn
chải mần chi cho nhọc xác.
Giàu con nít (trẻ con) béo lợn con
Không bền, nhanh lên nhanh xuống,
phát nhanh thì tàn nhanh. Giàu chi nó
mà giàu, giàu con nít béo lợn con
được mấy lăm hơi .
Giàu của không bằng giàu con
X. Đông con hơn đông của.
Giàu mà ngốc nghếch ngu si
Đói mà biết cụ (cậu) biết dì còn
hơn
Nghèo đói mà giàu tình nghĩa thì
hơn giàu có mà ngu dốt.
Giàu thì ghét, đói rét thì khinh,
Thông minh thì không muốn dùng
Thói đời người giàu dễ bị ghen
ghét, người nghèo thường bị coi khinh, người có tài không phải bao giờ
cũng được đặt đúng vị trí. Ở cái xứ giàu thì ghét, đói rét thì khinh,
thông minh thì không muốn dùng này, ai có tài chúng nó cứ muốn nhấn
xuống bùn.
Giàu vì rọng (ruộng), không ai giàu
vì bờ
1 - Cái 1àm nên sự giàu có 1à do
năng suất canh tác ở trên ruộng, chứ không phải cái hình thức của thửa
ruộng. Chăm làm cỏ bỏ phân là hơn chứ be bờ làm gì nhiều, giàu vì
rọng chứ ai giàu vì bờ.
2 - Ở đời ăn thua là cái thực chất,
cái đích cuối cùng mà mình đạt được.
Giêng trúc (lật nghiêng) lục tiêu
Kinh nghiệm trồng cây: tháng giêng
trồng tre, trúc; tháng sáu thì trồng chuối.
Gió bấc leo heo mật trèo lên ngọn
Gió bấc về, phần ngọn của mía mới
ngọt. Chặt mía đưa đi bán được rồi con ạ, gió bấc leo heo mật
trèo lên ngọn.
Gió mát trăng lu, có anh hai vợ lưa
(còn) khu (đít) với sườn
Sự khó nhọc vất vả của hạng đàn ông
đa mang, đèo bòng nhiều vợ.
Gió mát trăng
lu,
Có anh hai vợ, lưa khu với sườn.
KTCDXN, T.2, tr.168
Giường lèo mà trải chiếu mây,
Những người hai vợ như gây (gai)
quào mình
Những kẻ đa thê thường gặp chuyện
rắc rối, lục đục trong gia đình, khó giải quyết cho êm thấm, chẳng khác
gì người luôn luôn nhặm nhọi trong mình, khó chịu.
Gộ
(gỗ)
chợ Mọ, bò chợ Si.
Chợ Mọ lắm gỗ tốt, chợ Si lắm bò
tốt (hai chợ này đều thuộc Nghệ An).
Gởi (gửi) đùm thì bớt, gởi lời thì
thêm
Chỉ thói tham lam, đa sự của người
đời: gửi vật chất thì bót xén; gửi nhắn điều
gì thì thêm thắt cho lắm chuyện.
Thế gian lắm sự nực
cười,
Gởi đùm thì bớt, gởi lời thì thêm.
HPV
Gương bể khó hàn, chỉ đứt khó nối,
người ngoan khó tìm
Những việc khó làm, những tình
huống khó giải quyết.
Ai ơi
gương bể khó hàn,
Chỉ đứt khó nôí, người ngoan khó
tìm
KTCDXN , T. 1 , tr. 218
H
Hạc độ (đỗ) lưng quy
(Hạc là loài chim có chân cao, cổ
và mỏ dài, tượng trưng cho sự phiêu diêu tiêu sái của cảnh tiên, người
tiên (hạc giá vân du: cưỡi hạc chơi mây); quy: rùa, tượng trưng cho sự
sống lâu). Hình ảnh hạc đậu lưng rùa thường là biểu tượng của cuộc sống
Hòa hợp, phúc lộc thọ dồi dào, hiển quý, sang trọng.
Thiếp gặp chàng như Ngưu
Lang gặp hội,
Chàng gặp thiếp như hạc độ lưng
quy.
KTCDXN, T. 1 , tr. 404
Hai mươi tháng chín mưa rấp trộ
rươi,
hai mươi tháng mười mưa rấp trộ cá
Thời điểm hết mùa rươi và mùa cá.
Hai tay bưng đọi (bát) chè tàu
Vưa (vừa) đôi thì lấy ham giàu mà
chi (mà làm gì)
Chỉ việc nhân duyên vợ chồng thì
phải vừa đôi phải lứa chứ nếu lấy nhau vì giàu sang thì trái lẽ thường,
nhân duyên tan vỡ.
Ham chi bó ló quan tiền;
Mụ gia dệ (dễ) ở, chồng hiền là hơn
Điều mong muốn thiết tha nhất của
người phụ nữ khi đi lấy chồng là được chồng
hiền và mẹ chồng dễ tính.
Ham chơi mảng nhảy
Chỉ hạng người chỉ thích chơi bời,
lười công việc. Thanh niên giừ (bây giờ) ham chơi mảng nhảy lắm.
Ham nơi sây trái rậm cành;
Ham nơi đông chị nhiều anh mà nhờ
Khi lấy chồng, lấy vợ phải chọn nơi
anh em đông đúc mà nhờ cậy lẫn nhau.
Ham nơi sây trái rậm cành,
Ham nơi đông chị nhiều anh mà nhờ.
KTCDXN, T. 1 , tr.478
Hàm chó vó ngựa
C.n. Mẹng (miệng) hùm,
nọc rắn.
Những chỗ nguy hiểm, hại người nên
tránh xa. Đến nhà hắn là đến cái nơi hàm chó vó ngựa đấy, mi (mày)
phải coi chừng!
Hàng bấc thì qua, hang quà thì đến
Chỉ hạng phụ nữ trắc nết, tham ăn,
không biết lo lắng công việc nhà cửa, đi chợ thì ăn quà về nhà thì ăn
vụng, thiếu vật dụng gì cũng không biết hay không biết. Mụ vợ hắn
chúa hay ăn quà hễ đi chợ là hàng bấc đi qua, hàng quà thì đến.
Hanh heo mật trèo lên ngọn
X. Gió bấc leo heo mật trèo lên
ngọn.
Hay ăn thì bần,
hay
mần thì giàu
Lẽ thường ở đời, khá giả là do
siêng năng, tằn tiện; nghèo đói là bởi nhác nhớn, phung phí.
Hay lam hay làm đầu quang mặt sạch,
Chẳng hay làm đầu rếch mặt dơ
Người siêng năng, chăm chỉ thì dung
nhan, mặt mũi sang sủa, đầu tóc dáng dấp gọn gàng; kẻ lười nhác thì đến
bản thân hình dáng cũng xấu xa, nhếch nhác. Lo mà làm đi, hay lam hay
làm đầu quang mặt sạch, chẳng hay làm đầu rếch mặt dơ.
Hay mần (làm) thì đói, hay nói lại
no
Điều trái lẽ thường, nhưng lại phổ
biến trong xã hội bất công, thối nát: người lao
động chân chính thì nghèo đói, bọn quan chức chỉ uốn ba tấc lưỡi lừa bịp
thiên hạ lại no ấm, giàu sang. Mần (làm) chi lắm cho nhọc xác, mi
(mày) không chộ (thấy) kẻ hay mần thì lại đói nhăn răng, bọn hay nói thì
lại no nít (nứt)
nang (dạ dày).
Hay mần trôốc (đầu) quang mặt sạch,
Nhác mần trôốc rếch mặt trơ
X. Hay lam hay làm đầu quang mặt
sạch,
Chẳng hay làm đầu rếch mặt dơ.
Hay như cối xay lọi (gãy) cốt
(Cối xay tre gãy cốt thì vật
nghiêng, vật ngửa trong thùng, không xay được lúa). Sự không hay,
sự trục trặc dẫn đến ách tắc những việc khác Hay gì mà hay, hay như
cối xay lọi cột.
Hắn dại có ông vại (vải) hắn khun
(khôn)
(Ông vải: ông bà, cụ kị, tổ tiên)
. Không nên xem thường kẻ khác, nhất là những kẻ có thần thế.
Đừng gây sự với hắn, không bở mô (đâu), hắn dại có ông vại hắn
khun.
Hèn tru (trâu) hơn bạo (khoẻ) bò
X. Chút kít (cứt) đàn ông bằng một
công
đàn bà.
1 - Người phụ nữ dẫu khoẻ manh mấy,
sức lực cũng cũng không bằng người đàn ông có vẻ yếu đuối. Mi liệu mà
đi gánh thay cho chị mi, hèn tru đang hơn bạo bò.
2
- Sự kém cỏi của đàn ông cũng còn hơn sự tài giỏi của đàn bà (quan niệm
xưa). Thôi, việc nớ (ấy) bà đừng mó tay vô, để đó cho tui hèn tru
đang hơn bạo bò.
Hết gạo treo nồi Nghèo đói đến mức
đứt bữa.
Mẹ em hết gạo treo nồi,
Em còn trang điểm chạc
(dây) lưng sồi mần chi (làm chi)
KTCDXN , T. 2 , tr. 1 7 1
Hết mưa hết nác (nước) trọt
(Nước trọt: nước giọt gianh, chảy
thành rãnh cạn, mưa tạnh là nước cũng chảy hết) .
1 - Thu nhập thất thường hết công
việc là hết thu nhập. Cái nghề cửu vạn như bầy tui thì có bền
chắc chi mô, hết mưa là hết nác trọt
2 - Mất vị thế là hết lợi lộc
ông ta mất chức giám đốc lại lương ba cọc ba đồng như anh em mình thôi
hết mưa hết nác trọt mà.
3 - Sống nhờ vào người khác, khi
người ta thất thế thì hết chỗ cậy nhờ.
Ho như đóng nôốc (thuyền)
Ho to, liên tục, vang xa. Không
rõ hắn bị chi mà suốt ngày ho như đóng nôốc.
Hò voi bắn súng sậy
(Hò: đuổi đánh; súng sậy: súng trẻ
con làm bằng ống sậy một đầu bịt bằng loại hạt cây nhỏ, đầu kia có thanh
tre nhỏ, vót tròn làm pít-tông để nén hơi). Làm một việc quá lớn nhưng
năng lực và phương tiện quá yếu kém.
Họ Trương bạo cại (hay cãi),
Họ Nguyễn lắm ngài (người),
Họ Mai lắm của
Chỉ ba dòng họ lớn ở Thạch Hà, Hà
Tĩnh, mỗi họ đều nổi tiếng bởi một đặc điểm.
Hoạ may thì gặp, đợi chờ thì không
Ở đời cái ngẫu nhiên, tình cờ lại
hay đến, cái mong muốn, chờ đợi lại không mấy khi gặp.
Tình cờ sao khéo tình cờ,
Hoạ may thì gặp, đợi chờ thì không.
KTCDXN, T.l, tr.398
Hoành Sơn mây bá (bám),
Bàn Độ lấp mào (ngọn), thế nào cụng
(cũng)
mưa
(Hoành Sơn là dải núi cuối cùng của
dãy Trường Sơn ăn ra biển, chắn ngang đồng bằng duyên hải miền Trung,
tại địa phận huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Bàn Độ là một hòn núi lớn cũng tại
địa phận Kỳ Anh) . Kinh nghiệm về thời tiết của dân địa phương:
hễ thấy mây
bám lưng chừng dải Hoành Sơn hoặc
phủ lấp ngọn núi Bàn Độ thì trời ắt mưa.
Tranh thủ gặt hết đi bà con
Hoành Sơn mây bá,
Bàn Độ lấp mào, thế nào cũng mưa.
Hoọc (học) hư trự
(chữ)
Chỉ người học dốt, tiếp nhận kiến
thức sai lệch dẫn đến làm sai. Hoọc như mi
(mày) thì cũng hư trự.
Học trự (chữ) túi (tối) như hụ
(hũ),
Học đụ (tục) sang như đèn
(Hũ: đồ dùng bằng sành, đít nhỏ,
miệng nhỏ thân phình, thường dùng đựng rượu. Vì cấu tạo như thế nên
trong lòng hũ rất tối).
1- Học tri thức khoa học thì không
biết gì, nhưng học những thao tác của hành vi bản năng thì rất thông tỏ
.
2 - Học cái hay cái tốt thì khó,
học cái dở cái xấu thì dễ.
3 - Học hành thì dốt nát, nhưng lại
rất thạo sự đời. Cái thằng con nhà ông thì học trự túi như hụ, học đụ
sáng như đèn.
Học trò lo học, cày rọng (ruộng) lo
cày
Mỗi người một nghề, ai nấy phải
chuyên cần chăm chỉ.
Học trò thì lo học,
Nhà cày rọng thì lo cày.
Sự hay hoá không hay,
Hay chi đồ kiện bọng.
KTVXN, T.5, tr.537
Hôi như quẹt ruốc
X. Hôi như trúm.
Hôi như ruốc (mắm) rạm
X. Hôi như trúm.
Hôi như trúm
(Trúm: dụng cụ đánh bắt lươn đan
bằng tre, hình ống, đầu to đầu nhỏ; đầu to đặt hom, đầu nhỏ để trống.
Khi bẫy, người ta bỏ cua hoặc giun vào đầu nhỏ và nút kín lại dúi xuống
bùn. Lươn ngửi thấy mồi chui vào hom, mắc bẩy). Do dùng mồi và ngâm nước
nhiều lần nên trúm rất hôi thối đến
mức ngửi thấy mùi đã khiến người ta buồn nôn. Ngài (người) ngợm chi
mà hôi như trúm.
Hội Thống lắm tiền,
Xuân Viên lắm ló (lúa),
Tiên Điền lắm quan
Hội Thống (nay là Xuân Hội), Xuân
Viên, Tiên Điền là những làng nổi tiếng của huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh)
ngày xưa. Dân Hội Thống thì giàu nhờ nghề biển và buôn bán, lắm tiền;
dân Xuân Viên thì giàu về lúa gạo; còn Tiên Điền là đất văn vật nhiều
người học hành đỗ đạt nên lắm quan
Hồng ngâm chuột vọc, người ngọc
ngâu vầy
(Ngâu: ma) Cái cao quý, sang trọng
bị hoen ố, hủy hoại (chủ yếu nói về người phụ nữ) .
Tiếc quả hồng ngâm để cho chuột
vọc,
Tiếc con người ngọc để cho ngâu
vầy.
Từ ngày mô đến nay,
Em sầu riêng không nói.
KTVXN, T.3, tr.453
Hột mói (muối) cắm (cắn) đôi
Quan hệ rất thân tình, đồng cam
cộng khổ từ việc lớn đến việc nhỏ. Hai ả ở với nhau đến hột mói cắm
đôi rứa mà giừ (bây giờ) có thằng cha nớ (ấy) đến là sinh chuyện.
Hơn một ngay hay một đều (điều)
1 - Sinh trước dù 1à ít thì cũng
khôn lớn hơn, hiểu biết hơn, có kinh nghiệm hơn .
2 - Làm việc gì đó
kịp
thời thì hiệu quả sẽ hơn hẳn.
Hớp tớp (hấp tấp) như cá rớp tháng
ba
(Cá rớp: một loại cá ở vùng biển
Nghệ An, sinh sản vào khoảng tháng ba. Trong thời kỳ sinh sản, cá rất
hiếu động). Chỉ những ai đó hấp tấp láu táu Đồ hớp tớp như cá rớp
tháng ba.
K
Kè nhè như che kéo mật.
(Che: công cụ để ép mía làm mật).
Khóc dai và lâu hoặc nói nhiều và lặp đi lặp lái gây cảm giác khó chịu
như âm thanh của che kéo mật. Nói gì thì nói gọn gọn thôi đừng có kè
nhè như che kéo mật.
Kẻ ăn dưả
có
cưa có đục,
Kẻ ăn dừa chập (đập) côộc (gốc) cơn
(cây) đa
Sự trớ trêu sự bất công trong cuộc
sống. Kẻ không cần lại có đủ thứ, người cần thì không có điều kiện,
phương tiện mà làm.
Kẻ Cài reo, kẻ Treo khóc
Kẻ Cài là dân làng Kiệt Thạch,
Thanh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh; kẻ Treo là dân làng Đậu Liêu, thị xã Hồng
Lĩnh, Hà Tĩnh. Do dãy Hồng Lĩnh chắn gió Đông Bắc nên mưa thì lụt
mà nắng thì hạn, trong khi đó dân
kẻ Cài chỉ cách đấy khoảng vài cây số thì mưa thuận gió hoà. Tình
hình thời tiết ra ri (thế này) chắc là
kẻ
Cài thì reo mà kẻ Treo thì khóc.
Kẻ Cài reo, kẻ Treo khóc;
Kẻ Treo khóc, kẻ Sóc reo
X. Kẻ Cài reo, kẻ Treo khóc.
Kẻ Giặm đục đá nấu vôi,
Miệng thì thổi lửa tay lôi rành
rành
Chỉ sự vất vả của nghề nấu vôi vùng
xung quanh lèn Hai Vai (kẻ Giặm), huyện Diễn Châu, Nghệ An.
Kẻ hay lo bằng kho kẻ hay mần
Đề cao vị trí của người tổ chức chỉ
huy, biết lo tính để công việc trôi chảy, thu được kết quả cao nhất.
Lấy chồng chọn kẻ hay lo,
Hay lo được việc bằng cả kho kẻ
mần.
Ca dao
Kẻ hay mua thua kẻ hay góp
Người hay mua nhưng không biết
bảo
quản, cất giữ thì tài sản tứ tán;
còn người hay góp thì tích luỹ, bảo quản được, sử dụng dài lâu nên tài
sản nhiều hơn. Làm đâu quăng đấy thì con mua mần chi, kẻ hay mua thua
kẻ hay góp đó con ạ.
Kẻ thì ưa cá đôồng (đồng) nấu khế,
Người thì ưa cá bể (biển) nấu dưa
Mỗi một sở thích, chẳng ai giống ai
nên rất khó chiều nhau. Ai tự lo cho người ấy thôi, kẻ thì ưa cá
đôồng nấu khế, người thì ưa cá bể nấu dưa, mần răng chiều cho được.
Kẻ Treo mổ mèo lấy cá
X. Kẻ Vọt mổ rọt thiên hạ.
Kẻ Treo nằm trên đoạn đường đèo đi
qua ven chân núi Hồng Lĩnh. Ngày xưa nơi đây rậm rạp, hẻo lánh, xa làng
mạc, đường đi lại khó khăn dân trộm cướp dựa vào địa thế đó để hành sự
Dân kẻ Treo mổ mèo lấy cá.
Kẻ ưa cua đồng nấu khế,
Người ưa cua bể nấu măng
X. Kẻ thì ưa cá đồng nấu
khế người thì ưa cá bể nấu dưa.
Kẻ Vẹt đánh trống đì đẹt, bỏ chùa
không thưng
(Kẻ Vẹt: tên nôm của một làng, nay
vẫn gọi là xóm Kẻ Vẹt, thuộc xã Việt Xuyên, Thạch Hà, Hà Tĩnh ngày nay).
Phê phán thói giả dối, trống chiêng thờ phụng nhưng lại bụt bỏ
chùa hoang.
Kẻ Vọt mổ rọt (ruột) thiên hạ
Kẻ Vọt: tên nôm của làng Bình Lãng
Hạ, nay thuộc phường Bắc Hổng, Thị Xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh. Tương truyền
dân Treo Vọt xưa thuộc loại ngược ngạo, đầu trộm, đuôi cướp.
Kẻ Vùn dáy (dạy) khun (khôn) hàng
xứ
(Kẻ Vùn: tên nôm của làng Yên Điểm,
nay thuộc xã Thịnh. Lộc, Can Lộc, Hà
Tĩnh. Gọi là kẻ Vùn vì nơi đay cát biển vun (vùn) lên một giải cát cao
hàng chục mét và dài hàng chục ki-lô-mét kéo từ đầu làng giáp làng Cương
Gián, Nghi Xuân đến cuối làng giáp xã
Thạch Kim, Thạch Hà. Dải cát này chắn biển như
một cái đê bao, dân nơi đây gọi là truông Vùn). Dân kẻ Vùn sống bán ngư
bán nông, nghèo nên hay đi tha phương cầu thực vì thế mà khôn hơn dân xứ
khác. Nhởi (chơi) với dân kẻ Vùn là khó đấy, kẻ Vùn dạy
khun hàng xứ chứ chẳng thường mô (đâu).
Kéo gộ thì phải có đà,
Đụ chắc phải có đàn bà nắt lên
Phải biết phối hợp đồng thời với nhau trong
công việc thì hiệu quả mới cao.
Kẹo thì ít con nít thì nhiều
X. Cứt một bại, chó một bầy.
Kết chắc một bọn
Đoàn kết thành một khối thống nhất.
Mỗi người mỗi nước mỗi non
Kết chắc một bọn như con một nhà.
KTCDXN, T2, Tr. 240
Kê chớ lông (trồng) già,
Cà chớ lông (trồng) non
Kê trồng già, cà trồng non thì kém năng suất.
Kêu như kêu đò
Nhỡ đò phải kêu to người ta mới nghe thấy vì
đò đã sang bên kia sông hoặc đã cách xa bến. Kêu to và nhiều lần mà vẫn
không có hiệu quả. Ngủ chi mà kêu như kêu đò vẫn không dậy.
Khai như nác đấy (nước đái) bò
Mùi khai rất khó chịu.
Khải (gãi) nhằm (đúng) lộ (chỗ) ngá (ngứa)
Đạt được điều đúng với sở thích, yêu cầu.
Mi nói đến chuyện nớ thì khải nhằm lộ ngá của hắn rồi, hắn phun ra hết
cho coi.
Kháp (gặp) mặt bằng tiên kháp (gặp) rồng
Vui mừng, phấn khởi khi gặp được người thân
thiết, ý hợp tâm đầu.
Bấy lâu vắng mặt đeo phiền
Bây giờ kháp mặt bằng tiên kháp rồng
KTCDXN , T 1 , Tr. 3 3 1
Khát khô hàm rát họng
Ở trạng thái quá khát.
Khát khô hàm rát họng
Ca nước nóng: một hào
Bạn thân thiết muốn trao
Phải thông qua thầy Bát
Phải trông chừng thầy Bát.
HGNT, tr. 281
Kháu như chó cúc
Trẻ em xinh xắn, hiền ngoan giống như những
con chó nhỏ. Thằng cu ni
kháu như chó
cúc.
Khăm (cắm) đụa không bổ (ngã)
Đậm đến mức như đông đặc lại. Đọi nác
(nước) chè em múc ra Khăm đụa vô không bổ.
HGNT
Khất lần khất lựa
Trì hoãn việc trả nợ, hoặc việc đáp ứng yêu
cầu của ai đó theo như đã hứa. Có mấy trăm bạc nợ mà không chịu trả,
cứ khất lần khất lựa mại.
Khe Đá Hàn lắm nác, khe Đá Bạc lắm rêu
Khe Đá Hàn, khe Đá Bạc là những con khe ở Kỳ
Tân, Kỳ Văn huyện Kỳ Anh. Khe Đá Hàn nổi tiếng nhiều nước (hiện đã có
đập thủy lợi), khe Đá Bạc thì lắm rêu.
Khéo ăn, khéo nói, khéo gói, khéo mở
Chỉ hạng người khôn khéo, cái gì cũng hay, làm
cái gì cũng khéo léo. Khéo ăn, khéo nói, khéo gói, khéo mở như con
người
ta mà chưa ăn ai nữa là cái thứ hậu đậu như mi
(mày).
Khéo ăn, khéo nói khéo dói, khéo dắm
X. Khéo ăn, khéo nói, khéo gói, khéo mở.
Khéo ăn,
khéo nói, khéo trói, khéo mở
X. Khéo ăn khéo nói, khéo gói, khéo mở.
Khéo bán khéo mua vẫn thua người khéo nói
Người mua bán sành sõi vẫn thua ngươi giỏi
nói, giỏi phỉnh phờ, tán tỉnh. ở đời nhất cái anh dẻo mỏ (dẻo mồm)
thôi, khéo bán khéo mua vẫn thua người khéo
nói bà chỉ nhỉ?
Khéo cày đầy đọi
Cần mẫn, chịu khó và biết làm ăn sẽ no đủ.
Lo gì cho mệt, khéo cày thì đầy đọi.
Khéo vá vai, tài vá nách
Vai và nách rất khó vá, phải là người khéo
tay, có kinh nghiệm mới vá đẹp được.
Khi áo gấm xông hương thì không có khách,
Khi quần dơ áo rách thì khách đến nhà
Tình huống oái oăm, bị động, khó xử.
Khi có thì chẳng ăn dè,
Đến khi giáp hạt thì ghè (đẽo) mô (đâu) ra
Kinh nghiệm chống đói của người xưa, ăn uống
phải biết tiết kiệm thì mới bảo đảm được số lượng lương thực tích trữ
phòng đói.
Khi đi gặp rắn thì son (may mắn),
Khi về
gặp rắn thì đòn đến lưng
Quan niệm mê tín dị đoan cho rằng đi gặp rắn
thì may mắn, về gặp rắn thì bị tai hoạ (gặp xà thì đi gặp quy thì về).
Khi đi không thẹn bằng khi trở về
1 - Giận dỗi đến đâu cũng đừng bỏ nhà ra đi
bởi dù thế
nào thì cuối cùng cũng phải trở về vì không
thể giận lâu được 2 - Quyết chí bỏ làng
đi làm ăn lớn nhưng chỉ sợ ra đi không
làm nên trò trống gì lại phải trở về trong thất bại. 3 - Cần phải suy
tính chặt chẽ trước khi hành sự. Đã ngăn rồi mà con nỏ nghe, khi đi
không thẹn bằng khi trở về, con chộ (thấy) chưa?
Khi măng không uốn, khi tre trổ vôồng
Không giáo dục con cái từ nhỏ lớn lên sẽ hư,
khó dạy bảo. Con cái to từng mô hư từng nấy, đúng là khi măng không
uốn khi tre trổ vồồng.
Khi nào chuối nước nở hoa,
Cỏ gà nứt rệ (rễ) ấy là trời mưa
Kinh nghiệm dự báo thời tiết của dân gian.
Khi nào nhạn (nhãn) nở đầy hoa,
Kiến leo cột nhà, chạy lụt cho mau.
Kinh nghiệm dự báo thời tiết của dân gian.
Khi thì không có mà coi,
khi thì cả voi liền ngựa
Cái oái oăm,
thất thường trong cuộc sống, khi thì không có mà dùng, khi thì tràn ngập
thứ gì cũng có dùng không hết. Hội nghị bựa (bữa) ni (này) răng (sao)
mà lắm quan khách
rứa (thế)
không biết, thật là khi thì không có mà
coi, khi thì cả voi lẫn ngựa.
Khiếp như chó khiếp pháo
Sợ hãi quá mức trước uy thế, sức mạnh của
người khác.
Khoa tay vớt bọt lấy bèo
Chăm chỉ, chịu khó để vượt qua cảnh nghèo.
Mẹ ơi thương lấy rể nghèo
Khoa tay vớt bọt, lấy bèo nuôi nhau.
KTCDXN , T.1 , Tr. 335
Khoai chợ Lù, bù
(bầu) chợ Huyện
(Chợ tù ở
xã Hồng Lộc, chợ huyện ở xã Bình Lộc.
Các địa danh này đều thuộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Khoai chợ Lù và bầu
chợ Huyện vốn nổi tiếng là ngon.
Mời chàng quá bộ quê em,
Khoai chợ Lù, bù chợ huyện
Thua chi chả với nem quê chàng.
Ví phường buôn
Khoai lang nhằm chầu hơn lâu tháng
Khoai lang trồng đúng dịp, gặp thời
tiết thuận lợi thì sẽ phát triển nhanh, năng suất cao hơn là để lâu, đủ
ngày tháng.
Khoai lưng chum dệ (dễ) bót
(Khoai cắt lát phơi khô thường bỏ
vào chum để cất giữ cho kín, chống mốc và giữ được -mùi thơm) Khi chum
khoai còn đầy nếu lấy đi một ít sẽ rất dễ phát hiện nhưng khi đã vơi rồi
thì lấy bớt sẽ khó phát hiện. Những thứ ở tình trạng không còn nguyên
vẹn nữa, đã sử dụng rất dễ bị người khác lợi dụng, trộm cắp. Tục ngữ
thường chỉ người đàn bà đã có gia đình (không còn trinh tiết) hoặc đã có
thai có thể "ăn nem" mà không bị phát hiện, hoặc không để lại hậu quả.
Cậu phải năng về nhà với vợ đàn bà xa chồng nhiều dễ có chuyện
không hay, khoai
lưng chum dệ bót mà.
Khoai La Mạc, lạc Cao Điềm,
Tiền Hạnh Lâm, mâm Văn Chấn, mấn
Cát Ngạn
Các địa danh trên ở Thanh Chương
Nghệ An. Mỗi nơi có một loại sản phẩm đặc trưng của mình.
Khoai năng mó, ló lúa năng thăm
Quan tâm, săn sóc thì hiệu quả sẽ
tốt hơn.
Khoai năng mó, vó năng thăm
X. Khoai năng mó, ló năng thăm.
Khoai năng (thường xuyên) ngó (xem
xét) ló (lúa) năng thăm
Kinh nghiệm trồng lúa và trồng
khoai. Khoai mà không thường xuyên thăm ngó thì chuột bọ, trâu bò phá
lúc nào không biết; lúa mà không thường xuyên thăm thì cạn nước, cỏ lấn,
sâu keo phá hoại lúc nào không hay. Mần (làm) nông thì phải nhớ rằng:
khoai năng ngó, ló năng thăm
Khoai to vồng (luống) lắm cổ (củ),
Độ ba lá dệ (dễ) vun,
Gà mất mẹ mau khun (khôn),
Gái đến thì mau nậy (lớn)
Kinh nghiệm sản xuất và xem xét sự
vật, con người (Trồng khoai luống to mới nhiều củ vun đậu phải khi đậu
ba lá mới vừa và tiện, gà con mất mẹ, phải tự kiếm sống, trưởng thành
nhanh, con gái đến tuổi dậy thì lớn phổng lên)
Khoai to vồng (luống) lắm cổ (củ)
Độ ba lá dễ vun,
Gà mất mẹ mau khun (khôn),
Gái đến thì mau nậy.
KTCDXN, T2, Tr. 48
Khoẻ như tru
(trâu),
ngu như lợn
Chỉ hạng người có khoẻ mà
không
có khôn, khoẻ mạnh nhưng đần độn.
Nó khoẻ như tru nhưng lại ngu như lợn
Khô như rơm tháng sáu
Rơm tháng sáu khô kiệt không còn
chút độ ẩm nào. Hàm chỉ sự cạn kiệt về tiền của, sự túng quẫn.
Khố ba quấn (cuốn), mấn (váy) ba
xoay
Kinh nghiệm ăn mặc của người lao
động: khố phải quấn đủ ba vòng mới chặt, váy phải xoay đủ ba vòng mới
buộc giải thì không bị dồn nếp gấp về một phía.
Khố các ôông (ông) ba quấn,
Mấn các mụ (bà) ba xoay.
Nhớ cẩn thận đừng sai
Kẻo mua cười cho thiên hạ,
Kẻo để cười cho thiên hạ.
Vè cố Thiệm
Không ăn không mần (làm), giờ dần
cụng (cũng) dậy
(Giờ dần: người xưa chia một ngày
đêm ra mười hai giờ (thập nhị chi) là: tý, sửu dần, mão, thìn, tỵ, ngọ,
vị, thân, dậu, tuất, hợi. Giờ dần tương đương khoảng từ 3giờ 30 đến 5giờ
30). .Chỉ nếp thức khuya dậy sớm của nhà nông nói riêng, của người lao
động nói chung. Phải tập dậy cho sớm con ạ, con cái nhà nông
không ăn không mần giờ dần cũng phải dậy.
Không chết cụng (cũng) hết hơi
Kết cục thất bại đã cầm chắc, khó
thoát được. Chuyến ni thì không
chết cũrg hết hơi.
Không chết nác (nước) đôông cụng
(cũng) chết nác (nước) rặc
(Nác đôông: nước lớn, nước lên; nác
rặc: nước xuống.)
Thế nào cũng chết, không nơi này
thì nơi khác, không lúc này thì lúc khác. Đây thường là một nhận định,
một lời doạ, lời chửi đối với kẻ dưới có tính không cẩn thận, liều lĩnh.
Mần ăn kiểu ni thì
không chết nác đôông cũng
chết nác rặc.
Không cho mần (làm) thầy thì khoóc,
Cho mần (làm) thầy thì đoọc nỏ ra
Ngu dốt, kém cỏi nhưng không tự
biết thân, phận, lại muốn tỏ ra minh hơn người, làm thầy thiên hạ, kết
quả là càng thêm nhục. Phải tự biết mình, đừng muốn làm những điều mà
năng lực mình không cho phép. Không biết thì mần thinh đi lại còn mần
bộ, rọ là:
Không cho mần thầy thì khoóc, cho
mần thầy thì đoọc nỏ ra.
Không cho nói thì khóc,
Cho nói như cóc táp ròi (ruồi)
X. Không cho mần thầy thì khoóc
Cho màn thầy thì đoọc nỏ ra.
Không có cá lấy rau má làm trọng
Ứng xử khéo léo mọi tình huống.
Không có lộ nẻ mà chui.
1 - Trạng thái ngượng ngùng vì cảm thấy mình
có lỗi với ai đó khi bất ngờ gặp họ. Bựa ni mình báo với thủ trưởng
là xin nghỉ ốm để trốn đi biển chơi ai dè lại gặp thủ trưởng dưới đó,
thật không có lộ nẻ mà chui.
2 - Bị thất bại, nhục nhã một cách bất ngờ
trước đông người khi mà trước đó vẫn vênh vang vì chắc thắng. Giá mà
có lộ nẻ chắc tà hắn sẽ chui xuống đó cho đợ nhục.
Không có tru (trâu) lấy bò mần nậy (lớn)
Tình thế khó khăn, không chọn được vật đúng
tiêu chuẩn, hoặc người đủ khả năng cáng đáng công việc đành phải lấy ép,
chọn ép. Ông ta lên được cái chức giám đốc rồi tưởng
thế là ghê gớm
chứ chẳng qua không có tru thì lấy bò mần nậy thôi.
Không có tướng mà có tinh
Bề ngoài tỏ vẻ hiền lành nhưng rất thâm hiểm.
Thằng nớ dòm rứa mà ghê gớm thật. Không có tướng mà có tinh .
Không có voi lấy trâu bò mần nậy
Vì thiếu người giỏi, vật tốt phải chấp nhận ở
mức vừa vừa, không thể cầu toàn được. Nỏ ai ngờ thằng An giừ mần chủ
tịch xạ, biết mần răng được, không có voi lấy trâu bò mần nậy thôi
Không lân không vôi thì thôi làm lạc
Lân và vôi là hai thứ hoá chất rất cần cho
việc trồng lạc. Lân thì … cho việc phát triển củ, vôi thì giúp khử phèn,
diệt sâu bọ. Bà con nhớ cho: không lân không vôi thì thôi làm lạc.
Không mắc trôốc (đầu) thì cụng (cũng) mắc tai
Chỉ hạng người tham lam mà ngu dại, nên trong
quan hệ xã hội luôn mắc tai vạ. Mần ăn ẩu tả như mi (mày) thì rồi
không mắc trôốc cũng mắc tai.
Không ngon cụng (cũng) bánh lá gai,
Dù anh có dại cụng (cũng) trai học trò
Bánh lá gai là bánh quý, người có học có hiểu
biết. Có học hành thì sẽ có hiểu
biết, khôn ngoan hơn là người không học.
Không ngon cụng (cũng) bánh lá dong,
Dù anh có dại cụng (cũng) dòng con quan
Bánh lá dong là bánh quý, con nhà quan là dòng
hiển đạt Con nhà quan dù dại
vẫn thuộc dòng giống thông minh hiển đạt hơn
là người thường.
Không phải bày cho đị xăn mấn
X. Vẹ cho đị xăn mấn.
Không to ngang cụng (cũng) nậy dọc
Không được cái này thì cũng được cái kia,
không uổng phí, vô ích. Gắng mà ăn đi con, ăn vô trong bụng không to
ngang thì ắt cũng nậy dọc.
Khu beo, tay giành
Gầy yếu quá mức.
Thương mình rọt
(ruột) tựa ống pheo
Cơm ăn chẳng được khu beo, tay giành
KTCDXN, Ti , Tr. 415
Khun (khôn) ăn mun (tro) lộn trú (trấu)
Chế giễu hạng người hèn kém, nhếch nhác lam lũ
nhưng hay khoe giỏi khoe è'hôn. Khun chi mi mà khun, khun ăn mun lộn
trú
Khun (khôn)
chết, dại chết, biết thì sôống
Trong cạnh tranh sinh tồn, dại thì đương nhiên
là dễ dàng bị lấn lướt nhưng khôn quá thì nhiều kẻ thù, có kẻ cao tay
hơn cũng dễ bị bóp chết. Chỉ có biết cách ứng xử khéo léo, mềm dẻo trước
vạn biến thì mới tồn tại.
Khun (khôn) chi trẻ, khoẻ chi tra
(già)
1- Trẻ thì có sức khoẻ nhưng lại
chưa có sự từng trải, thiếu kinh nghiệm sống, thiếu khôn ngoan; già thì
ngược lại có thừa khôn ngoan kinh nghiệm nhưng lại thiếu sức khoẻ.
2 - Chỉ những nghịch lý của đời
người mà các thế hệ phải biết kết hợp với nhau để khắc phục. Bọn bay
(chúng mày) mới mấy tuổi ranh mà dám khoe khun khoe dại, khun bay thì
khun chi trẻ, khoẻ choa (bọn tao) thì khoẻ chi tra.
Khun (khôn) cho người ta hại (hại,
sợ),
Dại cho người ta thương,
Dở dở ương ương người ta ghét
1 - Trong ứng xử, sự hiện hữu của
cá nhân phải được cộng đồng chấp thuận trong một trạng thái tích cực
nhất, nếu không cá nhân đó dễ bị cộng đổng cô lập 2 - Trong quan hệ xã
hội phải thành thực, phải biết mình biết người không thì dễ bị thiệt
thòi. Con khun thì khun cho người ta hại, con dại thì chịu dại cho
người ta thương, chứ đừng dở dở ương ương mà người ta ghét.
Khun (khôn) con hơn khun của
X. Con khun đẹp mặt mẹ cha,
Nhược bằng con dại nhuốc nha trăm
đàng.
Kinh nghiệm dân gian, con cái khôn
ngoan thì cha mẹ được nhờ, không chỉ giữ được của cải do cha mẹ để lại
mà còn ăn nên làm ra. Ngược lại thì dù của nhiều bao nhiêu con cái cũng
phá hết. Cứ lo làm giàu đi, rồi mấy thằng trời đánh nớ (ấy) hắn phá
cho mà coi, tao đã bảo là khun con hơn khun của mà có đem vô (vào) lộ
(lỗ) tai mô (đâu) .
Khun (khôn) như ma ranh
X. Khun nứt máu.
Khun (khôn) như ma trên đất
X. Khun nủt máu.
Khun (khôn) như tiên không tiền
cụng (cũng) dại,
Dại như chó có ló (lúa) cụng (cũng)
khun (khôn).
Mạnh vì gạo, bạo vì tiền: Có tiền
có của thì việc gì cũng làm được, thiên hạ ai cũng cầu cạnh ngợi khen.
Không có tiền của thì dẫu khôn ngoan đến mấy cũng bị người đời xem khinh
xem thường.
Khun như tiên không tiền cũng dại,
Dại như chó có ló cũng khun
Không tiền chịu thấp, chịu lùn,
Có tiền thì chúng xưng hung xưng
vương.
Vè chống
sưu
Khun (khôn) như tinh đến Giang Đình
cụng (cũng) mắc
Chợ Giang Đình ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh
nổi tiếng vì nhiều người buôn bán lọc lõi khiến nhiều người sành nghề
nơi khác đến phải thua.
Khun (khôn) như troi (giòi).
X. Khôn nứt máu.
Khun (khôn) nứt máu Quá khôn ngoan,
lọc lõi. Thằng cha nớ khun (khôn) nứt máu.
Khun (khôn) quá hoá ngu
Ở đời, mọi sự bất cập hay thái quá
đều không tốt. Khôn quá, cái gì cũng muốn tính cho toàn vẹn, chắc ăn mới
làm nhưng việc đời biến ảo khôn lường chẳng ai có thể biết trước được
cho nên kẻ quá khôn ngoan có khi lại hỏng việc.
Sự đời khun quá hoá ngu,
Đừng tham mà phải biết tu cho bền.
Ca
dao
Khun (khôn) sọi (sõi) đi rửa đọi
(bát) cho nạ dòng,
Hú ha hú hớ vớ bông hoa nhài
Sự chế giễu, mĩa mai đối với những
kẻ ba hoa, khoác lác khoe khôn khoe sõi mà cuối cùng phải chịu những hậu
quả xấu.
Khun (khôn) thì nỏ khun cho người
ta hại,
Dại nỏ dại cho người ta thương,
Cứ dở dở ương ương cho người ta
ghét
Người tính khí thất thường, khi thế
này lúc thế khác, tỏ ra khôn ngoan hiểu biết nhưng hành sự lại kém cỏi,
tính gàn dở rất khó chịu khi tiếp xúc Kiếm củi ba năm thiêu một giờ 1
- Tích 1uỹ thì 1âu, mà tiêu phá thì mau. Góp được mấy chục triệu
thằng con cá độ một trận bóng là truột chạc (đánh mất), đúng là kiêm củi
ba năm thiêu một giờ. 2 - Công lao gìn giữ phẩm hạnh cả đời mà chỉ
cần một lần trót dại là tiêu tan cả.
Kiến đen leo ngược, trời mưa như
trút,
Kiến đen xuống hang trời nắng chang chang
Kinh nghiệm dự báo thời tiết trong dân gian.
Kiêng cấy mà húp nác (nước)
Kiêng khem không triệt để hoặc giả vờ kiêng mà
thực chất vẫn ăn uống. Kiêng mà kiêng như
thế thì nỏ thà
không kiêng, kiêng cấy mà húp nác.
Kiềng sắt bén mun (tro)
Đến duyên, thành gia thất.
Khi nào kiềng sắt bén mun
Chàng hun (hôn) má thiếp thiếp hun má chàng.
KTCDXN , T.1 , Tr. 316
Kim đâm vô thịt thì đau,
Thịt đâm vô thịt yêu nhau suốt đời
Có quan hệ tình dục với nhau thì suốt đời
không bao giờ quên.
Kín tranh hơn lành gộ (gỗ)
(Tranh: Tấm kết bằng cỏ , tranh hoặc rạ dùng
để lợp nhà; lành: tốt)
1 - Gỗ không tốt mà tranh lợp kín tránh
được nước mưa ngấm vào thì bền hơn là gỗ tốt mà lợp không kín. Khéo giữ
gìn thì sẽ được bền lâu.
2 - Dù thô sơ mà đầy đủ tươm tất, kín đáo còn
hơn cao sang mà tuềnh toàng. Làm cái nhà lá đơn sơ nhưng
phên dậu gọn gàng, cửa nẻo đầy đủ là được kín tranh hơn lành gỗ anh à.
Kít (cứt) bại chó bầy
Sự cạnh tranh khốc liệt vì miếng ăn, ngôi vị
. . . Quá nhiều người cùng tranh một thứ nên bất chấp tất cả.
Thành ngữ hàm ý đả kích, phê phán mạnh mẽ. Có một cái chức nhỏ nhỏ mà
bao nhiêu là thằng tranh, đúng là kít bại chó bầy.
Kít (cứt) cá hơn lá rau
Phần bỏ đi của thứ ngon, quý cũng còn hơn thứ
tầm thường
Kít cá hơn lá rau,
Trây địt (rắm) hơn bò rôống,
ngài sôống hơn đôống vàng.
Kít (cứt) cụng (cũng) như rươi
Người ngu dốt không phân biệt được
đâu là tốt xấu, dở hay.
Kít (cứt) cụng (cũng) như rươi,
Ba bốn mươi cụng (cũng) như một
tiền.
X. Kít cũng như rươi.
Kít (cứt) dài hơn nác đấy (nước
đái).
Chuyện trái khoáy, ngược đời đảo
lộn trật tự thong thường Vô lí quá, kít dài
hơn nác đấy à
?
Kít ga (cứt gà) một nơi, bỏ mun
(tro) một chộ
Ngày trước, để dọn phân gà giữa
sân, nhà, người ta thường bỏ tro cho
hút
khô đi rồi quét. Kít ga một nơi bỏ
mun một nẻo: chỗ không có phân gà thì bỏ mun, chỗ có phân gà thì lại
không bỏ. Câu tục ngữ chỉ hạng người đểnh đoảng, bảo một đàng làm một
nẻo. Chết cha, tau (tao) đưa lạc đùm (gói) quà rồi, rứa là kít ga một
nơi bỏ mun một nẻo rồi.
Kít ga (cút gà) một nơi bỏ mun
(tro) một nơi
X. Kít ga một nơi, bỏ mun một
chộ.
Kít (cứt) người thì thúi (thối) kít
trục cúi (đầu gối) thì thơm.
Chăm sóc, nuôi nấng con người khác
thì cảm thấy ái ngại nhưng con mình thì chẳng nề hà gì.
Kít (cứt) nhảo đòi có chóp
Năng lực kém cỏi mà muốn có địa vị
cao sang, mơ ước hảo huyền; yêu cầu những thứ không thể có được, những
điều mà năng lực không cho phép. Cái thằng nớ dốt mà không biết thân
biết phận lại còn muốn trèo cao, đúng là kít nhảo mà đòi có chóp.
L
Lả (lửa) đỏ rưng còn bưng rơm đến
Người ta đang có xích mích không
tìm cách dàn Hòa lại khoét sâu thêm mâu thuẫn; kích động làm tăng thêm
sự tức giận của người khác trong lúc nóng nảy. Cậu nỏ ra răng cả,
người
ta đang nóng cậu lại nói thế hóa ra
lả đỏ còn bỏ rơm thêm à?
Lạc Đồng Chợ, vợ Kim Chùy
Đồng Chợ và Kim Chùy là tên hai
làng ở xã Tân Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Đồng Chợ thì trồng lạc nhiều, củ to
và rất ngon. Gái Kim Chuỳ rất đẹp, thanh niên các nơi thường đến Kim
Chuỳ dạm vợ
Lạc Đồng Chợ, vợ Kim Chùy,
Ai về Tân Lộc nhớ ghi câu này.
Ví phường
buôn
Lạc đàng (đường) bắt đuôi chó,
Lạc ngọ (ngõ) bắt đuôi tru (trâu)
Kinh nghiệm tìm
đường của nông dân; con trâu
nhớ ngõ không bao giờ nhầm lẫn, con chó thì không bao giờ lạc đường.
Lạc đàng bắt đuôi chó,
Lạc ngọ bắt đuôi tru.
Chỉ giống người là ngu,
Đi biệt mông chi xứ,
Đi mịt mù viễn xứ.
Vè cố Thiệm
Lai nhai như chó nhai giẻ rách
Chỉ hạng người nói dai, nói dây dưa
chuyện này ra chuyện khác làm người nghe khó chịu. Cái ông ni (này)
nghe mô (đâu) học hành cũng cao mà nói chuyện thì cứ lai nhai như chó
nhai giẻ rách.
Lại (lưỡi) không xương nhiều đường
lắt léo,
Lồn (tục) không vành 1ồn méo tứ
tung
Sự nhiễu nhương, quay quắt của
người đời trong quan hệ đối nhân xử thế, long người hay đổi trắng thay
đen.
Làm anh, làm ả (chị) phải nhả miếng
ăn
Làm ả phải ngả mặt lên.
Làm anh làm chị phải biết nhường
cơm sẻ áo, nhường nhịn mọi thứ cho em út. Mình còn nghèo nhưng làm
anh làm ả phải nhả miếng ăn mẹ nó ạ.
Làm cho lắm, tắm ở trần
Mọi cố gắng của con người xét ở một
góc độ nào đấy là hư vô. Giàu sang, nghèo hèn, ung dung nhàn hạ hay
quăng quật vật lộn với đời đều thế cả, đều không tự phân biệt với nhau ở
một số sinh hoạt hoặc tư thế nào đó của con người (Hơn nhau tấm áo manh
quần,
thả ra mình trần ai cũng như ai).
Bôn ba vừa vừa thôi con ạ, làm cho lắm, tắm ở
trần.
Làm quan có mả thổi lả (lửa) có nòi
Theo quan niệm phong thủy ngày xưa,
thì việc phát đạt trong làm ăn, danh vọng là do mả tiền nhân táng dược
huyệt đất tốt, nghĩa là có phúc đức nhân quả mới gặp được may mắn
ấy. Thổi lả là lấy từ câu thổi lả
cháy mồm, ám chỉ kẻ hay ăn không nói có, đâm bì thóc chọc bì gạo. Thổi
lả có nòi, tức là kẻ hay đơm đặt, xúc xiểm vốn sinh trưởng trong một gia
đình có truyền thống như thế. Cậu đừng chơi với hắn mà có ngày gặp
rắc rối đấy,
hắn là kẻ lắm chuyện, thổi lả có
nòi đấy.
Làm quan có tướng, hát xướng có nòi
X. Làm quan có mả thổi lả có nòi.
Người làm quan phải có tướng mạo
phi phàm, kẻ thích hát xướng là do gia đình có truyền thống này. Làm
quan phải có tướng, hát xướng phải có nòi chứ mi (mày) tưởng ai cũng làm
được hay sao?
Làm ruộng thì ra, làm nhà thì ốm
Quan niệm dân gian cho rằng làm
ruộng thì ăn nên làm ra, con người cũng khoẻ ra, còn làm nhà do động đến
quỷ thần nên thế nào cũng bị hạn, bị ốm. Làm ruộng quanh năm không
sao, lần này làm nhà xong, nó ốm một
trận thập tử nhất sinh.
Làm thông một nhà, làm gia cả họ
1 - Chỉ quan hệ thông gia họ hàng
truyền thống ở nông thôn. Làm thông gia với một gia đình cũng là làm
thông gia với cả họ nhà người ta.
2 - Quan hệ phong phú, phức tạp ở
các cộng đồng nông thôn truyền thống: các mối quan hệ theo một hệ thống
dây chuyền, chằng chịt vào nhau. Làm thông gia cũng đến là vất vả ông
ạ, làm thông một nhà, làm gia cả họ.
Lang dưa, nưa mói (muối), chói mật
Củ chói như củ khoai nước, khoai
môn sáp, nấu lên chấm mật ăn rất ngon. (Khoai lang ăn với dưa muối, củ
nưa khi luộc người ta thường bỏ một dúm muối vào luộc ăn mới đậm).
Lang đuôi thì bán, ló trán thì cày,
bạc mày đánh thịt
Kinh nghiệm chọn bò.
Làng ra răng (làm sao) xạ năng ra
rứa (như thế)
(Làng như thế nào thì mình như thế
như thế ấy). Chỉ sức ép gần như tuyệt đối của cộng đồng nông thôn đối
với sinh hoạt của mỗi gia đình, mỗi cá nhân. Thôi, đừng có nhởi trác
tạc lắm, chú phải nhớ là làng ra răng xạ năng ra rứa.
Làng thương hơn nương rao
Trong cộng đồng nông thôn, cuộc
sống của mỗi thành viên sẽ rất an toàn nếu giành được sự đồng thuận của
cả cộng đồng, ngược lại thì dù tường cao hào kín cũng sẽ sống không
yên ổn. Mần chi (làm gì) cũng
không
bằng được làng xóm thương yêu, làng
thương hơn nương rào mà.
Làng xuôi xuôi với làng
Phải theo tập thể, Hòa mình với tập
thể, cộng đồng, không nên cưỡng lại ý kiến của cả tập thể.
Lành mần gáo bể (vỡ) mần môi (muôi)
Thái độ không còn nhẫn nhịn được
nữa; hành động quyết liệt mà không cần tính đến hậu quả. Dừ (bây giờ)
tui không nhịn nữa lành mần gáo, bể mần môi (muôi) .
Lành mần (làm) thúng thủng mần
mê
X. Lành mần gáo bể mần môi (muôi)
Lanh chanh như hành không mói
(muối)
Hay lanh chanh, nói năng làm lụng
có vẻ nhanh nhẩu nhưng thực chất lại đoảng.
Con bé ni (này) đến mô (đâu) cũng
lanh chanh như hành không mói.
Lao động vất vả, nằm ngả vinh quang
Sự bất mãn của những người lao động
chân chính trước những kẻ ngồi mát ăn bát vàng. Người lao động thì lam
lũ, vất vả kẻ ăn không ngồi rồi thì tận hưởng mọi vinh hoa phú
quý ở đời này lắm cái quá quắt,
người lao động thì vất vả gian truân, kẻ nằm ngả thì hưởng vinh quang,
sung sướng.
Lao xao
như bồ chao bể ổ (vỡ tổ)
(Bồ chao: chim gần giống khướu) mất
trật tự, nói năng lộn xộn, ầm ĩ, không ai nghe ai.
Người
nói phải có
kẻ nghe, đừng có lao xao như bồ
chao bể ổ.
Lao xao như chợ Chào mất mấn
(Chợ Chào, chợ vùng Kỳ Thọ, Kỳ Văn,
Kỳ Thư huyện Kỳ Anh) Chợ vốn đã quá ồn ào, lại có thêm sự kiện lạ mất
mấn (váy) nữa thì càng ồn ào tợn. Hàm chỉ cảnh tượng quá ồn ào, mất trật
tự
Lạt như cần nấu suông
Tình cảm, quan hệ quá nhạt nhẽo như
canh rau cần nấu suông .
Khi
xưa đằm thắm muôn phần
Bây giờ đã lạt như cần nấu suông
KTCDXN , T2 , Tr. 317
Lạt như nác mánh (nước miếng)
Rất nhạt, gần như không có vị gì.
Lạt tre mợ (mỡ) nợ kẻ khó
Tre mợ dẻo dai, buộc chặt, lâu bền;
còn nợ kẻ khó dai dẳng, khó đòi.
Lau chau như hau hau được nác
(nước)
(Hau hau: cá lòng tong, loại cá nhỏ
hay sống ở các mương nước. Lúc nào có nước về là loại cá này rộ lên
tranh nhau đi đón nước) (Chỉ đám đông) tranh giành nhau trong trạng
thái hỗn độn mất trật tự. Bựa ni (bữa
nay)
cả bọn lau chau như hau hau được
nác.
Lau nở trời hanh, lách nở trời oi
(Lách: một loại cỏ thân ba cạnh
thường mọc ở chổ có nước. Lau: một loại cây cùng với họ mía, mọc hoang
thành bụi, thân xốp hoa trắng tụ thành bông). Kinh nghiệm dự báo
thời tiết qua quan sát hiện tượng nở hoa cuả cây lách và cây lau. Hoa
lau nở trắng như
thé này chắc trời hanh.
Láu táu như cháu ông Bôi
Một dạng láu táu.
Lạy khu (đít) cao hơn trôốc
Van lạy một cách rối rít, cuống
quýt vì quá lo sợ. Mình
doạ cho hắn một trận hắn lạy
khu cao hơn trôốc .
Lắc
ngắc như cặc sợ (thợ) cưa
Thợ cưa lúc cưa gỗ cả ngưởi phải
chuyển động theo nhịp rút đẩy cưa trong đó bộ hạ là vật giao động nhiều
nhất. Mi (mày) mần chi thì mần cho ra hồn chứ đừng lắc ngắc như cặc
thợ cưa.
Lắc xắc như ắc xắc vô bụi
Thiếu sự đoàn kết, nhất trí, nhường
nhịn nhau. Anh em nhà nớ khi mô cũng như lắc
xắc vô bụi tre.
Lăm xăm quần chằm áo vá,
Thong thả quần bả áo sô
X. Lật đật thì đất cũng đè,
Những người thong thả rượu chè
quanh năm.
Lằm rằm như dằm (dăm tre, gỗ) đâm
vô 1ồn
Chửi dai, chửi làu bàu suốt ngày vì
bức xúc tức tới một điều gì đấy Chẳng rõ tức ai mà cô ả suốt ngày cứ
lằm rằm như dằm đâm vô lồn
Lắm hàng rạng khách
Cửa hiệu mà lắm hàng thì khách sẽ
đến đông, có nhiều khách sang.
Lắm ló Xuân Viên, lắm tiền Hội
Thống,
Lắm nống (nong) Do Nha, lắm cà Lộc Châu,
Lắm dâu CẩmMỹ, lắm bị Kẻ Găng,
Lắm măng Kẻ Cừa, lắm bừa Trung Sơn,
Lắm cơn (cây) Yên
Xứ
Các địa danh trên đều thuộc Nghi Xuân, Hà
Tĩnh. Mỗi nơi có một đặc điểm riêng.
Lắm nghề xề (trề) mui (môi)
(Trề môi : đói trề môi) Biết nhiều nghề thì
không có nghề tinh, không có trình độ chuyên sâu do đó không thể làm
giàu được, mà chỉ làm đủ ăn để độ nhật, qua ngày.
Biết nhiều nghề không bằng một nghề cho tinh,
Lắm nghề chỉ tổ xề mui.
Lăng xăng như lằng (nhặng) bu cứt
Làm ra vẻ bận rộn, hăng hái quá mức; chạy tới,
chạy lui trước một sự việc nào đó (hàm ý mỉa mai). Ngồi yên cho
người
ta nhờ, mần chi mà cứ lăng xăng như lằng bu
cứt rứa.
Lăng xăng như thằng mới đến
Hăng hái, xông xáo giả tạo. Đứa ở mới đến cố
tỏ ra hăng hái
để lấy lòng chủ; người đến muộn khi người ta
đã vào việc cố xăng xái để đỡ ngượng.
Lăng xăng như thằng mới đến,
Trụn trượn (biếng nhác) như đứa lâu ngày
Thói đời, kẻ mới nhập cuộc thì lăng xăng tỏ vẻ
tích cực, nhiệt thành để lấy lòng, kẻ lâu ngày thì lười biếng, khệnh
khạng tỏ vẻ ta đây.
Lằng nhằng như chó lẹo chắc
Chỉ sự việc gì đó dây dưa, kéo dài, không giải
quyết dứt điểm và thái độ của người nói thể hiện sự bực dọc, không thiện
cảm. Có chừng đó mà mãi không xong, cứ lằng nhằng như chó lẹo chắc.
Lật đật thì đất cụng (cũng) đè
những người thong thả rượu chè quanh năm
Vội vàng, tất bật thường làm nhọc sức mà thất
bại; cẩn thận, cân nhắc, trù tính trước để chủ động thì khoẻ người mà
hiệu quả công việc sẽ cao, cuộc sống phong lưu, sung túc.
Lật đật thì đất cũng đè,
Những người thong thả rượu chè quanh năm
Ca dao
Lật đật như ma vật bà bóng
Quăng quật, quằn quại như người lên đồng bị âm
hồn về ám. Mi đi mô mà lật đật như ma vật bà bóng rứa
(thế)
Lâu ni nỏ ẻ đàng (ỉa đường),
Bựa ni ẻ đàng cả làng bắt được
Cả đời không làm việc xấu, nay (vì hoàn cảnh
bắt buộc) chỉ lần đầu làm việc xấu thì bị phát giác. Hàm chỉ người
không may mắn trong cuộc sống. Khổ cho tui, lâu ni nỏ ẻ đàng (ỉa
đường), bựa ni ẻ đàng cả làng bắt được.
Lấy chồng trửa (giữa) làng bằng vàng treo trửa
ngọ (ngõ)
Quan niệm xưa: lấy chồng gần nhà là sung sướng
hơn cả vì gần bố mẹ được nhờ
vả đỡ đần. Đây cũng là đặc điểm của văn hoá
lúa nước. Mi lấy được hắn là sướng nhất rồi, lấy chồng trửa (giữa)
làng bằng vàng treo trửa ngọ.
Lấy nhôông (chồng) mà treo cột nhà,
Đi sớm về tối cụng (cũng) là có nhôông.
Tình cảnh cay đẳng, éo le của người phụ nữ lấy
phải ông chồng vô tích sự.
Le le (vịt trời) xuôi về bể (biển) thì gió,
Le le lên ngàn thì mưa
Kinh nghiệm xem thời tiết dân gian: hễ thấy
vịt trời bay xuôi về biển trời sẽ nổi
gió lớn và ngược lại, chúng bay về hướng rừng
núi đất liền thì trời sẽ mưa to. Có chi khô khén thì cất đặt đi thôi
le le bay lên ngàn rồi.
Lè nhè như che kéo mật
X. Kè nhè như che kéo mật.
Lẹm cằm ăn nói đong đưa
Cong mui (môi) nói hớt, nói thừa tớt mui
Kinh nghiệm xem tướng phụ nữ của dân gian:
người lẹm cằm thì tính tình lẳng
lơ, nói năng đong đưa, điệu đà; người môi cong
thì hay hóng hớt chuyện thiên hạ; người tớt môi (môi trên ngắn hơn môi
dưới) thì hay đặt chuyên nói thêm, nói bớt. Đây là ba nét tướng xấu của
người phụ nữ mà đàn ông khi chọn vợ cần tránh.
Lên truông xuống động (núi)
Công việc quá vất vả, khó nhọc
Công việc gần xa
Lên truông xuống động
KTVXN, T6, Tr. 186
Lển nghển như thằng đến đạ (đã) lâu
X. Lăng xăng thư thằng mới đến
Trụn trượn như đứa lâu ngày.
Ló (lúa) có phân như thân có của
Lúa có phân thì tốt tươi, thân có của thì xênh
xang, sang trọng. Chăm bón phân
thì lúa mới chắc bông mẩy hạt, ló có phân như
thân có của bà con ạ.
Ló lổ (lúa trổ) lập hạ buồn bạ (bã) cả làng
Lúa trổ vào tiết lập hạ là tại lúa cấy quá
muộn, gặp nắng hạn cây lúa héo, bông
bị khô lép dẫn tới mất mùa. Năm ni (nay) ló
lổ lập hạ buồn bã cả làng.
Ló lổ (lúa trổ) thanh minh rung rinh cả xạ
(xã)
Lúa trổ vào dịp thanh minh, khí trời mát mẻ,
nắng vừa đủ độ cho lúa phơi mao, nên cầm chắc được mùa, làng xã tưng
bừng, phấn khởi.
Loay xoay như trâu dậm chạc mụi
X. Loay xoay như gà đau đẻ.
Loay xoay như gà đau đẻ
Trạng thái bối rối, không tìm được cách giải
quyết trước sự việc đòi hỏi bức bách. Mần chi (Làm gì) mà cứ loay
xoay như gà đau đẻ rứa.
Loằm ngoằm như Kẻ Trằm mất tru
(Kẻ Trằm: Địa danh thuộc huyện Diễn Châu, Nghệ
An) Thái độ bực dọc, chửi bới lầm rầm một mình như người Kẻ Trằm mất
trâu.
Lằm ngoằm như Kẻ Trằm mất tru
Lù rù như Kẻ Trù chết đói
Hay ăn hay nói là kẻ Vạn
Chài
Muôn người
lich sự, khoan thai
Thì đi về xứ Hai Vai mà tìm.
KTCDXN, T 1 , Tr. 415
Lóc bóc như cá tràu khe
(Cá trù khe: Cá nước ngọt cùng họ cá chuối
sống ở khe suối, nhỏ vừa, da đen, rất nhanh và phàm ăn, thấy mồi là đớp
ngay). Chỉ người tính khí thiếu kiên nhẫn, thận trọng, khiêm tốn. Cái
thằng nớ lóc bóc như cá tràu khe.
Lóc xóc không bằng góc rọng (ruộng)
Bôn ba chạy đôn chạy đáo kiếm ăn không bằng
làm ruộng, làm ruộng là chắc ăn
hơn cả. Mi (mày) buôn bán lóc xóc không
bằng một góc rọng nhà hắn.
Lọc kít ga lấy tấm
Quá keo kiệt, bủn xỉn. Đừng nhởi với con
nớ, hắn là đứa lọc kít ga lấy tấm .
Lọc lừa vơ bừa rụng răng
Quá kĩ lưỡng trong kén chọn, cứng nhắc theo
những tiêu chuẩn quá cao để mất cơ hội thành ra lỡ làng, ế ẩm lại vơ
phải thứ kém chất lượng. Lấy ai thì lấy đi đừng kén chọn mại lọc lừa
vơ bừa rụng răng đó con ạ.
Long (lỏng) cơn đổ cối
Tinh trạng bị hối thúc, thúc ếp mạnh không còn
giữ được yên ổn nữa. Con nớ hăn mần cho long cơn đổ cối.
Lòng sông dạ bể
Rất khó tìm hiểu, dò đoán.
Trách lòng sông dạ bể
Nước khi ngược khi xuôi
Gỗ lim nặng cứ chuồi
Nằm dưới lòng sông mại
Nằm dưới cầu đó mại
KTVXN, T5, Tr. 232
Lót lét như thằn lằn mùng (mồng) năm
(Thằn lằn mùng năm: tục truyền vào mùng năm
tháng năm là tốt sâu bọ, nên thằn lằn, rắn rất nhát) Bộ dạng nhát sợ,
lấm lét như đang làm một việc gì mờ ám mà mình không muốn. Bựa ni
(bựa nay) làm răng mà mi lót lét như thằn lằn
mùng năm rứa?
Lôn chôn như cồn cát nắng
Cồn cát nắng sẽ rất nóng, người đi chân trần
không thể đứng yên một chỗ mà phải nhảy chân liên tục. Chỉ tính cách vội
vàng, không chút bình thản trước mọi việc.
Lồn nằm ngả (ngửa) cá xâu dọc
Tư thế bộc lộ rõ nhất các đặc điểm hình thể.
Lồn (tục) ở lổ cổ đeo hoa
Chỉ hạng người không có văn hoá, không hiểu
biết, sống kệch cỡm; cái xấu xa
không biết che đậy, cái cần thiết thì không
biết trang bị lại đi làm những việc phù phiếm. Làm đẹp mà không biết
cách gây nên tình trạng nực cười. Trước hết phải kín đáo, gọn gàng đã,
sau đó mới làm đẹp. Quần áo chưa có cái cho ra hồn để mặc mà lại dùng
son phấn, đúng là lồn (tục) ở lổ mà cổ đeo hoa.
Lơ ngơ láo ngáo như gáo múc dầu
(Gáo múc dầu: dầu là chất lỏng sánh nên rất
khó múc, người múc không quen, chân tay lúng túng làm dầu sánh, gáo tuột
khỏi tay) Chỉ hạng người đần độn,
hậu đậu, vụng về. Mi (mày) mần cái chi cũng
lơ ngơ láo ngáo như gáo múc dầu.
Lờ vờ như cờ không gió
Ngưòi chậm chạp, thiếu năng động, linh hoạt.
Lớ ngớ vớ được méng (miếng) ngon
Sự may mắn tình cờ. Cái thằng nớ lớ ngớ mà
vớ được méng ngon .
Lởi xởi trời cho, lo bo trời lấy
Sống vui vẻ, rộng thoáng với người thì sẽ gặp
may mắn, không thua thiệt về kinh tế và ngược lại. ăn chẳng dám ăn,
mặc chẳng dám mặc cuôí cùng để trộm
lấy sạch. Rõ là lởi xởi trời cho, lo bo trời
lấy.
Lớn tác (sức vóc) nhác mần (làm)
Chỉ hạng người sức khoẻ thì có nhưng chây lười
không chịu làm việc. Nó lớn tác thế nhưng nhác mần thì đại hạng.
Lớn thây trây việc
X. Lớn tác nhác làm;
Nhác thúi thây.
Lợn tám đòn không bằng gà con trong trứng
Kinh nghiệm ăn uống: ăn trứng gà lộn rất bổ.
Lớp tớp (hấp tấp) như chó đớp chuồn chuồn
Rất hấp tấp, thực hiện động tác một cách vội
vã nên dù làm nhiều lần mà vẫn không đạt kết quả. Mi mần chi mà lớp
tớp như chó đớp chuồn chuồn.
Lớp tớp như cá rớp tháng ba.
Thái độ dáng điệu láu cá, thiếu chín chắn,
đứng đắn. Lớp tớp như chó đội kiềng.
X. Lớp tớp như cá rớp tháng ba.
Lu bu như khu (mông, đít) thầy bói
Thầy bói thường mù, ngồi chợ thì bẩn cho nên
mông lúc nào quần cũng nhăn nhúm, lôi thôi lếch thếch. Không biết nó
ngồi trà trợt ở mô mà trông lu bu như khu thầy bói.
Lu lơ lúc lắc như be treo đầu cày
Trạng thái không ổn định; hành động, thái độ
không dứt khoát, rõ ràng. Mi lúc
mô cũng lu lơ lúc lắc như be treo đầu cày.
Lu mu như khu (đít) thầy bóỉ
Không đủ sáng để nhìn rõ mọi vật. Đèn dầu
chi mà lu mu như khu thầy bói.
Lúa đụn tiền kho
Giàu có, dư dật về của cải.
Những người lúa đụn tiền kho
Dạ bằng chạc chỉn (sợi chỉ) miệng to bằng
trời.
Những người đói rách tả tơi
Rộng lòng đùm bọc lấy
người sa cơ
(KTCDXN, Tl, Tr. 415)
Lụa chợ Hạ, chè Hương Sơn
Đây là những đặc sản của Hà Tĩnh. Chợ Hạ thuộc
làng Tùng ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Ở đây có làng dệt Tùng ảnh - Châu Phong
có truyền thống từ lâu đời. Lụa Hạ nổi tiếng trong nước, vừa đẹp, vừa
mát, vừa mềm lại rất bền. Hương Sơn là một huyện miền núi của tỉnh Hà
Tĩnh. Ở đây, chè nhiều và ngon. Ai về Hà Tĩnh thì về Mặc lụa chợ Hạ
uống chè Hương Sơn
KTCDXN, Ti , Tr. 198
Lụa tốt xem biên, người hiền xem tướng
Kinh nghiệm dân gian: Muốn biết lụa tốt hay
xấu thì xem biên, muốn biết người hiền hay dữ thì xem tướng mạo.
Lủi như chuột
Chui rúc lẩn trốn một cách nhanh chóng.
Lúng búng như ngậm hột (hạt) thị
Chỉ miệng nói không ra tiếng, nói mà ngậm hơi
trong miệng do đó nghe lung búng, lủm bủm. Sở dĩ như vậy là vì người nói
tức tối việc gì đó mà không dám nói ra. Thằng bé tức chi mẹ nó
mà cả buổi cái miệng cứ lúng búng như ngậm hột thị.
Lút lét như lằn mồng năm
Muốn vào nhưng e ngại, sợ sệt nên chỉ thập
thò, lẩn tránh ánh mắt người khác
vì có lỗi hoặc quá nhát. Đứa mô ngoài đó
răng không vô mà cứ lút lét như lằn mồng năm rứa.
Lừ đừ Yên Hợp, lớp tớp (hấp tấp) Thầy Cừ
Yên Hợp và Thầy Cừ là hai xóm của làng Kiệt
Thạch, xã Thanh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Yên Hợp là xóm đạo nên tác phong
con người khoan Hòa hơn mà bị nhận xét là lừ đừ chậm chạp; Thầy Cừ là
xóm làm nghề gỗ nên tác phong dân ở đây nhanh nhẹn có phần hơi hấp tấp.
Lưa hai tròng con mắt
X. Lưa (còn) xương với mắt.
Áo mặc lưa giẻ
Nón đội lưa mê
Mãn hạn ra về
Lưa hai tròng con mát
Chỉ thấy hai tròng con mắt.
KTVXN, T6, Tr. 45 1
Lưa (còn) xương với mắt
Quá gầy yếu trông như chỉ thấy xương và mắt.
Gẫm như mấy tháng trước
Có thịt có da
Mới sáu tháng
qua
Lưa xương với mắt.
KTVXN, T6, Tr. 1 88
Lừa đàng đón ngọ (ngõ)
Tìm kiếm, theo đuổi bằng mọi cách.
Nhân bất tri, nhi bất uẩn
Bất diệc quân tử hồ
Anh thương em rọt (ruột) héo gan khô
Thầy mẹ em
gả bán nơi mô
Anh cũng lừa đàng đón ngõ anh than vô vài lời.
KTVXN, T9, Tr. 59
Lừa như lừa con na (trẻ con)
Lừa gạt người dễ dàng bằng mánh khoé dỗ trẻ
con do chỗ xem thường hoặc không hiểu đối tượng, hoặc đối tượng bị lừa
quá khờ khạo Mi lừa tau như lừa con na.
Lưng cằng găng bụng
Trạng thái ăn uống no nê quá mức.
Đánh lưng cằng găng bụng
Ra nằm gáy ngủ phè
Chưa đến tiết mùa hè
Chó hác mồm le lại.
KTVXN, T6, Tr. 282
Lưng còng lòng mỏi
1 - Lao động vất vả, 1am 1ũ suốt cả cuộc đời
mà chẳng khá lên đươc, thậm chí
chăng đủ ăn đủ mặc. 2 - Mong đợi một cái gì đó
quá lâu mà không đạt được.
Bao nhiêu năm bà lão đã lưng còng lòng mỏi
mong thằng con trai đi làm ăn xa
chưa về.
Mẹ cha lòng mỏi lưng còng,
Rứa mà con quần là áo lượt đi rong suốt ngày.
Ca dao
Lưng đòn xóc bụng sọc dừa
Dáng người lười biếng, ít lao động. Cu nớ
lưng đòn xóc bụng sọc dừa, nhờ vả
chi dược.
Lưng như lưng oong đút (đốt)
Rất mỏi, rất đau tựa như bị ong châm vì cúi
người làm việc gì đó quá lâu Mần
được nửa sào cỏ ló mà lưng như lưng oong đút
rứa.
Lưng rồng mắt khánh vẻ vang,
đánh Đông Đông tạnh, đánh Đoài Đoài tan
Kinh nghiệm chọn gà chọi tốt
Lưng thắt đáy như con tò vò
Lưng rất eo, rất nhỏ. Trỏ dáng người rất đẹp.
Da em như đọt chuối non,
Lưng em thắt đáy như con tò vò
KTCDXN, T. 1 , tr.266
Lưng vốn chè trâm
(Chè trâm: một loại cây thuộc họ
cây hậu phác, vị đắng, tính hàn, thường được nông dân ngày
xưa
dùng để hãm nước uống. Nước hãm từ
loại chè này rất mau thiu) Vốn liếng giắt lưng quá ít ỏi, mỏng manh, rất
dễ trắng tay khi bước vào làm ăn. Lưng vốn chè trâm mà mi (mày) đòi
đi buôn gỗ hay sao ?
Lươn trùn (giun) ăn no trút nhớt vô
(vào) đúa (rổ)
(Lươn trùn: lươn còn nhỏ như con
giun đất; trút nhớt: chất nhầy ở da lươn vướng lại trong rổ) .
Hưởng hết của ngon vật lạ lại trút phần cặn bã, rác bẩn lại bắt người
khác chịu tiếng xấu.
Con lươn trùn ăn no hắn trút nhớt
vô đúa
Con cò ăn no hắn đập cánh hắn bay
Anh thương em ba vạn sáu ngàn ngày,
Cớ sao em bỏ ngãi, em rày quên anh.
KTCDXN, T. 1 , tr. 247
M
Ma hớp hồn không bằng lồn (tục) hớp
hơi
Phờ phạc, mất thần sắc, sinh khí,
ngẩn ngẩn ngơ ngơ do sinh hoạt tình dục quá mức. Cái thằng ni bựa ni
ngông phờ phạc quá, đúng là ma hớp hồn không bằng lồn hớp hơi.
Ma mô đòn chạc nấy
(Đòn: dụng cụ khiêng người
chết
chạc: dây buộc quan tài để khiêng
và đưa quan tài xuống huyệt). 1 - Hồn ma chỉ linh thiêng với ngưòi thân
thích, không liên quan đến người ngoài. 2 - Lễ nghi cúng ma tuỳ thuộc
vào phong tục, quan niệm của từng nơi, không nơi nào giống nơi nào.
Ma nhát không bằng ngài (người)
nhát
Hù doạ người khác bằng những cái
bịa đặt, không có thực tế, hoặc quá quan trọng hoá vấn đề làm chùn bước,
nhụt chí gây sự lo lắng không đáng có cho người khác. Đừng nghe hắn
doạ mà thôí chí ma nhát không bằng ngài nhát mô.
Ma nỏ thương ngài (người ốm),
Kẻ trộm nỏ thương ngài hèn
Những kẻ độc ác bất lương thì không
từ một ai. Phải cẩn thận, cảnh giác đề phòng kẻo mất mát đó, ma nỏ
thương ngài (người ôm), kẻ trộm nỏ thương ngài hèn mô con ạ.
Ma
trơi động trời
X.
Như ma trơi động trời.
Má hóp lưng còng
Thân thể tàn tạ vì làm việc quá vất
vả
Trời mưa cho ướt lá khoai
Thân tôi đi ở đã hai tháng ròng
Bây giờ má hóp lưng còng
Thân tôi lê lết ra đồng bắt cua.
KTCDXN, T2, Tr. 268
Mạ úa cấy lúa chóng xanh
Mạ để lâu lá bị úa nhưng đã ra rễ
mới cấy xuơng bắt rễ nhanh nên chóng xanh ví như người con gái quá lứa
lỡ thì hoặc tình duyên trắc trở sẽ có dư kinh nghiệm cùng ý thức để chăm
lo xây dựng gia đình hạnh phúc.
Mạ úa cấy lúa chóng xanh
Gái dòng chóng đẻ sao anh hững hờ.
KTCDXN, T.2,
Tr.
54
Mạ già ruộng ngấu
Đủ điều kiện tốt cho sự phát triển.
Tua rua thì mặc tua rua
Mạ già ruộng ngấu không thua bạn
hiền.
KTCDXN, T.2, Tr. 74
Mai mốt tốt ngày
Một ngày nào đó rất gần nhưng không
cụ thể là ngày nào là ngày tốt (theo quan niệm dân gian) để thực hiện dự
định, kế hoạch quan trọng.
Đến mai đến mốt tốt ngày
Bắt bò cao óng đi cày đất cang
Bắt o con gái nghềnh ngàng
Đan sọt cho chắc mà mang quách về.
KTCDXN , T.1 , Tr. 148
Mang (hoẵng) chết chó cụng (cũng)
le lại (lè lưỡi)
Săn được mang (hoẵng) thì chó cũng
không còn sức nữa. Hàm ý chỉ cả hai đối thủ tranh chấp sức lực gần ngang
nhau, kẻ tám lạng người nửa cân. Đừng có doạ, đây nỏ hại, mang chết
chó cũng
le lại thôi.
Mang
lạc mác làng
(Mang: hoẵng, mác:
sạt). Một quan niệm mê tín:
hoẵng chạy về làng (mang lạc) là điềm gở, làng sẽ gặp chuyện không
hay,
có sự chết chóc, tàn phá.
Mảng chơi, mảng nhảy
Ham mê chơi bời, đến mức quên mọi
thứ, lơ là công việc Con tui hắn còn mảng chơi mảng nhảy lắm.
Mảng chơi, mảng nhởi
X. Mảng chơi, mảng nhày.
Mát như ru
Mát mẻ và thoải mái.
Gánh mãi thần xúc xích
Vui vẻ thú tiều phu
Ngồi nghỉ mát như ru
Đề câu thơ thú vị
KTVXN, T2, Tr. 47
Mát rọt (ruột) mát gan
Cảm thấy hả hê, khoan khoái, thỏa
mãn trong lòng.
Năm ni cả hai thằng con độ đại học,
thật mát rọt mát gan.
Máu cà cưởng
(Cà cưỡng hay sáo sậu: sáo đầu
trắng, cổ đen, lưng màu xám, bụng trắng, kiếm ăn từng đôi ở các nương
bãi Hàn) chỉ tính nết nỏng nảy, bất chấp mọi chuyện,
không coi ai ra gì. Chưa nghe
đến đầu đến đuôi mà máu cà cưỡng của hắn đã
nổi lên rồi.
Máy mắt tay mặt tắc quái
Máy mắt tay trái được ăn
Quan niệm mê tín: có triệu
chứng giật mắt phải thường
là điềm không tốt, ngược lại
giật mắt trái là điềm tốt (sắp được ăn hoặc ai cho, biếu cái gì đó).
Ôi có mít chín thơm quá, nói răng mà mình máy mắt tay
trái.
Mắc như ga đạp chạc tóc
X. Như ga đạp chạc tóc
Mắc ổ (tổ) chuồn chuồn
Rơi vào thế bí, khó thoát ra thường
do những việc làm không đàng hoàng lại gặp .. phải mưu chước của
kẻ khác (hàm ý mỉa mai). Bọn con . trai làng ta mắc ổ chuồn chuồn của
bọn con trai làng bên rồi.
Mặc trời với rú Cao Vong
(Rú Cao Vong tức núi Cao Vọng, một
hòn núi ở huyện Kỳ Anh, tỉnh
Hà Tĩnh). Vô trách nhiệm,
không hề bận tâm, lo lắng đến những việc mà đáng ra là thuộc trách nhiệm
của mình. Đi suốt ngày nỏ hề biết chi đến việc nhà, mặc trời với rú
Cao Vong rứa .
Mắm troi bòi lông
Sự việc tự nhiên, tất yếu không thể
tránh được hay cưỡng lại.
Mặn miệng mất phần con
Ăn tiêu hoang phí sẽ không còn của
cải để dành lo cho con cháu.
Của trời chưa dễ
Để truyền tử lưu tôn
Mặn miệng mất phần con
Phải tu tâm sửa trí.
KTVXN , T5 , Tr. 452
Măng giang nấu cá ngạnh nguồn,
Tốt đồ gia giảm ông lái buôn cụng
(cũng) sèm (thèm) Măng giang nấu với cá ngạnh nguồn thì rất ngon. Hàm
chỉ : những thứ đơn giản, sẵn có, rẻ tiền mà biết cách chế biến thì
cũng làm nên giá trị.
Măng tháng chín thì nhịn cho chồng,
Cá rô tháng năm thì bằm cho chó
X. Cá rô tháng năm như dằm gỗ
lim.
Măng tháng chín, mùa thu, mưa
nhiều, khí trời mát mẻ, nên măng ngọt mà không đắng như măng mùa hạ.
Măng tháng chín nhịn cho chồng,
Chuối mùa đông thì quăng cho lợn
X. Măng tháng chín thì nhịn cho
chồng,
Cá rô tháng năm thì bằm cho chó.
Chuối mùa đông mưa nhiều nắng ít
không ngọt.
Mắt híp như lươn
Mắt gần như nhắm lại do cười thích
thú, thể hiện sự thoải mái, vô tư.
Ăn ở hiền lành
Là con chim cói
Dầu no dầu đói
Mắt híp như
lươn.
KTVXN, Tl, Tr. 108
Mắt mù lộ khu (lỗ đít) thì sáng
Tuổi tác đã cao, mắt đã kém nhưng
vẫn còn khá mạnh mẽ trong sinh hoạt tình dục. Thành ngữ thường dùng để
đùa tếu cho vui.
Tội nghiệp! tra nua rồi mắt thì mù
lộ khu thì sáng.
Mắt như cối đâm dam
(Cối đam dam: Cối nhỏ dùng để giã
cua đồng và nhiều đồ nấu khác). Mắt toét nhiều ghèn và bẩn thỉu.
Dòm hai con mắt hắn như hai cấy cối đâm dam,
gớm
chết đi được.
Mắt su (sâu) lộ đáo, ngài (người)
tóm dơ xương
(Lộ đáo: lỗ để đánh đáo).
X. Má hóp lưng còng.
Trời mưa cho ướt lá khoai
Thân tôi đi ở đã hai tháng rồi
Bây giờ quần tả áo tơi
Mắt su lộ đáo ngài thời dơ xương.
KTCDXN, T2,
Tr.
267
Mắt xước ngược
Mắt xếch lên trông dữ tợn, đáng sợ.
Loại ngài (người)
mắt xước ngược ra rứa, cho
nỏ nhởi (chơi)
Mặt bị rách
Người hay cau có, nhăn nhó làm cho
người khác phải khó chịu. Mang cái mặt bị rách như rứa mà tiếp khách
à.
Mặt bị thịt
Đần độn, vô tích sự; thô lỗ, trơ
trẽn đáng ghét.
Mặt lại cày
Mặt hoắt lại giống như lưỡi
cày.Theo quan niệm dân gian người có tướng như thế thường nanh nọc, ghê
gớm. Cái đồ mặt lại cày nớ thì tránh cho ngái (xa).
Mặt nhăn như khỉ ăn ruốc (mắm tôm)
Mặt nhăn nhó, cau có khi bất ngờ
gặp phải chuyện bực mình. Chưa đủ tiền trả nợ cho ả ta, mặt ả ta nhăn
như khỉ ăn ruốc.
Mặt như cấy (cái) vẹm
(Vẹm: họ trai, sống ở biển, dân
thường bắt về ăn thịt, lấy vỏ để làm dụng cụ xúc cơm, thức ăn thay cho
muôi, thìa). Mặt gầy, thô kệch và xấu
xí. Thằng nớ mặt như cấy vẹm.
Mặt như mặt đau ẻ (ỉa)
Mặt xệ xuống, nhăn nhó do bực bội, không thỏa
mãn (hàm ý đả kích). Nghe tui nói rứa mà mặt hắn như mặt đau ẻ,
rọ (rõ) ghét.
Mặt như mặt xạ đòi
(Xã đòi: bị chính quyền triệu tập vì lí do nào
đó). Dáng vẻ vừa lo lắng, sợ sệt vừa bực tức. Không biết có chuyện
chi mà trông mặt anh nớ như mặt xạ đòi rứa nỏ biết?
Mặt như mất sổ gạo
(Sổ gạo, sổ do nhà nước cấp cho gia đình cán
bộ công nhân viên thời bao cấp, nếu mất rất khó cấp lại). Hớt hơ hớt
hải, buồn bã, lo lắng đến phờ phạc như người mất đi tài sản lớn, nguồn
sống chủ yếu của gia đình.
Có chuyện chi mà mặt như mất sổ gạo rứa
?
Mặt như mèo ngoao
Mặt nhọ nhem, bẩn thỉu.
Tóc thì bỏ tríu
Bảy tháng không quào
Mặt như mèo ngoao
Răng thì không xỉa.
KTVXN, T4, Tr. 408
Mặt như mỏ trày (chày) đạp
Mặt vênh váo, dương dương tự đắc trông rất
đáng ghét. Vừa mới nghèo kiết xác nay có tí tiền mà mặt hắn đã vênh
như mỏ trày đạp
Mặt như rổ lận lại
X. Mặt bị rách.
Mặt tái như gà mái chó đòi. Tái mặt đi vì quá
sợ hãi.
Mặt vênh như bánh khô (tráng) phơi nam
Bánh tráng phơi nam bị khô quá nhanh nên bị
quăn, vênh rất xấu. Hàm chỉ người hay lên mặt vênh váo trông rất đáng
ghét.
Mặt vênh như mỏ trày (chày) đạp
Dáng mặt tỏ vẻ kiêu căng. Mặt vuông trự (chữ)
điền mà tiền nỏ có, còn ngài (người) méo mó thì có trự tiền. Hình thức,
tướng mạo không quyết định đến giàu nghèo, sang hèn.
Mặt vuông trự
điền mà tiền nỏ co,
Còn ngài méo mó thì có trự tiền.
HGNT
Mần ả (chị) ngả
mặt lên
Bậc ảnh chị phải làm gương cho em, phải đại
lượng, hướng tới cái lớn, không tranh chấp những thứ vặt vãnh với em út.
Con phải biết nhường
nhịn và mần gương cho em, mần ả ngả mặt lên mà con.
Mần cho lắm rồi cụng (cũng) nác mắm với dưa,
Mần vưa vưa (vừa vừa) rồi cụng (cũng) dưa với
nác mắm
Số phận không khấm khá thì khó lòng thay đổi,
cố gắng bao nhiêu cũng thế. Nghỉ cái cho khỏe đã, mần chi cho lắm.
Mần cho lắm rồi cũng nác mắm với dưa, mần vưa vưa rồi cũng dưa với nác
mắm.
Mần cượng (gắng) hơn ăn cượng
Công việc chưa xong cố gắng làm thêm thì nên,
ăn gắng thêm là điều nên tránh vì vừa lãng phí vừa có hại cho sức khoẻ.
Mần đị (đĩ) phải sắm giẻ lót
Làm bất cứ cái gì cũng phải cổ sự chuẩn bị,
phải có chi phí cho công việc. Hàm ý phê phán loại người thiếu chu đáo
trong công việc hoặc muốn được việc mà không chịu bỏ chi phí cho công
việc của mình. Cái nhà ả ni động việc chi cũng đi mượn, sắm lấy mà
mần với; mần đị phải sắm giẻ lót chớ.
Mần khi lành để dành khi ốm
Phải biết phòng thân. Khi khoẻ mạnh cố gắng
làm lụng và dành dụm để phòng lúc ốm đau. Cố gắng tiết kiệm lấy một
ít để phòng thân con ạ, đừng hoang phí quá mần khi lành để dành
khi ốm mà.
Mần mửa mật
X. Mần ọ tiết.
Mần nhao như bồ chao bể ổ (vỡ tổ)
X. Lao xao như bồ chao bể ổ (vỡ tổ)
Mần như ga (gà) loọc ba
X. Như ga (gà) loọc ba nác
Mần nhắt kít (cứt)
X. Mần ọ tiết.
Mần như chó liếm kít lá. Phân người ở vùng có
nhiều lá tre chó không thể liếm sạch được vì lá tre nhỏ. Phê phán thái
độ làm việc không chu đáo, cẩn thận, không đến nơi đến chốn.
Mần như kít (cứt) ba mưa một nắng
Làm ăn không ra gì, rất bầy hầy do năng lực
kém hoặc thái độ chây lười.
Mần như tru
X. Mần ọ tiết.
Ăn thì như chó
Mần thì như
tru.
KTVXN, T6, Tr. 222
Mần như tru báng chắc
X. Mần ọ tiết.
Mần như Yên Thống, sống cụng (cũng) như chết
Người Yên Thống lao động quả cực khổ, nặng
nhọc.
Mần ọ tiết
Làm việc quá vất vả đến mức tưởng như oẹ ra
máu. Mần
ọ tiết mà tiền công thì
nỏ ăn thua.
Mần phúc quá
tay, ăn mày mấy chốc
Giúp đỡ người
khác phải có chừng mực, tuỳ thuộc điều kiện của mình, nếu không, chính
mình sẽ rơi vào túng quẫn.
Mần quàng mần xiên
Hành động không có ý thức, mục đích; phản ứng
tiêu cực, mù quáng, manh động. Uống
riệu
vô rồi hắn mần quàng mần xiên rứa, đừng
chấp chi hắn.
Mần rể chớ nấu thịt tru (trâu),
Mần du (dâu) chớ rang cơm nguội
Thịt trâu nấu lên thì ngót đi, còn
ít hơn khi chưa nấu. Cơm nguội rang lên cũng vậy
Mần thì ốm, đâm cốm thì siêng
Công việc thì lười biếng nhưng ăn
uống thì hào hứng, săn sóc. Chộ con cái mà buồn, mần thì ốm đâm cốm
thì siêng.
Mần trầy vi tróc vảy
X. Mần ọ tiết.
Mấn cụt áo manh
Rất nghèo túng, khó khăn, thảm hại.
Anh thương em lắm em ơi
Đi ở nhà người, mấn cụt áo manh.
KTCDXN, T2, Tr. 200
Mất ăn không bằng mất ngủ
Giấc ngủ vô cùng quan trọng đối với
sức khỏe con người .
Mất cộ (cũ) chộ (thấy) mới
Mất cái này thì sẽ được cái khác
tốt hơn. Một lẽ thong thường là một vật thiết yếu đối với đời sống bị
mất đi không thể không
sắm lại cái khác. Đây cũng là lời
động viên chia sẻ đối với những người mất của. Thôi, mất cộ chộ mới,
lo chi.
Mất công cho mượn mất công đòi
Cho người khác mượn tiền hoặc đồ
đạc là chuyện bất đắc dĩ, cho mượn đã mất thời gian nếu gặp phải người
không biết điều, dây
dưa không chịu trả, phải đi đòi
nhiều lần thì rất phiền toái ả thật quá đáng, khi mượn thì hứa đủ
điều, đến khi người ta cần thì đòi năm lần bảy lượt
không
chịu trả, đúng là
cho
ả mượn mất công cho mượn mất công
đòi.
Mất của dại ngài (người)
Hành động thiếu cân nhắc, tính
toán, mất tiền mà chẳng giải quyết được việc gì cả lại còn cảm thấy bực
mình vì sai lầm. Cho hắn ăn rồi mà hắn nỏ biết điều, thật là
mất của dại ngài.
Mất một trự dự một quan
Máu cờ bạc, càng thua đau càng cay
cú và đánh to hơn.
Mất rọng (ruộng) mất trâu không
bằng sầu mất kít
Bệnh ỉa chảy rất nguy hiểm, người
bị bệnh phờ phạc, hốc hác, tàn tạ thậm chí mất mạng .
Mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng,
Mất tiền mua thúng thì đựng cho mòn
Tiền của bỏ ra mua sắm đồ đạc phải
tận dụng cho hết. Thái độ thể hiện quyền hành của người chủ sở hữu đối
với vật sở hữu. Tục ngữ thường hay dùng trong trường hợp đối xử với con
dâu: mất tiền cưới xin thì có quyền đày đọa. Đây là một quan niệm đã lạc
hậu, đáng phê phán.
Mây ấp rú Xước hứng nước cho mau
Kinh nghiệm xem thời tiết của người Quỳnh Lưu:
hễ mây ấp rú Xước là trời sắp mưa.
Mây kéo xuống bể thì nắng chang chang,
Mây kéo lên ngàn (rừng núi) thì mưa ôồng ôộng
(ồng ộng)
Kinh nghiệm xem thời tiết của dân gian: mây
kéo lên ngàn gặp núi chắn, hơi nước ngưng lại dày hơn thì trời sẽ mưa
lớn, còn mây kéo xuống phía biển là mây đã trút hết nước. Do đó, tuy có
mây kéo xuống nhưng trời lại nắng.
Mây kéo xuống bể (biển) trời nắng chang chang,
Mây kéo lên ngàn mưa như tran như trút
X. Mây kéo xuống bể (biển) trời nắng chang
chang,
Mây kéo lên ngàn thì mưa ôồng ôộng.
Mây lên ngàn nác (nước) tràn xuống bể
X. Mây kéo xuống bể thì nắng chang chang,
Mây kéo lên ngàn thì mưa ôồng ôộng.
Mây rú Hôống (núi Hống) dựng lên cao,
Dê ra ăn trự (trữ) thế nào cụng (cũng) mưa
X. Rú Hôống đeo đai,
Rú Cài đội mão;
Kẻ Cài reo,
Kẻ Treo khóc.
(Dê ra ăn trữ: dê vốn là loại động vật ăn cỏ
rất nhạy cảm với thời tiết, hễ cảm thấy sắp mưa thì thế nào chúng cũng
ăn gắng để dự trữ khi mưa dài ngày). Kinh nghiệm của dân địa phương,
thấy núi Hồng mây dựng lên cao theo sườn núi, dê đã quá bữa rồi mà vẫn
gắng ăn thì thế nào cũng mưa.
Mây vỏ trút thì mưa, mây nhả bừa thì nắng
Mây vỏ trút: mây hình vẩy con tê tê (còn gọi
là con trút con xuyên sơn); mây nhả bừa: mây gợn thành vệt trông như các
vết đất bùn dồn nếp sau đường bừa.
Mẹ cú con tiên
Chỉ hiện tượng người mẹ rất xấu nhưng đẻ con
lại xinh đẹp.
Mẹ đập một trăm không bằng cha ngăm một tiếng
Uy của người cha đối với con cái hơn mẹ rất
nhiều.
Mẹ ròn con khôn
Mẹ tần tảo, hi sinh thì con sẽ có điều kiện
khôn lớn, trưởng thành. Vất vả một tí
mà các cháu khôn lớn, trưởng thành thì em cũng
hạnh phúc lắm rồi, mẹ ròn con khôn mà.
Mèo đập bể nồi rang,
Chó chạy lại lại mang lấy đòn
Không may mắn, bị oan uổng, khốn khổ.
Con mèo đập bể nồi rang
Con chó chạy lại lại mang lấy đòn.
Chó ngồi chó khóc nỉ non
Mèo kia đập bể để đòn
cho tôi.
KTCDXN , T.2 , Tr. 208
Mèo què phải trận chó đòi
Đã yếu đuối khốn khổ lại gặp thêm hoạn nạn.
Đã khổ chưa trời, mèo què lại phải trận chó đòi.
Mẹo Tràng Lưu, mưu làng Hết
Làng Tràng Lưu, còn gọi là Trường Lưu, nay
thuộc xã Trường Lộc và Làng Hết nay thuộc xã Phú Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh.
Dân Tràng Lưu nổi tiếng mẹo mực, khôn khéo; dân làng Hết nổi tiếng về
mưu mô, kiện tụng.
Mẹp như tru
Nằm vầy chỗ bẩn. Tội nghiệp! Nỏ có ngài
dòm, thả hắn ra hắn mẹp như tru.
Mềm gan, mềm rọt (ruột), cơm ôi, mắm trường
Làm việc vất vả, ăn uống kham khổ.
Sinh ra cái kiếp con người
Thân tôi đi ở tội trời mà thôi
Đi về nước mắt đổ lộn mồ hôi
Mềm gan mềm rọt cơm ôi mắm trường
Cá trích thì được mút xương
Đọi thì đọi trẹt, nói thương nỗi gì.
KTVXN, T6, Tr. 190
Mềm như chuối chín
Rất mềm.
Mên (phên) thưa gió lọt
Cảnh nghèo túng, khó khăn, buồn tủi.
Đi ngang nghe tiếng em than
Mên thưa gió lọt trong gan não nùng.
KTVXN, Tl, Tr. 283
Mía có sâu thì mới ngọt,
Nhà có mọt thì mới yên
Có quan niệm cho rằng: cái gì quá hoàn hảo
thường không tốt mà phải có một
chút khiếm khuyết. Đây cổ thể là cách dùng
phép thắng lợi tinh thần của những
người có hoàn cảnh khó khăn, vất vả.
Mía ngọt đánh cả cụm
X. Mít ngon đánh cả xơ.
Mía ngọt nót ( nuốt) cả bạ (bã)
X. Mít ngon đánh cả xơ.
Mía ngọt nót (nuốt) cả cụm
X. Mít ngon đánh cả xơ.
Miệng cuốn như sên
Nói năng lèo lá, khi thế này lúc thế khác
không đáng tin cậy.
Nói phô em thêm lắm lịnh
Miệng em cuốn như cái mồm sên
Bởi vì em không
biết dưới biết trên
Nỏ biết già biết trẻ.
KTVXN, T4, Tr. 146
Miệng gàu dai, tai lá mít, đít lồng bàn
Kinh nghiệm chọn trâu. Trâu có những đặc điểm
trên là trâu tốt.
Mình ăn cơm phải để cho người ta ăn cháo
X. Uống nước phải trừa cợn.
Mình cuông (công), đầu cốc (bìm bịp),
Cánh vỏ trai, quản ngắn, đùi dài,
Ngón chân ba hàng vảy
Kinh nghiệm chọn gà chọi tốt
Mình tròn, đuôi vuốt cần câu
Lượi (lưỡi) thì có đém lẹ (lẽ) đâu không tài
Những đặc điểm của một con chó săn tốt.
Mình tròn, đuôi vuốt cần câu
Tai mỏng, mụi (mũi) ướt đòi (đuổi) thâu ba
làng
Chó săn có những đặc điểm trên tinh nhạy và
dai sức.
Mít ngon đánh cả xơ
Xơ mít là thứ đáng bỏ đi, ăn
xơ mít thì
không còn gì là lịch sự, không biết ý tứ,
giữ gìn. Tuy nhiên, người không có sĩ diện thì
vì them muốn có thể bất chấp điều đó. Hàm chỉ những người đàn ông lấy
luôn cả em vợ, bất chấp dư luận chê cười.
Mít ngon anh đánh cả xơ
Chị đẹp, em đẹp anh sờ cả đôi.
Ca dao
Mò khu (đít) không có kít (cứt)
Quá nghèo đói.
Mòn đàng chết cỏ
Đi lại quá nhiều quyết tâm theo đuổi, tốn công
sức nhưng không có kết quả.
Công anh lên xuống, xuống lên
Mòn đàng chết cỏ, nỏ nên chuyện gì.
KTCDXN , T2 , Tr. 2 5 2
Mỏng miệng mỏng mui (môi)
Tướng người chua ngoa, đanh đá. O cu Liên
là mỏng miệng, mỏng mui.
Mỏng mui thì nói đong đưa,
Dày mui thì nói lọc lừa chị em
Kinh nghiệm xem tướng: Người mỏng môi hay dày
môi (môi trề xuống) đều là những kẻ trở tráo, không thật thà
Mồ cha không khoóc (khóc), khoóc bôộng (tổ)
môối
Khóc lóc thương tiếc, bày tỏ tình thân không
đúng chỗ. Việc mình chưa lo xong lại lo việc người khác. Anh em ruột
rà thì đôí xử nỏ ra chi mà đi nhận anh em với
người ngoài,
đúng là mồ cha không khoóc, khoóc bôộng mối.
Mồ hôi đổ lộn nác (nước) mắt
Quá vất vả, khó nhọc do làm việc quá nhiều.
Vừa đi mần về mồ hôi đổ lộn nác mắt đã phải bị quát tháo rồi.
Mồ hôi trấy (trái) mây
Mồ hôi đổ ra đọng thành những giọt to. Quá mệt
nhọc vì công việc nặng nề. Sửa xong được cái máy mà mồ hôi trấy mây
toát.
Mổ mèo lấy cá
Nguời quá đanh đá, nanh nọc, ghê gớm không từ
một thủ đoạn nào. Đừng có trêu mệ nớ, hắn là đứa mổ mèo lấy cá
chứ không phải vừa mô.
Mồm bằng tay, tay bằng mồm
Rất nhanh nhẹn, hoạt bát trong giao tiếp, giải
quyết công việc. Cái ả Thiện nớ là mồm bằng tay tay bằng mồm, giỏi
thôi rồi.
Mồm lá đài (gàu múc nước), taí lá mít, khít
tam sơn
Kinh nghiệm chọn trâu tốt.
Mồm mửa khu ẻ (đít ỉa)
Trạng thái nguy kịch của người bị bệnh thổ tả
hoặc một số chứng bệnh khác.
Mồm ngài (người) nọc tắn (rắn)
Miệng lưỡi giả nhân giả nghĩa nhưng kì thực
tâm địa xấu xa. Hắn là đứa mồm ngài nọc tán, cần phải cẩn thận trong
quan hệ với
hắn.
Mồm nhà điếu mượn thuốc đi xin
Loại người keo kiệt, chỉ muốn sử dụng của
người khác không muốn bỏ ra thứ gì.
Mồm nhà điếu mượn thuốc đi xin
Diêm đánh thó, nỏ hề mất chi cả.
Mồm như mồm cá ngạo
(Cá ngạo: Cá nước ngọt thân dài, vây trắng,
đầu nhọn, miệng rộng và hếch lên). Miệng to, phàm ăn tục uống. Cả
mấy cái mồm như mồm cá ngạo, mấy cho đủ.
Mồm như mồm chó mực
Mồm rất đen, bẩn do ăn phải những thứ có màu
đen như quả sứn quả mua, mực...
Mồm như lồn (tục) trèo trẹ
(Trẹ: dốc núi). Hay nói, nói quá nhiều, nói đi
nói lại, chì chiết khiến người nghe rất khó chịu.
Mồm như mồm cá tràu
Mồm như mồm cá ngạo.
Mồm trém (lém) như vẹm cạo soong
Nói nhiều, liên tiếp, lặp đi lặp lại, lời lẽ
khó nghe gây cho người khác sự khó chịu. Đã mần sai rồi mà không chịu
nhận tại rưng (còn đang) mồm trém như vẹm cạo soong.
Mồm tu hú ăn lở rú lở ri
Má phổng, mồm nhọn là tướng ăn nhiều.
Môn nỏ (không) ra môn, khoai nỏ ra khoai
1 - Chỉ sự nhập nhằng, không rõ ràng do đó khó
xử trí khó phân định. 2 - Chỉ những thứ chẳng ra gì, không có giá trị
gì. Môn nỏ ra môn, khoai nỏ ra khoai, Đói ăn niêu mốt niêu hai như
thường.
Ca dao
Mống bạc sạc (sạch) đồng
Mống bạc thì lụt to, nước ngập đồng, mùa màng
thất bát.
Mống cụt không lụt thì bạo (bão)
Mống cụt xuất hiện thì không tránh khỏi lụt
bão.
Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa
X. Mống cụt không lụt thì bạo.
Mống đóng cửa lạch thì ló (lúa) bay khô
X. Sổ quàng Lạch cái đách cũng khô.
Mống đóng động áo lấy trào (sào) đo nác (nước)
Mống xuất hiện phía động áo thì lụt to.
Mống mọc đàng Đông, bồ không lại có
Mống mọc đằng Đông là dấu hiệu được mùa.
Mống mọc đàng Tây, bồ đầy lại lưng
Mống mọc đằng Tây thì mất mùa.
Mống rú Vạc, lạc cạc dọn lụt
Mống xuất hiện ở rú Vạc là dấu hiệu trời sắp
mưa lụt.
Mống Tả Ao trở trào (sào) không kịp
X. Mống động áo lấy trào (sào) đo nước.
Một cái lạ bằng cả xạ cái quen
Cái mới lạ bao giờ cũng hấp dẫn, nhất là trong
chuyện tình dục.
Một cơn mống bạc, một đạc nác (nước) xanh
X.
Mống bạc sạc đồng.
Một chồng một vợ nỏ sợ chi ai
Sự Hòa thuận yên ấm, hạnh phúc gia
đình là sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, cản trở.
Một chồng một vợ nỏ sợ chi ai
Em gánh nặng trên vai
Mệt em thì em nghỉ
Nhọc nàng thời nàng nghỉ.
KTVXN, T4, Tr. 4 1 1
Một đời tắm mát đeo hoa,
Một đời ẻ trịn (ỉa trây) cụng
(cũng) qua một đời
Sung sướng, phong lưu hay tạm bợ,
nhếch nhác thì cũng là một đời người cả.
Một
đời
tắm mát đeo hoa
Một đời ẻ trịn cũng qua một đời.
Một đứa cháu bằng sáu đứa kẻ cướp
Cháu chắt cậy quan hệ thân mật nên
tìm cách lợi dụng gây nhiều phiền nhiễu có khi cả tai hoạ. Khổ sở vì
mấy đứa cháu thật, đúng là một đứa cháu bằng sáu đứa kẻ cướp.
Một đường cày bằng một ngày cuốc
Dụng cụ, phương tiện tốt hơn thì
hiệu quả sẽ công việc sẽ cao gấp bội.
Một khoá đôi rương
Cảnh chồng chung vợ chạ.
Thương anh răng nỏ muốn thương
Sợ rồi một khoá
đôi rương khó chiều
Quý hồ em có lòng thương
Anh có lòng đợi như rương khoá rồi.
KTCDXN, Tl, Tr. 223
Một mệ (mụ, mẹ) đàn bà bằng ba bếp
lả (lữa)
Đặc điểm sinh lý của phụ nữ là thân
nhiệt dễ bị thay đổi nên khi ngồi gần đàn ông do bị kích động thần kinh
cảm giác, thân nhiệt tăng lên mà người khác giới
cảm thấy ấm nóng hơn.
Một ngài (người) mần (làm) quan cả
họ được cậy
Một ngài mần bậy cả họ xấu lây
Quan hệ huyết thống, dòng tộc hết
sức khắng khít, sự thành đạt hay sa ngã của mỗi thành viên có ảnh hưởng
đến uy tín của cả dòng tộc. Trách nhiệm của mỗi người là phải giữ gìn
gia phong. Cả họ dòm vô chú, chú phải mần răng giúp bà con, anh em
với. Một ngài mần quan cả họ được cậy đó chú ạ.
Một người nhà bằng ba người mượn
Người nhà, biết việc lại tự giác
làm việc hết mình, người mượn thường chỉ làm việc cầm chừng, không hiệu
quả.
Một người nhà bằng ba người mượn
Người nhà trụn trượn thì ngài mượn
nhác mần.
Ca dao
Một nụ cười bằng mười thang thuốc
bổ
Sống vui vẻ có tác dụng tốt cho sức
khoẻ, hơn cả thuốc men, tẩm bổ. Hãy cười vui lên đi, một nụ cười bằng
mười thang thuốc bổ đó.
Một rương vàng không bằng một nang
trự (chữ)
(Rương: hòm đựng đồ, nang : túi
đựng). Câu tục ngữ đề cao sự học, coi đó là vốn quý để lập thân
hơn mọi của cải trên đời.
Một tiếng cha bằng ba tiếng mẹ
Cha thường nghiêm khắc, mẹ hay chiều chuộng
nên con cái sợ uy cha hơn sợ mẹ. Bọ hắn đi khỏi là tui nói hắn nỏ
nghe, đúng là một tiếng cha bằng ba tiếng mẹ.
Một trái cà ba chén thuốc
Kinh nghiệm kiêng giữ lúc sinh đẻ
Một trăm đám cưới không bằng hàm dưới cá trê
Kinh nghiệm ăn uống: hàm dưới cá trê rất béo,
ngon.
Mở mắt là mở mồm
Nói nhiều và hay gây sự. Nhà bên nớ mở mắt
là mở mồm, điếc tai làng xóm.
Mới nảy mỏ hoét
Còn non dại, chưa biết gì, không đáng đếm xỉa
đến; còn nhỏ mà làm những chuyện thuộc về người lớn, chỉ người lớn mới
được làm. Mới nảy mỏ hoét mà Chưa chi đã tấp tỏng cưa
Mơờng (mừng) như cha chết sôống lại
Quá vui mừng, sung sướng vì gặp điều may mắn,
vượt qua được khó khăn, ngặt nghèo. Tội nghiệp! Cho hắn mấy lon gạo
mà hắn mơờng (mừng) như cha chết sôống lại.
Mụ o (bà cô) nhọn mồm
Chị chồng, em chồng hay xét nét chị, em dâu.
Thiệt khổ cho ả Thương, mần du đã gặp phải mụ gia khó tính lại thêm
mấy mụ o nhọn mồm .
Mua đất mà ở mua đàng mà đi
Làm những chuyện tốn công, vô ích. Răng mà
rắc rối nhiêu khê rứa, ai lại mua đất mà ở mua đàng mà đi.
Mua tranh bán cướp
Cậy thế mạnh bắt ép, dành dật của người khác
trong buôn bán. Khiếp cái cảnh chợ búa mua tranh bán cướp
Mua vải thì chọn đầu giàn,
Đừng mua đầu tút mà oan trự tiền
Kinh nghiệm khi mua vải. mua đầu giàn tốt hơn.
(Khi dệt vải, ở mỗi cuộn sợi dọc mắc lên hai đầu thường có hai đầu: đầu
giàn là chỗ bắt đầu dệt và đầu tút là chỗ dệt cuối cùng. Tấm vải thuộc
đầu tút phẩm chất xấu hơn vì thường dệt thưa).
Múa như cuông (công)
Nhanh nhẹn, tháo vát trong công việc.
Nằm đêm nghĩ lại
Vác rạ để ta chặt gốc muồng
Tay múa như cuông
Chân đạp gốc cây chọt đầu tủy
KTVXN, T2 , Tr. 511
Muốn ăn bầu trồng đầu tháng chín
Kinh nghiệm trồng trọt của dân gian: trồng bầu
vào tháng chín là thích hợp nhất
Muốn ăn cá nhồng lấy chồng kẻ bể (biển)
(Kẻ bể: người vùng biển, cá nhồng cá biển thân
tròn, lưng màu xanh, đầu nhọn, đuôi nhọn, thịt ngon và lành) Lấy chồng
vùng biển sẽ được sung sướng.
Muốn ăn cơm ngon lấy con nhà mót,
Muốn ăn canh ngọt lấy cháu nhà bắt cua
Con nhà đi mót, bắt cua tần tảo chịu thương,
chịu khó, siêng năng lao động. Chọn những người này làm vợ thì có cơm
ngon, canh ngọt.
Muốn ăn hoét phải đào trùn (giun)
Hoét (hét) : một loài chim lớn hơn chim sáo,
lông màu nâu, mỏ vàng, hay ăn giun, người xưa thường dung giun để làm
mồi bẫy hét. Hàm ý: muốn có thành quả tốt phải chuẩn bị, đầu tư công
sức, tìm đúng phương pháp phù hợp.
Muốn giàu đi bè, muốn què đi vật
(Đi bè: đi buôn miền ngược). Kinh nghiệm chọn
nghề: muốn giàu có, an toàn chọn nghề buôn bán, tránh xa những nghề đầy
rủi ro; nguy hiểm như nghề đi vật.
Muốn no cơm tấm, muốn ấm lả (lửa) sim
(Cơm tấm: cơm nấu bằng tấm; lả sim: lửa đốt
bằng cành sim một loại cây nhỏ mọc ở trên các đồi núi, lửa rất đượm).
Kinh nghiệm chống đói và chống rét của người nông dân nghèo khi xưa.
Muốn no cơm tấm muốn ấm ổ rơm
X. Muốn no cơm tấm, muốn ấm lả (lửa) sim.
Ngày xưa không có đủ chăn nệm như bây giờ,
nhưng ngủ ổ rơm cũng rất ấm. ông bà ta nói: muốn no cơm tâm muơn ấm ổ
rơm kia mà .
Muốn nói thàm làm đàn ông mà nói
Ngày xưa đàn ông có quyền uy tối thượng trong
gia đình, người phụ nữ lép vế thiệt thòi, chịu mọi sự sai khiến. Câu tục
ngữ đả kích, chống lại điều này.
Muốn tắm mát thì lên khe Hao,
Muốn ăn sim chin thì vào khe Mâu
Khe Hao và khe Mâu đều là khe suối thuộc khu
vực phía tây nam, dưới chân dãy Hồng Lĩnh, giáp ba xã Phúc Lộc, Hồng
Lộc, Tân Lộc. Riêng khe Hao được đắp đập chắn nước tạo thành hồ rộng .
Muốn tắm mát thì ra giếng Đoài,
Muốn lấy vợ đẹp hỏi ngài Tràng Lưu
X. Tắm mát giếng Đoài, hỏi ngài Tràng Lưu.
Mưa bên Quát lấy quạt mà che,
Mưa Kẻ E lấy bè mà chở
Quát và Kẻ E đều ở Hương Sơn Kinh nghiệm của
dân địa phương cho thấy nếu cơn mưa bắt đầu từ bên Quát thì chỉ là mưa
nhỏ, thoáng qua. Nếu cơn mưa bắt đầu từ phía Kẻ E thì thường mưa rất to,
cần đề phòng.
Mưa Cẩm Nang kiếm đàng (đường) mà chạy,
Mưa Kẻ Nại đứng lại mà coi
Mưa phía Cẩm Nang thường mưa rất to, cần đề
phòng trước. Còn mưa phía Kẻ Nại là mưa nhỏ, không
đáng ngại.
Mưa khi mô (nào) mát mặt khi nấy (ấy)
Hãy tận hưởng những niềm sung sướng hạnh phúc
hiện có đừng quá lo lắng, dự đoán gì về sau; khó mà lường trước được
những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Nỏ biết về sau ra răng chứ bây
giờ nó đang được hưởng lộc chồng, mưa khi mô mát mặt khi nấy cái đã.
Mưa như cầm vò mà trút
X. Mưa như chan như trút.
Mưa như chan như trút
Mưa xối xả như đổ nước xuông.
Mưa sa nác sỉa
Mưa to khiến nước dâng tràn gây nên lũ lụt.
Mưa sớm mai mài rạ (rựa) đi rú (rừng)
Kinh nghiệm xem thời tiết, những trận mưa vào
buổi sáng sớm sẽ chóng tạnh. Cứ mạnh dạn đi làm thôi, không lo chi
mô, mưa sớm mai mài rạ đi rú đó mà.
Mưa tháng ba ra mọi việc
Kinh nghiệm sản xuất: vào tháng ba, các loại
hoa màu như khoai, lạc, đậu đang ở thời kì chuẩn bị ra củ, ra hoa kết
quả nếu có mưa thì năng suất sẽ tăng gấp bội. Trộ mưa to, quý thật,
mưa tháng ba ra mọi việc đó.
Mưa tháng tư hư mọi việc
Kinh nghiệm sản xuất: vào tháng tư, các loại
hoa màu, lúa đang thời kì chuẩn bị thu hoạch nếu mưa nhiều sẽ ảnh hưởng
xấu đến năng suất chất lượng. Trời không thương nông dân rồi, mưa
tháng tư thì chỉ có hư mọi việc thôi
Mưa thúi (thối) đất thúi đai
Mưa to và kéo dài quá lâu ngày. Mưa chi mà
mưa lắm rứa không biết, mưa thúi đất thúi đai!
Mưa to coi như mưa nhỏ,
Mưa nhỏ coi như không mưa
Mưa gió chẳng có gì đáng ngại, phải xem thường
nó để làm việc. Ra mần thôi, mưa to coi như mưa nhỏ, mưa nhỏ coi như
không mưa.
Mưa to gió nậy (lớn)
Trai chưa vợ như chợ chưa đình
Khi mưa to gió nậy biết ẩn mình vô mô.
KTCDXN, Ti, Tr. 502
Mực văng vô giấy khó chùi,
Vô vòng chồng vợ rụt rùi sao nên
Vợ chồng là chuyên hệ trọng trăm năm, không
phải tạm bợ; cần phải sống hoà thuận, tránh xích mích. Răng con lại
cạn nghị rứa, vợ chồng là chuyện trăm năm, mần răng nói bỏ là bỏ được
mực văng vô giấy khó chùi, vô vòng chồng vợ rụt rùi sao nên con.
Mưòng chăn nác (nước) mặn
X. Mường về nác mặn
Mường về nác mặn
Ngơ ngác,
lạ lẫm trước mọi thứ Thằng ni nỏ hề
biết chi cả, cứ y như mường về nác mặn.
Mượn nống (nong)
quay tằm
Xử lí linh hoạt trong làm ăn, huy động hết mọi
nguồn lực theo mùa vụ.
Đến đây mượn nống quay tằm
Nơi ăn chẳng có nơi nằm cũng không
Đến đây mượn nón quay tơ
Nơi ăn chẳng có, nơi đợi chờ cũng không.
KTCDXN, Ti, Tr. 280
Mượn nống (nong) quay tơ
X. Mượn nống quay tằm.
N
Ná (nứa) chẻ thì chìm, lim chẻ thì nổi
Lim để cả súc gỗ lớn thì chìm nhưng xẻ thành
tấm mỏng thì nổi. Còn nứa để cả cây thì nổi nhưng xẻ ra lại chìm.
Ná (nứa) tháng ba hơn tre già tháng tám
Kinh nghiệm chọn nứa: nứa chặt vào tháng ba có
phẩm chất tốt hơn các mùa khác trong năm, tránh được mối mọt.
Nác (nước) chấm khu (đít) bù (bầu) mới nổi
Bù (trái bầu để khô, móc hết ruột, thường dùng
để đựng nước hoặc rượu) rất nhẹ nhưng nhẹ đến mức nào thì cũng phải chạm
nước mới nổi.
1 - Tình trạng quá chậm trễ, thiếu chuẩn bị
trong công việc. Công việc cuôí năm rất khẩn trương, thế mà hắn cứ
nác đến khu bù mới nổi.
2 - Thủng thẳng, chẳng lo gì vì biết thế nào
cũng được việc. Cậu thì cứ hay hoảng việc, tớ đây nác đến khu bù mới
nổi.
Nác (nước) chè hâm lại con gái ngủ trưa
Nước chè hâm lại không ra gì con gái ngủ dậy
trưa không làm tròn bổn phận, đáng chê trách. Con ham chi cái đồ nác
chè hâm lại con gái ngủ trưa nớ.
Nác (nước) chè nuôi xác, vọng (võng) lác nuôi
thân
Cuộc sống giản dị mà ung dung với thú vui uơng
chè và nằm võng lác.
Nác (nước) chó chấm thịt chó
Dùng ngay nước nấu thịt chó để làm nước chấm
cho các món luộc, nướng... Vận dụng, giải quyết một cách ổn thoả, khéo
léo trong một phạm vi nhất định không phải viện đến bên ngoài.
Nác (nước) đến khu (đít) bù (bầu) mới nhảy
X. Nác đến khu tru mới nhảy;
Nác đến khu bù mới nổi.
Nác (nước) đến khu (đít) tru (trâu) mới nhảy
X. Nác chấm khu bù mới nổi.
Làm việc không có kế hoạch, chỉ bị động ứng
phó khi tình huống đã xảy đến, vội vàng dẫn đến dễ hỏng việc Các đồng
chí phải biết lo xa, đừng để nác đến khu tru mới nhảy.
Nác (nước) đổ lá môn
(Môn: khoai sọ, lá không hề dính nước).
Chỉ loại người ù lì, trơ tráo, dù mất công dạy dỗ, thuyết phục vẫn không
có hiệu quả gì. Tui nói với hắn rát hơi bỏng cổ mà vẫn như nác đổ lá
môn, hắn nỏ nghe.
Nác (nước) khe, chè rú (núi), củi rừug
Những thứ vốn là của tự nhiên, không thuộc
quyền sở hữu của riêng ai cả.
Nác khe chè núi củi rừng
Công đâu mà giận người dưng cho phiền.
KTCDXN, T2, Tr. 125
Nác (nước) lên
tháo đáy lộn trùng
(Đáy trùng: Ở một số nơi có cửa sông, người ta
thường cắm những cây gỗ thẳng dài, chiều chiều bơi thuyền mắc và dưới
đáy một loại lưới hình cái phễu phía cuối có cái đụt hay cái trùng dùng
để hứng cá. Dụng cụ đánh bắt này gọi là đáy Cách đánh cá như thế chỉ
thực hiện khi nước xuống. Khi nước lên thì tháo đáy cất đi không đánh cá
được nữa). Câu tục ngữ phản ánh kinh nghiệm đánh cá. Nghĩa: chỉ sự chậm
trễ, nhỡ duyên, gặp nhau khi mọi việc đã xong xuôi, an bài.
Nác lên tháo đáy lộn trùng
Gái thuyền quyên tỡ lứa, trai anh hùng bơ vơ.
KTCDXN, T2, Tr. 61
Nác (nước) lợn nậy hơn cấy (cái) lợn con
Kinh nghiệm khi mua thịt: mua thịt của những
con lợn to thì ngon hơn.
Nác (nước) trong ai nỏ (không) khỏa chân,
Thơm tho ai nỏ đứng gần cho thơm
Cái tốt đẹp thì luôn có sức lôi cuốn, ai cũng
muốn tận hưởng. Phải thông cảm cho chắc, mình thích thì người ta cũng
thích, nác trong ai nỏ khỏa chân, thơm tho ai nỏ đứng gần cho thơm.
Nác (nước) trong mà giếng hôi rều
Hình thức không tương xứng với nội dung, hình
thức có vẻ hấp dẫn nhưng chất lượng hoàn toàn trái ngược .
Nác trong mà giếng hôi rều
Tuy rằng anh lịch nhưng nhiều điều anh quê.
KTCDXN, Tl, Tr. 360
Nam nắng buổi hôm, nồm nắng buổi mai
Kinh nghiệm xem thời tiết: những ngày có gió
nam, (gió lào, gió phía tây nam) thì buổi sáng có nhiều mây ít nắng,
buổi chiều tan mây nắng mới gay gắt. Những ngày có gió nồm (gió đông
nam) thì ngược lại buổi sáng rất nắng, buổi chiều có gió thổi dịu mát
hơn.
Nạy (cạy) ván đóng đinh
Hành động phản trắc, phá hoại đáng lên án.
Qua cầu nạy ván đóng đinh
Đốt chùa không tội bằng mình rẽ duyên.
KTCDXN, Tl, Tr. 374
Nằm sấp không đập thì dại
Tư thế nằm như chuẩn bị nhận đòn phạt (trẻ con
bị đòn thường bị bắt nằm sấp đánh vào mông). Thường dùng để nựng
trẻ em: vừa phát nhẹ vào mông vừa nói nằm sấp không đập thì dại
này.
Nằm trửa (giữa) không mất phần chăn
Ở vào chỗ chắc chắn không còn sợ ai tranh
dành. Cháu thì còn lo chi nữa, nằm trửa thì mất phần chăn răng được.
Năng nói năng lội (lỗi)
Cũng giống như rượu lạt uống lắm
cũng say, người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm. Nói nhiều thì khả năng
mắc lỗi cũng nhiều hơn. Cần khiêm tốn, kín đáo biết mười chỉ nói một
thôi. Mình khuyên cậu bớt tranh luận đi, năng nói năng lỗi đó.
Nắng mau trưa, mưa mau túi (tối)
Kinh nghiệm xem thời tiết: trời
nắng ánh mặt trời thiêu đết cảm giác mau trưa, trời mưa âm u, thiếu ánh
sang nên mau tối. Mới đó lại túi rồi, đúng là trời nắng mau trưa trời
mưa mau túi.
Nắng mạng sườn
Nắng gay gắt chéo qua mạng sườn.
Nắng tháng tám rám trái bưởi
Tháng tám dù đã giữa thu nhưng nắng
vẫn còn gay gắt.
Nắng ui ui thui con nít
Nắng ui ui: nắng không nhìn thấy
mặt trời nhưng rất oi bức, khó chịu và đặc biệt rất có hại cho sức khoẻ,
dễ bị cảm nhất là với trẻ em. Lấy cái gì mà che cho con kẻo cảm, nắng
ui ui thui con nít đó.
Nắng xiên khoai
X. Nắng mạng sườn.
Nắng xói đầu xói óc
Nắng quá gay gắt.
Anh ngồi mà khóc
Nước mắt chảy như mưa.
Trời vừa chính trưa
Nắng xói đầu, xói óc.
KTVXN, T3, Tr. 57
Nặng ọ tiết
Rất nặng, bưng bê, di chuyển quá
khó khăn.
Gớm, rinh (bê) cấy tủ nặng ọ tiết
ra .
Nặng như tru cả kít
Rất nặng và thái độ người mang vác,
vận chuyển không vui vẻ. Cấy chi trong ni mà nặng như tru cả kít ri
lắm a ?
Nân đầu nân đuôi
To đều và cân đối trông rất thích
mắt. Con chó ni nân đầu nân đuôi, trông thích hè.
Nân tu hú
X. Nân đầu nân đuôi.
Nậy (lớn) như bù (bầu)
Rất chóng lớn, mỗi ngày mỗi khác
như quả bầu hôm nay vừa nhìn ngày mai nhìn lại đã thấy khác hẳn. Con
lợn bà ni mau nậy thật, nậy như bù.
Nếp ngâm mà độ (đậu) chưa chà
Trai gái đã phải lòng nhau, hợp
duyên nhưng chưa được sự cho phép của bố mẹ.
Nếp ngâm mà độ chưa chà
Lòng em thì thuận mẹ cha chưa
"ừ ".
KTCDXN, Tl , Tr. 179
Nếp sống xôi mô rền,
Phèn chua đâu có ngọt
Bản chất như thế nào thì cuối cùng
vẫn thể hiện ra như thế ấy Đó là điều đã được dự báo trước.
Nghĩ nhân tình ở bạc
Mà nhớ mãi không quên
Nêp sống xôi mô rền
Phèn chua đâu có ngọt.
KTVXN, T7, Tr. 426
Nết na đạp mụ gia trào
rọt (ruột)
Con dâu hỗn láo, làm trái đạo dâu
con.
Ngá (ngứa) mô khải đó
Công việc đến đâu giải quyết đến
đó, không nên nóng vội. Lo chi cho khổ, ngá mô khải đó.
Ngài (người) cao tuổi nậy (lớn)
Đã trưởng thành, đến tuổi lập gia
đình.
Trách đời cá nhỏ đó thưa
Ngài cao tuổi nậy mà chưa có chồng.
KTCDXN, Tl , Tr. 421
Ngài (người) chôn tiểu, cặc chôn
hòm
Người có sinh thực khí quá lớn quá
dâm ô, truỵ lạc.
Ngài (người) cóc, mồm rồng
Địa vị, thân phận, năng lực thấp
kém mà nói huyênh hoang khoác lác. Mần thì như ma mà nói thì leo lẻo,
đúng là ngài cóc mồm rồng.
Ngài (người) dại để 1ồn (tục)
Ngài (người) khun (khôn) xấu mặt
Từ xa xưa con người đã biết dùng
vỏ cây, da thú để che những chỗ kín trên cơ thể. Đó là nét văn hoá sơ
đẳng nhất. Nhưng người dại (bị điên) không còn có những kiến thức tối
thiểu đó. Trong những tình huống như thế, người có ý thức cảm thấy xấu
hổ thay cho đồng loại. Câu tục ngữ còn chỉ trường hợp người có hành vi,
việc làm phản văn hoá, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của mình và mọi
người nhưng không tự ý thức được sai lầm đó, khiến những người khác phải
xấu hổ thay.
Ngài (người) hèn đừng ham của độc
X. Ngài (người) hèn mà ham của độc.
Ngài (người) hèn mang tơi đi ngược
gió
X. Yếu đừng ra gió.
Ngài (người) hèn mà ham của độc
Người có sức khoẻ yếu, có bệnh tật
phải biết kiêng khem những thức ăn có hại cho cơ thể của mình.
Ngài (người) hèn mà ưa của độc
X. Ngài (người) hèn mà ham của
độc.
Ngài (người) không ra ngài (người),
ngợm không ra ngợm
Trang phục, cử chỉ, hành vi kì dị,
khác người. Ngài chi mà lạ rứa, nỏ giống ai cả, ngài (người) nỏ ra
ngài (người) ngơm nỏ ra ngợm.
Ngài (người) khun (khôn) đùn ra mặt
Người khôn thì thể hiện ngay trên
nét mặt.
Ngài Nghệ An, gan Thạch Hà
Chỉ phẩm chất kiên định, can đảm, giàu nghị
lực của người Nghệ An và Thạch Hà, Hà Tĩnh.
Ngài một đều (điều) dợ lều mà đi
ý kiến bàn cãi không thống nhất, thiếu ý thức
xây dựng hoặc bảo thủ, không ai nghe ai sẽ làm nội bộ mất đoàn kết, dễ
dẫn đến tan vỡ. Một vừa hai phải thôi, ngài một đều dợ lều mà đi đó.
Ngài (người) một nạm (nắm)
Người gầy yếu, nhỏ lại tưởng như chỉ còn một
nắm. Bựa ni ngài (người) (người) tau lưa một nạm nựa.
Ngài (người) nhỏ, mỏ dài
Năng lực thực tế chẳng ra gì mà tham lam,
huyênh hoang khoác lác.
Ngài (ngưòi) như chạc khoai
Người khô và gầy quắt lại giống như củ khoai
chạc. Ông nớ mới
ốm dậy ngài (người) như chạc khoai.
Ngài (người) như cò ngàng
(Cò ngàng: chim có chân rất cao, cổ và mỏ
dài). Người cao và quá gầy.
Ngài (người) như cói hương
X.
Ngài (người) như cò ngàng.
Ngài (người) như con mắm lẹp
X. Ngài (người) như chạc khoai.
Ngài (người) như ma hớp hồn
Người mất thần sắc, phờ phạc, không còn tỉnh
táo. Răng mà ngài (người) mi bựa ni như ma hớp hồn rứa.
Ngài (người) như ma mút
X. Ngài (người) như ma nhả.
Ngài (người) như ma nhả
Người rất bẩn thỉu, gớm ghiếc.
Ngài (người) như que củi
X. Ngài (người) như chạc khoai.
Ngài (người) như que khẳng
X.
Ngài (người) như chạc khoai.
Ngài (người) ra răng vác cái săng làm vậy
Người thô thiển, kém cỏi thì mọi hành động,
ứng xử cho đ~l
sản phẩm làm ra đều phản ánh đúng như thế.
Ngài (người) răng của rứa
X. Ngài (người) ra răng vác cái săng làm
vậy.
Ngài (người) trên cồn không hại,
Kẻ ngồi dưới bại (bãi) thì rung
X. Ngài (người) trên cơn (cây) không hại
Ngài (người) dưới côộc lại lo.
Ngài (người) trên cơn (cây) không hại
Ngài (người) dưới côộc lại lo
Người trực tiếp với nguy hiểm thì không sợ
hãi, người đứng ngoài lại lo lắng. Đừng có bận tâm quá đến những việc
không thuộc về mình. Việc chi đến mi mà can dự vô mồ, ngài (người)
trên cơn không hại ngài (người) dới (dưới) côộc lại lo.
Ngài (người) ở có nhân mười phần nỏ khốn
Ăn ở nhân đức thì sẽ được báo đáp, không bao
giờ gặp cảnh khốn quẫn. Con là
ngài tốt, rồi trời sẽ phù hộ, ăn ở có nhân
mười phần nỏ khốn mô con ạ.
Ngài (người) roi voi búa
Những kẻ trơ lì thì chỉ có dùng vũ lực mới
khuất phục được Câu tục ngữ thường dùng trong trường hợp giáo dục con
cái, kẻ dưới. Đây là một cách giáo dục sai lầm. Nói không nghe thì cứ
roi mà trướt, ngài roi voi búa thôi
Ngái (xa) mỏi chin (chân), ghin (gần) mỏi
miệng
Con cái ở gần cha mẹ thì luôn phải dạy dỗ, uốn
nắn. Ngược lại ở xa thì phải đi lại thăm nom luôn luôn. Thiệt rành
nhọc với con cái rát hơi bỏng cổ với chúng, đúng là ở ngái mỏi
chin
ở ghin mỏi miệng.
Ngái (xa) thì thương, ghin (gần) thì thường
Tình thương dễ được thể hiện, bộc lộ khi ở xa
nhau, ở gần dễ thấy những khiếm khuyết thậm chí dễ nảy sinh mâu thuẫn.
Anh em xích mích là chuyện thường tình, ở ngái thì thương ở
ghin thì thường rứa đó con ạ
Ngán như ăn cơm nếp
Thái độ chán nản cao độ, không còn muốn làm gì
nữa vì khối lượng công việc quá lớn không kham nổi hoặc mọi cố gắng đều
không đem lại hiệu quả. Đến tận dừ mà chưa được một phần mười công
việc, thật ngán như ăn cơm nếp.
Ngày ba bựa (bữa) ăn khoai,
Tối theo trai đi nhởi (chơi)
Cuộc sống vật chất thì kham khổ, mạt hạng
nhưng lại dư thừa sinh lực rửng mỡ như những kẻ sung sướng. Câu tục ngữ
còn ám chỉ những kẻ đồng bóng, phù phiếm. Con nhà đói mà tởn mỡ như
con nhà giàu, ngày ba bựa ăn khoai, tối theo trai đi nhởi.
Ngày đàng còn hơn gang nác (nước)
Sông nước cách trở, hiểm nguy: đi một ngày
đàng còn khoẻ hơn qua một khúc sông.
Ngày mùa bụi mua có ló (lúa), con chó có công
Ngày mùa bận rộn nhưng thóc lúa dư giật, dễ
dàng trong trả công, ban thưởng.
Ngày mùa vua cụng (cũng) hạ tán
Ngày mùa phải tập trung cao độ cho việc thu
hoạch, tạm gác những việc chưa thật cần thiết. Nghỉ học đi gặt cho mẹ
đã con, ngày mùa vua cũng hạ tán mà.
Ngáy như tru
Ngủ nhiều, ngủ say không còn biết đến thời
gian, công việc Hắn ngáy như tru, nỏ ngó ngàng chi đến con cái
Ngắn cổ kêu nỏ (không) thấu trời
Những người thân phận nghèo hèn, thấp kém thì
suốt đời phải chịu oan khổ, bị ức hiếp mà chẳng ai bênh vực Thôi mình
phải chấp nhận oan ức, ngắn cổ kêu nỏ thấu
trời mô.
Ngậm ngẩm như đấm phải đì
(Đì: phần kín trên cơ thể) Lặng lẽ chịu đựng,
không hề nói năng hay biểu lộ thái độ gì cả khiến người khác phải bực
mình. Có chi thì nói ra đi răng tại cứ ngậm ngẩm như đâm phải đì rứa.
Ngần đi nghị (nghĩ) lại
Trăn trở, băn khoăn trước khi quyết định một
việc gì đó
Nghe đều (nghe lời) con lon xon mắng người
Chưa rõ thực hư, chỉ nghe con trẻ nói lại
(chưa đáng tin cậy) mà đã vội có hành động thái quá đối với người khác
Trong ứng xử, cần phải thận trọng, tìm hiểu kĩ để tránh những thái độ,
hành động sai lầm đối với người khác. Ả chưa biết phải trái ra răng
mà đã nặng lời với tui. Rõ là nghe đều con lon xon mắng người.
Nghé đạ (đã) thành tru (trâu)
Đã trưởng thành, đến tuổi tự lập
Công anh chăm nghé bấy lâu
Bây giờ nghé đã thành tru (trâu) ai cày.
KTCDXN, Tl, Tr. 252
Nghênh ngang chợ Gát, bát ngát chợ Cày
Chợ Gát thuộc xã Thạch Tiến, chợ Cày thuộc thị
trấn Cày Thạch Hà, Hà Tĩnh. Chợ Gát thường bán nông sản và các sản phẩm
làm từ mây tre nên người gồng gánh kềnh càng, đi lại nghênh ngang. Chợ
Cày thì bán nhiều thức ăn, thức uống nên người say sưa, bát ngát nhiều.
Nghiêng nón mở trù
Cử chỉ giao duyên.
Khăn trắng em đang trên đầu
Mà em nghiêng nón mở trầu ai ăn.
KTCDXN, Tl , Tr. 478
Ngoa mồm như Kẻ Thượng
Chợ Thượng ở Đức Thọ. Dân chợ Thượng chuyên
nghề buôn bán nên thường lắm điều hơn dân vùng khác.
Ngoác họng như họng chạng làng
(Chạng làng: chim cỡ lớn hơn chào mào, hình
dáng, màu lông khá giống chào mào, hay hót nhại tiếng các loại chim và
động vật khác) Người điêu ngoa, động tí là chửi bới chao chát, om sòm.
Chưa chi đã ngoác họng như họng chạng làng.
Ngoài đồng vàng mơ, trong.nhà mờ mắt
Cái đói những ngày giáp hạt ngày xưa thật đáng
sợ, chờ chỏ đến khi có lúa mới đã đói mờ cả mắt.
Ngoảy như tru sít trẹo
(Trẹo: vật nhỏ bằng sắt, gỗ hay tre xâu qua
mũi trâu để buộc dây thừng) Trâu hay ngoảy dễ sút trẹo, càng sứt trẹo
càng phản ứng, khó chế ngự. Hàm ý nói người hay phản ứng, ngúng ngoảy
mỗi khi được giao việc.
Ngọc Sơn đẹo rạ (rựa) bằng thiên hạ đẹo rìu
Ngọc Sơn một thôn thuộc xã Kỳ
Ph~ng, huyện Kỳ
Anh tỉnh Hà Tĩnh. Dân ở đây ngày xưa có nghề chặt gỗ bán cho các vùng
xung quanh nên rất điệu nghệ trong nghề chặt đẽo: vừa nhanh, vừa đẹp.
Ngon rau đau cơm
Thức ăn ngon ăn được nhiều cơm.
Ngón tay tháp bút
Ngón tay hình tháp bút rất đẹp
Trông lên mặt trắng như ngà
Ngón tay tháp bút xinh đà thêm xinh .
KTCD XN , T 1 , Tr. 358
Ngong (nhìn) trước ngó sau
Cẩn thận khi thực hiện một hành động quan
trọng. Mần chi thì phải ngong trước
ngó sau chứ ai lại nhắm mắt mần liều rứa.
Ngồi chóc bóc như cóc ngậm trùn (giun)
Thái độ dương dương tự đắc trông rất đáng ghét
(khi tận hưởng thành quả). Bà
con ngồi dưới ngong lên mà hắn ngồi chóc bóc
như cóc ngậm trùn rứa.
Ngồi dai khoai cháy
Hàm ý phê phán người có tính ngồi lê, không
chăm lo công việc.
Ngồi như ẻ (ỉa) nác (nước) lụt
Ngổi trong một tư thế rất khó khăn không thoải
mái, bất tiện. (Ngày xưa, dân quê thường có thói quen đi vệ sinh ngoài
ruộng, khi mùa lũ nước ngập phải nửa đứng nửa ngồi rất khó chịu vì sợ
ướt mông).
Ngồi trục cúi (đầu gối) quá cằm
X. Ngồi trục cúi (đầu gối) quá tai.
Ngồi trục cúi (đầu gối) quá tai
Dáng ngồi đầu gối cao hơn đầu trông rất khổ
sở, thiểu não, mất sinh khí.
Trai chi rứa mà trai
Ngồi trục cúi quá tai
Con ga (gà) vô đó nỏ oài
Con chó đến đánh một tai
Trai chi rứa mà trai.
. .
HGNT
Ngu lộ khu (đít) như đàng trốc
(đằng đầu)
Hàm chỉ sự ngu dốt, đần độn, không
còn phân biệt được trên dưới, đúng sai.
Cái đồ ngu lộ khu cũng như đằng
trốc.
Ngu ngơ như bò chộ nhà dận
X. Ngu ngơ như bò đội nón.
Ngu ngơ như bò đội nón
Ngơ ngác, lúng túng trước mọi thứ.
Không có sự từng
Ngày anh ngủ như bò
Đêm anh mò như vạc.
KTVXN, T2, Tr. 345
Ngủ như chó cúc no sựa (sữa)
Ngủ rất say, rất thoải mải vô tư
Thằng cháu ngủ say thật ngủ như chó cúc no sữa.
Ngủ như ga (gà) trốn diều
Ngủ lâu, và lặng lẽ không ai hay
biết.
Ngày thời trốn mẹ trốn cha
Đêm
thời
trốn ngủ như ga trốn diều .
KTCDXN, T2, Tr. 180
Ngủ như tru (trâu)
X. Ngủ như bò.
Ngủ như tru sít mụi
X. Ngủ như tru sứt mụi.
Ngủ như tru sít mụi Ngủ say thở phì
phì như tiếng thở của trâu sứt mũi. Uống say rồi hắn ngủ như tru sít
mụi rứa.
Ngủ như trâu sít trẹo
(Trẹo hay ú, vật nhỏ bằng sắt gỗ,
hay tre xỏ qua lỗ mũi trâu bò để buộc dây
thừng điều khiển trâu bò).
X. Ngủ như trâu sít mụi.
Ngủ như tru sít ú
X. Ngủ như tru sứt mụi.
Người gầy là thầy ăn
Người gầy thường ăn nhiều.
Người gầy là thầy đụ
Người gầy là do sinh hoạt tình dục
nhiều, là bậc thầyvề chuyện ấy (đùa tếu).
Người ta cười ba tháng không ai
cười ba năm
Sự chê trách của mọi người đối với
sai lầm, thất bại của người khác cũng có giới hạn, thời gian sẽ là liều
thuốc tốt để nguôi quên đi. Đừng qúa thất vọng, bi quan trước thất bại,
hãy cố gắng ngẩng cao đầu mà vươn tới. Lo chi con, cố gắng lên rồi
mọi chuyện qua hết, người ta cười ba tháng chớ ai cười ba năm.
Nhà có nghẹc (ngạch), véc (vách) có
lộ tai
Phải cẩn thận trong lời nói, phải
biết giữ mồm giữ miệng, đừng chủ quan, nếu không người khác sẽ nghe thấy
những điều đáng ra phải giữ bí mật. Con nên biết giữ mồm giữ
miệng, nhà có nghẹc véc có lộ tai đó con ạ.
Nhà giàu ăn cá tràu đỏ đít
Cá tràu khe, đỏ đuôi, nhỏ nhưng
tham ăn, còn gọi là cá tràu đẩu thịt nó ăn rất ngon.
Nhà giàu sớm ló (lúa); kẻ khó sớm
cơm
Người giàu có bởi hay lam, hay làm,
kẻ khó không lo làm, chỉ lo ăn, ăn sớm thường lệ vì thong thả. Tục ngữ
phản ánh một sự thật vừa đả kích những kẻ vô công rồi nghề, siêng ăn
nhác làm.
Nhà giàu trồng lau ra ló,
Nhà khó trồng ló ra lau
Giàu có thì càng có điều kiện tốt
để làm ăn, làm cái gì cũng dễ đạt kết quả tốt. Nghèo thì không có điều
kiện đầu tư cho sản xuất, năng suất thấp.
Nhà mặt đồng, chồng giáo viên,
Con hưởng ưu tiên miền núi
Đây là những điều kiện đủ cho một
cuộc sống gia đình đơn sơ mà hạnh phúc.
Nhà sạch thì mát, bát sạch thì
ngon,
Khun (khôn) con thì khỏe mẹ
Cuộc sống thoải mái, nhàn nhã có
được nhờ người mẹ biết dạy con ngoan. Con ngoan thì nhà cửa sạch sẽ, mẹ
đỡ vất vả.
Nhác mần một vác cho nặng
Lười biếng, muốn làm một
lúc cho
xong để nghỉ ngơi, chơi bời, kết quả là hỏng việc Làm từ từ nhiều
chuyến cho khỏe, việc chi mà phải vội, nhác thì mần một
vác
cho nặng.
Nhác thây xương
Chỉ sự lười nhác đã đến mức không
thể chấp nhận được không có hoạt động, giống cơ thể đã chết.
Nhác thượt rọt
X. Nhác thây xương.
Nhác trườn thây
X. Nhác thây xương.
Nhác thượt rọt
X.
Nhác thây Xương.
Nhai như chó nhai giẻ rách
Cằn nhằn, nói đi nói lại, nhiều
lần,
kéo
dài
rất khó chịu. Nói rứa đủ rồi
nhai đi nhai lai như chó nhai
giẻ
rách.
Nhăn
răng hả
mồm
Cười không đúng lúc đúng chỗ khiến
người khác phải bực mình. Ngài chi mà có
ngài chưa nói thì đã nhăn răng hả
mồm, vô duyên!
Nhâm như trú (trấu)
Quá đông đúc, đày đặc. Ao tau cá
lên ăn nhâm như trú.
Nhận rau trều bù (bầu)
Cái gì cũng có giới hạn của nó như
vật chứa nhỏ, không thể đựng một lúc nhiều thứ. Ý nói không thể làm cái
gì đó vượt quá khả năng, làm được cái này sẽ bỏ cái khác.
Nhất cao là rú Hoành
Sơn lắm hươu Bàn Độ, to 1ồn Chợ Voi
Hoành Sơn, Bàn Độ, Chợ Voi là những
địa danh thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Hoành Sơn: một nhánh của Đông
Trường Sơn đâm ngang ra biển giáp biển ở Đèo Ngang, Bàn Độ một ngọn núi
nằm giữa hai xã Kỳ Khang và Kỳ Ninh, tương truyền ngày xưa nơi đây rất
nhiều hươu rừng. Chợ Voi chợ nổi tiếng lâu đời ở vùng bắc Kỳ Anh. Phụ nữ
xứ Voi đi chợ haybưng thúng để đựng hang hóa nên mới "to lườn". Về sau,
người ta đùa nghịch nói chệch thành to 1ồn (tục), lâu dần thành câu ca
lưu truyền trong dân gian có dị bản như trên.
Nhất cao là rú Hoành Sơn
Lắm hươn Bàn Độ, to lồn chợ Voi
Chợ Voi mang tiếng đã lâu
So đi tính lại chợ Cầu to hơn.
Ca dao
Nhất cao là rú Hoành Sơn
Lắm hươu Bàn Độ, to lườn chợ Voi
X. Nhất cao là rú Hoành Sơn
Lắm hươu Bàn Độ, to 1ồn chợ Voi.
Nhất chó sủa dai, nhì ngài nói lặp
Người nói lặp gây khó chịu, bực bội cho người
nghe không kém gì chó sủa dai.
Nhất gà trong trứng,
Nhì chó lựng thựng (lững thững) tập đi
Kinh nghiệm ẩm thực của dân gian.
Nhất kinh kỳ, nhì Nhượng Bạn
Cửa biển Nhượng Bạn ở Cẩm Xuyên, nơi có bãi
tắm Thiên Cầm, nhiều tôm cá, dân cư đông đúc, phong cảnh đẹp.
Nhất ì (ừ) nhì mần
thinh (im lặng)
Im lặng là biểu lộ đồng tình (đồng tình nhưng
còn e ngại chưa dám ừ).
Phận đàn bà con gái
Tuồng e lệ
thường tình
Nhất ì nhì mờn
thinh
Bàn với ông ta gả
Rứa thì rồi ta gả
.
KTVXN, T3, Tr. 567
Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ sún
Đây bốn loại người xấu nhất xét
thuần tuý về hình thức (theo quan niệm dân gian).
Nhất mẹ, nhì cha, thứ ba bà ngoại
Đây là những người gần gũi quan tâm
lo lắng,
chăm sóc đến bản thân mỗi người nói
chung. Nhất phạm phòng nhì lòng lợn Người mới ốm dậy, sinh khí còn yếu,
phải kiêng sinh hoạt tình dục và ăn lòng lợn. Đó là hai thứ nguy hiểm
chết người.
Nhất Yên Huy, nhì Khố Nội
X. Đói Khố Nội tội cả xứ.
Yên Huy là tên cũ của xã Yên Lộc và
Khố Nội là tên cũ của xã Trung Lộc, nay đều thuộc huyện Can Lộc, Hà
Tĩnh. Yên Huy và Khố Nội là hai địa phương xưa kia nổi tiếng là lắm lúa,
nhiều khoai.
Nhét cá lòi dam (cua đồng)
Mọi cái đều có giới hạn, quá ngưỡng
sẽ không có lợi Cần biết thế nào là đủ.
Nhét cua lùa dam
X. Nhét cá lòi dam.
Nhện giăng mùng (màn)
Cảnh sống hoang vắng, ít người qua
lại.
Đi đâu để nhện giăng mùng
Năm canh thiếp chịu lạnh lùng cả
năm.
KTCDXN, Tl , Tr. 284
Nhiều chuyến hơn chuyến nhiều
Chăm chỉ, cần mẫn, thận trọng thì
sẽ hiệu quả hơn là tham lam, vội vàng muốn nhanh chóng đạt kết quả
nhưng lại thường hay thất bại. Cứ từ từ rồi sẽ xong, đừng cố mà mệt
con ạ, nhiều chuyến hơn chuyến nhiều.
Nhiều con nít, ít kẻ tra (người
già)
Trẻ em chưa biết khái niệm tính
đếm, định lượng chính xác ít hóa ra nhiều. Người già bị lẫn, hay quên
nhiều thành ít (có khi ăn rồi nói chưa). Nói chung, thông tin từ trẻ em,
người già cần phải xem xét thận trọng. Nghe con nó nói thì chắc chắn
chi, không nghe nói nhiều con nít ít kẻ tra à ?
Nhiều no, ít đủ
Có nhiều thì chi tiêu, thoải mái
trong chia chác, có ít thì mỗi người được hưởng một tý, ai cũng phải có
phần. Phải công bằng, đầy đủ đừng coi trọng người này mà xem nhẹ người
kia. Có nhiều thì chi tiêu thoải mái, có ít thì tằn tiện cũng đủ.
Nhịn ăn nhịn mặc nỏ ai nhịn cặc
(tục) cho ai
Nhường cơm sẻ áo thì được không thể
chia sẻ hạnh phúc riêng tư.
Nhịn mẹng (miệng) đại (đãi) khách
đàng (đường) xa,
Ấy là của để chồng ta đi đàng
(đường).
Cắt giảm khẩu phần của mình để giúp
đỡ khách đường xa lỡ bước là việc nên làm. Đến khi mình găp hoàn cảnh
tương tự mới có người giúp đỡ mình. Đó là đạo lý ở đời
Nho Lâm than quánh nặng nề
Nho Lâm là địa danh thuộc huyện
Diễn Châu, Nghệ An. Nơi đây có nghề rèn truyền thống, nổi tiếng từ lâu
đời Rỉ sắt, quánh (quặng) sắt nằm trên đường rất nhỉều,
đi lại đau chân, khó đi Nhìn
chung cuộc sống nơi này vất vả.
Nho Lâm than quánh nặng nề
Sức em đương được thì về Nho Lâm .
KTCDXN, Tl , Tr. 419
Nhỏ dạc ác mồm
Người có tầm vóc nhỏ bé nhưng nói năng trợn
trạo, cay độc.
Nhỏ đùm dệ (dễ) gói
ít nhỏ càng đễ xử lí, đỡ phức tạp, rắc rối.
Ai đi thì cứ đi chẳng phải mất công níu giữ, nhỏ đùm càng dễ gói.
Nhỏ ngài mà
to con mắt
Năng lực hạn chế mà tham lam, muốn làm những
việc cao xa, viễn vông. Ham nỏ phải đàng, nhỏ ngài mà to con mắt.
Nhởi đao đứt tay
Đùa giỡn với hiểm nguy sẽ có lúc gặp họa.
Con phải bỏ những trò nguy hiểm đó đi, nhởi dao đứt tay đó con ạ.
Nhớp như hủi
Rất bẩn, gây cảm giác ghê sợ. Con nớ hắn
nhớp
như hủi.
Nhớp như trâu nằm lấm
X. Như trâu nằm lấm.
Nhủ răng mần rứa
Cứ theo nhiệm vụ được phân công, theo những
điều đã hướng dẫn mà thực hiện. Đừng có hỏi đi hỏi lại nhiều nhủ răng
thì mần rứa.
Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn
Thanh Chương và Nam Đàn là hai huyện thuộc
tỉnh Nghệ An. Thanh Chương có sản phẩm nổi tiếng là nhút và Nam Đàn nổi
tiếng bởi đặc sản tương.
Nhút Thanh Chương cũng ngọt
Kể chẳng mấy đồng tiền
Xơ mít chất đầy hiên
Bằm một khi tám nống
Bằm một lần mười nống.
KTVXN, Tl, Tr. 145
Như bấc với đầu
X. Như bếp gặp lả như cau gặp trù.
Đôi ta như bấc với dầu
Khơi ra cho rạng kẻo sầu tương tư
Đôi ta như thủy với ngư
Chàng như Dương
Lễ thiếp như Lưu Bình
Đang còn kết bạn huống chi mình với ta.
KTCDXN, Tl , Tr.287
Như bếp gặp lả (lửa) như cau gặp trù (trầu)
Sự hân hoan, sung sướng, tương hợp, đẹp duyên.
Đôi ta rày được gặp nhau
Như bếp gặp lả như cau gặp trù .
KTCDXN, Tl , Tr. 291
Như bị lác đứt quai
Hoàn cảnh éo le, khốn khó, nhan sắc tàn phai
hết.
Mình em như bị lác dứt quai
Nhan sắc chi nữa mà hai người giành.
KTCDXN, Ti, Tr. 341
Như bồ sể cạp
X. To như bồ sể cạp.
Như bộ con bài
X. Như cặp chim non.
Đôi ta như bộ con bài
Đã bắt thì bén chớ nài thấp cao.
KTCDXN, Ti , Tr. 287
Như cá mái được nác (nước)
Cá mái, cá nhỏ ở hồ đập, kiếm ăn ở
tầng trên, mỗi khi có dòng nước chảy thường bơi từng đoàn theo dòng
nước. Thường chỉ trẻ em
tung tăng , nô đùa thỏa thích mỗi
khi có dịp. Nhìn bọn con nít nhởi thích thật, như cá mái được nác.
Như cá trửa (giữa) vời
Cá trửa vời: cá ở giữa khơi, còn tự
do chưa thuộc về ai cả.
Mình em như cá trửa vời
Ai mau tay thi được, ai chậm lời
thì thôi.
KTCDXN, Ti, Tr. 341
Như cặp chim non
Quá đẹp trong tình duyên.
Đôi ta như cặp chim non
Khi vui ríu rít khi buồn vẩn vơ.
KTCDXN , T 1 , Tr. 1 2 8
Như chó cắm (cắn) được máu
Chó cắn người được một lần thì sau
đó càng dữ tợn. Chỉ người quen thói hung hăng, càn quấy Càng can hắn
lại càng mần hung hơn như chó cắm được máu rứa.
Như chỉn mới xe
X. Như cặp chim non.
Đôi ta như chỉn mới xe
Xỏ kim kim xỏ, may hè nào may.
KTCDXN, Tl, Tr. 287
Như chó tháng bảy
Chạy lông rông, không ở yên trong nhà, không
chú tâm công việc.
Như cúc với khuy, như kim với chỉ
X. Như bếp với lả, như cau với trù.
Đôi ta như cúc với khuy
Như kim với chỉ may đi cho rồi.
KTCDXN, Tl , Tr. 286
Như diều bắt ga (gà)
Hành động vũ phu, tàn nhẫn.
Thân em như trái đào non
Không may số kiếp lấy con nhà giàu
Hắn cợt
như thể con hầu
Nửa đêm còn phải thái rau, băm bèo
Gần sáng mới
được chồng yêu
Hắn vật hắn lộn như diều bắt ga.
KTCDXN, Ti , Tr. 260
Như đị (đĩ) mất mấn (váy)
Bối rối, hoảng hết, cuống cuồng vì sợ sệt.
Như điếu ủy ban
Không thuộc quyền sở hữu của riêng người nào,
ai cũng có thể dùng được.
Như đụa (đũa) trửa mâm
X. Như cặp chim non.
Đôi ta như đũa trửa
mâm
Không ăn cũng cầm cho thỏa lòng nhau.
KTCDXN, Ti, Tr. 280
Như ga (gà) đạp chạc tóc
Bối rối, không biết cách tháo gỡ vướng mắc,
khó khăn, càng tìm cách gỡ càng rối chặt. Có chừng đó mà cả mấy chị
em không giải quyết được, cứ như ga đạp chạc tóc.
Như ga (gà) bươi
Bừa bãi, ngổn ngang, không gọn gàng, ngăn nắp.
Nhà cửa chi mà như ga bươi ri, không hề biết dọn dẹp.
Như ga (gà) cồ ăn tấm Mẳn
(Gà cồ, giống gà to, trụi lông, dáng ngờ
nghệch, tấm mẳn: tấm nhỏ). Gà cồ mà ăn tấm mẳn thì rất khó, không biết
bao giờ mới no. Hàm ý chỉ công việc không phù hợp nên rất khó khăn.
Ga cồ ăn tấm mẳn biết khi mô đầy diều .
Như ga (gà) loọc ba nác
Lập trường không vững vàng, thái độ không dứt
khoát dẫn đến hiệu quả công việc kém, hỏng việc. Mần như ga loọc ba
nác, ai biết đường mô mà tính.
Như gậy
chống rèm
Tình cảm gắn bó
Đôi ta như gậy chống rèm
Vừa đôi thì lấy, ai dèm mặc ai.
KTCDXN, Ti , Tr. 287
Như khếu (khiếu) sổ lôồng
Quá yui mừng vì được giải thoát khỏi những
ràng buộc gò bó, tù túng, được tự do bay nhảy.
Như khỉ mặc áo tế
(Áo tế: áo mặc để hành lễ trong các dịp lễ
tê). Không nghiêm túc, không phù hợp, không ra thể thống gì cả.
Như Kiều mắc mưa
Hàm ý mỉa mai về hình thức của một ai đó.
Như lả với hương
X. Như bếp với lả, như trầu với cau.
Đôi ta như lả với hương
Như bèo với nước, như giường với chân.
KTCDXN, Tl , Tr. 290
Như ma hớp hồn
X. Ngài như ma hớp hồn.
Sớm ngày quảy gánh đi ra
Vừa đói vừa mệt như ma hớp hồn.
KTCDXN, Tl, Tr. 260
Như ma ranh
Khôn ngoan, lèo lá quá chừng.
Gái bay như con ma ranh
ăn rồi nói quẩn nói quanh trong
nhà.
KTVXN, T2, Tr. 572
Như ma trên đất
X. Như ma ranh.
Như ma trơi động trời
Tính cách không ra gì, hình thức
rất xấu, rất gớm ghiếc.
Như mấn đập chắc
Rách nát tả tơi như sau cuộc xô xát
ẩu đả Áo quần mới may chưa được một năm mà đã như mấn đập chắc ri à
?
Như méng (miếng) tóp mợ (mỡ)
(Tóp mỡ: phần còn lại của miếng mỡ
sau khi rán lấy phần nước, ngày xưa nghèo đói tóp mở là thứ còn được
chuộng). Trông rất hấp dẫn. Dòm o nớ như méng tóp mợ, ai nỏ thích.
Như mẹt thuốc địa
Rất nhiều thứ bày ra một cách lộn
xộn, bừa bãi, thiếu mĩ quan. Bàn học của con mà như mẹt thuốc địa ra
ri, con phải dọn dẹp cho ngăn nắp chớ.
Như mệ loong đoi
(Đoi: sợi dây buộc ngang thắt lưng
của phụ nữ). Luộm thuộm, thiếu sự gọn gàng, chắc chắn. Ăn mang cho
gọn gàng vô, xộc xà xộc xệch như cái mệ loong đoi.
Như mối được mưa
Rất đông rất nhiều, không kể xiết
và thái độ phấn chấn, hào hứng vì có dịp để thể hiện.
Như mụ tra (bà già) đấy (đái) ấm bể
Giọng hát, giọng nói rất dở, rất
khó nghe. Hát thì như mụ tra đấy ấm bể mà cũng hay hát.
Như mụ tra
(bà
già) được mấn (váy) mới
Mừng vui, phấn khởi biểu lộ ra bên
ngoài hơi thái quá.
Như nác (nước) đổ lá môn
X. Nác đổ lá môn.
Như nhà bày rui
Gầy yếu quá, xương sườn bày ra nhìn
thấy rất rõ như
nhà bày rui để chuẩn bị lợp.
Nhòm lên trên ngực
Như nhà bày rui
Ở không thấy thương tui
Coi màu mà khó sống.
KTVXN, T. 6, Tr. 247
Như oi trôộng khu
Không mấy cho vừa, bao nhiêu cũng
không đủ. Nhà tau năm miệng ăn, cử như oi trôộng. khu mần bao nhiêu
cũng không đủ.
Như phấn với hồ
Quan hệ khăng khít, không tách rời
nhau.
Đôi ta như phấn với hồ
Sông chung với bạn, chết hai mồ
táng chung.
KTCDXN , T.1 , Tr. 288
Như rau muống được mưa
Phát triển rất nhanh nhờ có một tác
động khách quan.
Như răng mọc trội
(Răng mọc trội: răng mọc trội một
bên khi răng sữa chưa rụng). Không ngay ngắn, đều đặn mà lộn xộn,
thiếu mĩ quan. Trồng cây chimà như răng mọc trội, nỏ đều đặn, thẳng
thắn chi cả.
Như rương khóa rồi
Đã yên bề mọi chuyện, thủy chung
một lòng.
Quý hồ anh có lòng thương
Em có lòng đợi như rương khoá rồi.
KTCDXN, Tl, Tr. 376
Như rương không khóa
Không có sự bảo vệ chắc chắn. Rất
dễ dãi trong quan hệ nam nữ. Gái nông trường như rương không khóa.
Như rương lạc chìa
Không thủy chung.
Đầu miệng anh nói rằng thương
Trong bụng anh ở như rương lạc
chìa.
KTCDXN, Ti , Tr. 274
Như đá với dao
Gắn bó, thân hữu.
Đôi ta như đá với dao
Năng liếc thì sắc năng chào thì
quen.
KTCDXN, Ti, Tr. 286
Như tắn (rắn) đập ba khúc
Gãy gập, cong queo không được thẳng
như yêu cầu. Xây trát chi mà như tắn đập ba khúc ra ri?
Như thể con ong
X. Như cặp chim non.
Đôi ta như thể con ong
Con quấn con quýt, con trong. con
ngoài.
KTCDXN, Ti , Tr. 281
Như rìu chém đá, như rạ (rựa) chém
đất
Thái độ dứt khoát, rõ rang và quyết
đoán
Anh nói với em như rìu chém đá,
Như rạ chém đất, như mật vô (vào)
lỗ tai
Bây giờ em đã nghe ai
Áo ngắn em mặc,
cởi
áo dài ai mang.
KTCDXN, Tl, Tr. 225
Như tru (trâu) cày trưa
X. Tru trưa nát ràn.
Như tru (trâu) dài sừng
Rất không gọn gàng, dễ vướng vào
cái khác khi di chuyển. Phải bó cho gọn vô,
như trâu dài sừng ri mần răng mà
qua truông được.
Như tru (trâu) dằn chạc mụi (đè dây
thừng)
Bối rối, lúng túng mà không tìm
được cách gỡ.
Như tru (trâu) không chạc mụi (dây
thừng)
Ở vào tình thế mất phương hướng vì
không có người hướng dẫn, chỉ bảo.
Đôi ta thương chắc
Chú bác trục trặc
Cha mẹ không
Giống như trâu không chạc mụi biết
tắc rì đàng mô.
KTCDXN , T2 , Tr. 163
Như tru nằm lấm
Quá bẩn, toàn thân đầy rẫy vết bẩn
tựa như trâu dầm bùn.
Như tru sổ ràn
X. Như khếu sổ lồng.
Như vịt. cưa cẳng (chân)
Quá thấp, không có bề thế gì cả
trông rất xấu. (Đây là lối nói phóng đại: vịt vốn chân đã thấp, lại còn
cưa chân nữa thì quá thấp, quá ngắn). Cắt hút mất rồi, dừ ngong (giờ
nhìn) như vịt cưa cẳng.
Như xạng mắc đá oong (ong)
(Xạng : đào giếng; đá ong: đá có lỗ như tổ
ong, kết thành dàn, thường nổi trên mặt đất) Đào giếng mà gặp đá ong thì
phải mất rất nhiều công sức vì đá ong rất khó đào. Rơi vào thế bí rất
khó gỡ ra. Thằng nớ bựa ni đang mắc như xạng mắc đá oong ở trên nớ
đó.
Những người đi bể
(biển) làm nghề,
Thấy dòng nước nóng
thì về đừng đi
Kinh nghiệm của ngư dân: khi đi biển nếu gặp
luồng hải lưu nóng, chảy xiết thì
không nên đánh bắt hải sản.
Nhựng (Những) người miệng rộng răng thưa,
Ăn không nói có phô (nói) thừa phô (nói) hô
Theo quan niệm dân gian, miệng rộng răng thưa
là tướng nói nhiều, sẵn sàng nói sai sự thật vì lợi ích của mình.
No ba ngày Tết, mệt
ba ngày mùa
1. No thì không khi nào bằng ba ngày tết, mệt
thì không có thời điểm nào bằng ngày mùa. Ngày tết giàu nghèo đều sắm
sửa đồ ăn cúng tổ tiên, thần thánh, ai cũng được no. Ngày mùa là thời
điểm thu hoạch khẩn trương cần phải tập trung cao độ sức lực.
2. Đánh giá mức sống, sự giàu nghèo không thể
dựa vào ngày tết, xem xét tính chất công việc vất vả hay nhàn nhã không
thể chỉ căn cứ vào những ngày mùa.
No bụng đói con mắt
X. No lộ mẹng đói con mắt.
No con nít, béo lợn con
Chưa đủ độ tin cậy, chắc chắn ví như trẻ em
mảng chơi có khi quên cả ăn, ăn qua quýt là kêu no, lợn con ú sữa nhưng
chỉ cần tách khỏi mẹ là sẽ khác ngay.
No lộ mẹng (miệng), đói con mắt
Miệng đã no nhưng mắt vẫn còn thèm.
Lòng tham không đáy.
No 1ồn lồn cặc cặc (tục) đói sặc
sặc miếng ăn
Người tầm thường, hạ tiện chỉ luôn
tìm cách thỏa mãn dục vọng thấp hèn. No thì rửng mỡ tìm cách thỏa mãn
tình dục, đói thì luôn hạch sách, đòi ăn.
No mồm không no mắt
X. No lộ mẹng đói con mắt.
No quá mất ngon
Nói chung, mọi cái phải vừa độ đúng
chuẩn, quá ngưỡng là không còn giá trị.
Của chùa đất ở ruộng cày
Nhờ ơn phật tổ năm nay bụng tròn
Hoá ra no quá mất ngon
Chẳng thương đến lũ âm hồn mồ côi.
KTVXN, T5, Tr. 94
No trày say nác
ăn uống no nê, vui chơi thỏa thích. Bựa qua
thằng bạn đãi một bữa no tray say nác.
Nỏ ai biết trời mấy tuổi
Không thể biết tuổi của trời. Chỉ những điều
vượt quá khả năng nhận thức, lí giải của con người, những điều không thể
lí giải theo cách nhìn của dân gian xưa.
Nỏ thà ăn đá nằm mê,
Hơn đi đập đá chết lê bên đàng (đường)
(ở Hoàng Mai, Quỳnh Lưu, Nghệ An xưa thực dân
Pháp bắt dân khai thác mỏ đá nhưng không quan tâm đến đời sống công
nhân). Thái độ dứt khoát, kiên quyết phản kháng lại bọn chủ thực dân.
Nỏ thà ăn đá nằm mê,
Hơn đi đập đá chết lê bên đàng (đường)
KTCDXN , T 1 , Tr. 130
Nỏ thà ăn nhắt (dè), đừng có tắt bựa (bữa)
Thiếu ăn thì ăn ít hoặc nấu cháo ăn dè cho đủ
bữa.
Nói cho Pháp nghe
Nói ba hoa khoác lác, nói sai sự thật vì tưởng
người nghe không biết gì. (Như người Pháp bất đồng ngôn ngữ, không biết
tiếng Việt). Mi nói cho Pháp nghe đó chớ, mi tưởng tau không biết chi
à?
Nói côộc tre nhè côộc hóp
(Côộc tre: gốc tre, hóp, họ tre, không có gai
thường đùng làm gọng vó, cần câu, sào phơi...). Nói bóng gió, nói
cạnh nói khoé, nói người này để nhằm vào người kia. Nói chi thì cứ
nói thẳng ra đi việc chi mà phải
nói côộc tre nhè côộc hóp.
Nói hay cày dở
X. Nói thì sắc lẻm mần thì cùn trơ.
Nói lộn chạch lộn lươn
Nói năng lung tung, không có trình tự trước
sau.
Cá xuôi bàu cá ở
Chim lìa tổ ngược nguồn
Nói lộn chạch lộn lươn
Như tru (trâu) dằn chạc mụi (đè dây thừng).
KTVXN, T3, Tr. 192
Nói một câu cho vuông
Nói chắc chắn, thẳng thắn không quanh co, úp
mở.
Nói như chim như chuột
Nói bằng thứ âm rất lạ tai, không nghe và
không hiểu được (thường là nhận xét với người vùng khác). Hắn nói như
chim như chuột, tau nỏ nghe chi cả.
Nói như chó húp cháo nóng
Nói vội vàng, lộn xộn, ngắt quãng không có
trình tự nào cả. Mi nói từ từ cho người ta nghe với, nói chi mà như
chó húp cháo nóng rứa.
Nói như chó ngáp
Mõm chó dài, đêm canh nhà thức nhiều ngày buồn
ngủ hay ngáp. Mỗi lần ngáp nó ngoác miệng ra ngáp liên tục, trông rất
khó chịu. Người nào nói ẩu, nói liều, nói không ý tứ thường được ví như
vậy Mi nói như chó ngáp rứa chớ tau cả đời có giành giật cái chi
với
ai.
Nói như dùi cui châm nác mắm
X. Nói như dùi đục chặt chạc.
Nói như dùi đục chặt chạc
Nói năng quá lỗ mãng, cộc cằn Con gấy con
gớm chi mà nói năng như dùi đục chặt chạc.
Nói như dùi đục chấm nác (nước) cáy
Nói năng thô thiển, không có tình lí, thiếu
sức thuyết phục. Chán quá, bữa ni ngày vui mà hắn nói như dùi đục
châm nác cáy.
Nói như đá xán (ném)
Nói gay gắt, mạnh mẽ không còn chút kiêng nể,
giữ gìn Nói như đá xán rứa mà hắn vẫn không nghe.
Nói như leo táp.
Nói nhanh, nói nhiều và thô vụng. Cái thằng
nói năng như leo táp.
Nói như nói với con nít
Xem thường người nghe, nói những điều không
thể chấp nhận được. Thằng ni hắn nói với tau mà như nói với con nừ.
Nói như nói với trục cúi (đầu gối)
X. Nác đổ lá môn.
Nói như Pháp
Nói ba hoa khoác lác, nói những
điều bản thân không thể thực hiện được. Mi nói như Pháp.
Nói như tráo (sáo) sành
C.n. Nói như iểng.
Rày đánh hơi đánh tiếng
Mai dúm tỏi dúm hành
Miệng mụ nói như tráo sành
Nói năm canh vò võ
Nói đêm ngày vò võ.
KTVXN , T4 , Tr. 2 1 4
Nói thì cóc trong
bôộng
(lỗ) cụng (cũng) muốn
bò
ra nghe
Người lợi khẩu, có khỉ năng thuyết
phục ngừời khác bằng sự lợi khẩu. Hắn nói mà cóc trong
bôộng
cũng muốn bò ra nghe.
Nói thì con nhà
giống
Mần (làm) thì mống như ma
Nói năng khoác lác mà làm chẳng
được gì.
Nói thì con nhà giống
Làm thì mống nhà ma
Nên vừa mới bàn ra
Chưa làm chi đã lộ
Chi chưa làm đã lộ.
KTVXN , T9 , Tr. 304
Nói đồng hoang sang đồng rậm
Nói nhiều và nói linh tin không có
chủ đề thống) nhất, nói những chuyện vớ vẩn, tầm phào, nhạt nhẽo. Nói
chi mà nói đồng hoang sang đồng rậm, chán ngấy.
Nói thì dệ (dễ) mần lệ (làm lễ) thì
khó
Nói lí thuyết nhưng thực hiện lại
không được. Có giỏi thì thử làm đi, đừng có nói nhiều, nói thì dệ,
mần lệ thì khó.
Nói thì hay cày thì dở
X. Nói thì sắc lẻm mần thì cùn
trơ.
Nói thì sắc lẻm, mần thì cùn trơ.
Lời nói không đi đôi với việc làm.
Lí thuyết thì có vẻ hay nhưng thực hiện thì không ra gì.
Nói trơn bọt lọt lá
Ngày xưa, người ta hay đặt vại nước
cạnh gốc cau hứng nước mưa từ ngọn cau
xuống để hãm chè cho ngon. Nhưng
nước để lâu thường nhiều bọt rêu. Bọt này rất trơn, dùng lá (kể cả lá vả
là loại rất ráp) cuộn thành gàu để vớt vẫn hay bị tuột Thành ngữ này
thường để chỉ những người lợi khẩu lẻo mép. Cái miệng hắn ghê
gớm
lắm, đến đâu cũng nói trơn bọt lọt
lá.
Nói tùa trời bốc nạm
(nắm)
Quá khoác lác, kiêu căng tưởng như
trời đất nằm trong tay người đó. Bựa ni hắn nói tùa trời bốc nạm.
Nói với trục cúi (đầu gối)
X. Nác đổ lá môn.
Mi nói với hắn bất quá bắt trục cúi
mà nói.
Non như bù (bầu) loọc
Rất mềm yếu, hèn nhát, kém cỏi.
Đàn ông con trai mà non nhưbù loọc, nỏ có
tí cứng cỏi mô cả thì trông cậy
chi.
Nón cân sua dệ
(dễ)
đội,
Chồng xấu mặt dễ sai
Nón cân sua: nón rất to vành, hình
chóp choãi, khâu bằng móc to, rẻ tiền và thường dùng cho người lao động,
bỏ đâu cũng tiện không ngại hỏng, mất. Những người yếu kém về năng lực
thường dễ bị người khác sai khiến.
Nón cân sua dễ đội
Chồng xấu mặt dễ sai
Nơi quần rộng xống dài
Lưa mô phần em nữa
Chẳng còn phần em nựa.
KTVXN, T3 , Tr. 513
Nón cời, tơi rách
Nghèo khó, khốn khổ. Ông thật là
nhẫn tâm, tui ở với ông mấy năm trời nón cời tơi rách .
Nóng tay bắt tai
Ứng phó bị động do tình thế bắt
buộc, không theo kế hoạch sắp xếp. Thật tui không muốn làm phiền o,
nhưng nóng tay bắt tai thôi.
Nót (nuốt) trương gân trương cổ
Ăn uống vất vả trong tình trạng bị
hối thúc. Càng ăn càng thêm tội. Nót trương cổ trương gân ăn chưa
xong bữa ăn. Chị đã truyền công việc.
KTVXN, T4, Tr. 448
Nồi đồng dệ (dễ) nấu,
Chồng xấu dệ (dễ) sai
1- Những người đàn ông năng lực kém
cỏi thường hay bị vợ bắt nạt. Lấy phải chồng kém cỏi thì có thiệt nhưng
lại sai khiến được chồng.
2 - Gặp điều bất lợi, bất như ý
(trong tình duyên) nhưng đành tự an ủi động viên mình.
Cơm nồi đồng dễ nấu,
Lấy chồng xấu dễ sai,
Em đừng tham nơi lược giắt trâm
cài,
Nón Cổ Căng khăn nhiễu,
Hắn đập hoài năm canh
:
KTCDXN, T. 1 , tr. 249
Nồi đồng, kiềng sắt, than lim
Những thứ quý, có giá trị tương
đương, phải đi liền, đồng bộ với nhau. ý nói, người cao sang, quyền quý
phải sống với người quyền quý cao sang thì mới tương xứng.
Ai vơ rơm rác thì vơ
Nồi đồng kiềng sát đợi chờ than
lim.
KTCDXN , T 1 , Tr. 2 1 8
Nồi đồng kiềng sát than lim
Đến khi lửa bọn (tàn) phải tìm rơm
nhen.
KTCDXN, T2, Tr. 94
Nết cơm, nết mắm
Tiện thể làm cái gì đó thì làm
luôn, đỡ phần chuẩn bị rềnh ràng mất công nếu phải làm lần khác. Ta
kết hợp mần nhà mần lều luôn cho nết cơm nết mắm.
Nết cơn (cây), nết rễ, nết lá nết
ngành (cành).
Kết hợp được nhiều cái cùng một lúc
khi có điều kiện, thời cơ đến.
Nết cơn nết rễ
Nết lá nết cành
Em mà lấy được anh
Giá mà đồng chị trước.
KTVXN, T4, Tr. 398
Nết đọi, nết đụa (đũa)
X. Nết cơm nết mắm.
Ăn đi luôn cho nết đọi nết đụa.
Nết mưa đấy mấn (váy)
Lười biếng, nhân thể trời mưa, quần
áo ướt đái luôn ra váy. Phê phán những kẻ lợi dụng hoàn cảnh để làm
những việc không tốt, không đàng hoàng.
Nết
mưa đấy trấm
X. Nết mưa đấy mấn.
Nở chín mười khúc rọt (ruột)
Quá sung sướng, phấn khởi
Trông cho kháp (gặp)mặt nhau
Nở chín mười khúc rọt.
KTVXN, T3, Tr. 108
Nơi nên nỏ có, nơi có nỏ nên
Sự khó khăn trong việc tìm kiếm
người tri âm tri kỉ; phù hợp, tương xứng để kết bạn trăm năm: nơi tương
xứng với mình thì người ta không tìm đến mình, nơi người ta tìm đến mình
thì mình không ưng thuận.
Trai trong làng trửa (giữa) xạ (xã)
Thiêú chi kẻ rắp ranh
Nổi cả huyện Kỳ Anh
Nơi có mà nỏ nên
Nơi nên thì nỏ có.
KTVXN, T3, Tr. 347
Nơi nên thì nỏ (không) có,
Nơi có nỏ (không) nên chi
X. Nơi nên nỏ có, nơi có nỏ nên.
Nơi nên thời không có
Nơi có nỏ nên chi
Nên em phải tìm đi
Chốn rừng xanh biển xanh
Chốn rừng vàng biển bạc.
HGNT
Nuộc lạt bát cơm
1 - Một sự giúp đỡ của 1àng xóm dù
nhỏ cũng đáng giá, đáng để trân trọng, biết ơn.
2 - Thuê mướn người 1àm tốn kém.
3 - Kẻ bỏ công sức thì người trả
thù lao song phẳng.
Nuộc lạt bát nác
(nước).
X. Nuộc lạt bát cơm.
Nuôi cò cò mổ mắt,
Chơi với chó chó liếm mặt
Giúp đỡ, quan tâm hay giao du với
những kẻ có tâm địa xấu xa, phản trắc thì sẽ có ngày mang hoạ. Cần phải
tránh xa hạng người đó. Tau mới nói đùa một tý mà hắn dồ lên hắn chửi
tau nỏ lưa chi nựa, thật đúng là nuôi cò cò mổ mắt, chơi với chó chó
liếm mặt.
Nuôi cò cò mổ mắt,
Nuôi chắt chắt chắt chắt bỏ đi
X. Nuôi cò cò mổ mắt,
Chơi với chó chó liếm mặt.
Nuôi cò cò mổ mắt,
Nuôi chắt chắt chắt chắt mổ mụi
X. Nuôi cò cò mổ mắt,
Chơi với chó chó liếm mặt.
Nuôi cò, cò mổ mắt,
Nuôi ắc xắc ắc xắc mổ trọ
X. Nuôi cò cò mổ mắt,
Chơi với chó chó liếm mặt.
Nuôi con ngoài nỏ (không) ai nuôi
con trong
Khi phụ nữ mang thai không nên tẩm
bổ quá vì sẽ khó đẻ
Nuôi khỉ đốt nhà, nuôi gà phá bếp
X. Nuôi cò cò mổ mắt,
Chơi với chó chó liếm mặt.
Nuôi trẻ mới biết thương già,
Nuôi con mới biết mẹ cha nuôi
mình.
Chỉ đến khi trực tiếp thực hiện bổn
phận làm cha, làm mẹ mới thấu hiểu công lao và tình thương của cha mẹ
đối với mình. Chao ôi, mình chỉ có hai đứa con mà đã phát mệt huống
hồ cha mẹ mình ngày xưa đến bảy tám chị em. Đúng là: Nuôi trẻ mới
biết thương già,
Nuôi con mới biết mẹ cha nuôi mình.
Nửa bựa non trưa
Đã nửa buổi, gần trưa rồi. Câu này
thường dùng để nói ai đó ngủ muộn hoặc đi làm việc gì đó quá muộn, quá
chậm trễ so với bình thường. Ngủ chi mà ngủ nửa bựa non trưa rồi mà
chưa dậy lắm không biết.
Nửa đêm ga (gà) gáy
Thời điểm đêm về khuya, gần sáng.
Đi mô mà đi nửa đêm ga gáy mới về lắm a?
Nước giếng Vàng vừa trong vừa mát,
Nâu chợ Chùa nhuộm lạt lâu phai
Chợ Chùa thuộc xã Cẩm Thành, huyện
Cẩm Xuyên. Sở dĩ gọi thế vì ngày xưa ở đó có chùa. Chợ nằm ven sông Rào
Cá, lại ở vùng trù phú của phía tây bắc Cẩm Xuyên. Một trong những sản
vật có nhiều nơi đây là nâu. Vùng này còn có giếng Vàng, nước rất tốt.
Nước nửa gàu cá tràu đạ (đã) vọt
Cá tràu: cá quả, nhảy rất khoẻ nhất
là khi gặp nguy hiểm. Kinh nghiệm đi tát: phải là che chắn từ trước đề
phòng cá nhảy mất uổng công tát nước.
Nứng 1ồn (tục) đi nhắc, nứng cặc
(tục) đi nghiêng
Đây là những biểu hiện của nam và
nữ khi có ham muốn tình dục.
Nương hoang cỏ rậm
Vườn tược bị hoang phế do bỏ lâu
không chăm sóc. Hắn mần chi mà bỏ nương hoang cỏ rậm ri?
O
Oai ăn khoai cả vỏ
X. Oai như cổ (củ) khoai lặc lờ
Oai như cổ (củ) khoai lặc lờ
Hình thức xấu xí đáng xem thường
nhưng hay lên mặt. Oai chi mà oai, oai như cổ khoai lặc lờ.
Oi trôộng khu, du rôộng mồm
Oi trộông khu (giỏ lủng đáy) thì
chẳng bao giờ đầy cá; du rộng mồm thì ăn nhiều nói lắm cũng tan cửa nát
nhà. Hàm ý: chọn dâu nên tránh đàn bà rộng miệng.
Ót (gáy) su (sâu) hư ăn
Kinh nghiệm nhân tướng học dân gian
cho hay, người nào mà gáy sâu thì tham ăn, tính tình tham lam. Mi
(mày) rờ (sờ) sau ót mi coi su hay cạn rồi chê người ta.
Ô
Ốm tru (trâu) còn hơn bạo (khoẻ) bò
Nam giới dù có yếu cũng còn hơn phụ
nữ khoẻ. Trong nhà có anh đàn ông dù răng nữa cũng gánh vác được mọi
việc, ốm trâu còn hơn bạo bò mà.
Ông nỏ ra ông thằng nỏ ra thằng
Không có vị trí rõ rang trong xã hội, tính khí
thất thường, dở dở ương ương. Anh nỏ mần được cái trò trống chi cả,
ông nỏ ra ông thong nỏ ra thằng, chán
chết.
Ôông kể côông ôông đi cày
Côông mụ nấu náng cụng (cũng) tày côông ôông
Mỗi người đều có phần đóng góp vào thành quả
chung tuỳ theo chức trách của mình, phải biết trân trọng mỗi sự đóng góp
đó, không nên chỉ biết đến đóng góp của mình mà phủ nhận, lãng quên đóng
góp của những người khác; những công việc nội trợ của phụ nữ cũng rất
quan trọng, không kém gì công việc của nam giới.
Ở ác kháp (gặp) ông xanh
Ở ác sẽ có lúc trời trừng phạt.
Ở đời có bốn cái ngu:
Làm mai, lạng (lãnh) nợ, gác cu cầm chầu
(Làm mai: làm mối, xe duyên vợ chồng; lãnh nợ:
bảo lãnh cho người khác vay nợ; gác cu: canh gác cho các hội cờ bạc; cầm
chầu: đánh trống cầm chầu cho các cuộc hát ả đào). Kinh nghiệm ứng xử:
làm người cần tránh những điều dại dột nói trên. Làm mai nếu không thành
dễ bị người ta oán, lãnh nợ dễ phải ôm nợ khi con nợ chạy làng, gác cu
dễ bị bắt khi hội bạc vỡ, cầm chầu dễ bị chê vì lỡ nhịp.
Ở ngái (xa) mỏi chin (chân),
Ở ghin (gần) mỏi míệng
X. Ngái mỏi chin, ghin mỏi miệng.
Ở nhà biết ma đau mắt
1- Chỉ sự khoác 1ác hồ đồ của hạng người ba
hoa, phét lác. Nghe chi mồm
hắn, hắn ở nhà mà biết ma đau mắt đấy.
2 - Không có quan sát thực tế, chỉ nghe nói,
suy đoán mà dám quả quyết tỏ ra mình biết tất cả, nghĩ oan cho người
khác
Ở với khỉ biết khỉ đỏ khu (đít) Ở với tru
(trâu) biết tru nhọn sừng
1 - Có sống gần gũi nhau thì mới biết rõ về
nhau.
2 - Gần nhau mới biết được chỗ hay dở, cái
điểm yếu của nhau. Ở lâu thì ắt biết khỉ đỏ khu biết tru nhọn sừng
chúng mày ạ.
P
Pha chay pha tạp
Không còn giữ được sự thuần nhất nữa, đã có sự
ảnh hưởng từ bên ngoài vào.
Phá chuông đúc tượng
Bỏ công sức ra một cách vô ích để thay thế,
'hoán đổi vật này sang vật khác.
Biết là nên nỏ nỏ nên
Phá chuông đúc tượng ai đền công cho
Quý hồ mình phá chuông đi
Đúc không nên
tượng ta thì đền cho.
KTCDXN, T2 , Tr. 45
Phá như giặc
1 – Trẻ con quá nghịch ngợm. Mấy thằng cháu
phá như giặc.
2 - Con cái ăn tiêu phung phí, làm những việc
động trời. Con tui hắn
phá như giặc.
Phải ai người nấy chịu
Những sự rủi ro thường không có căn
nguyên từ con người, phải biết chấp nhận, đừng trách cứ ai cả, cũng
đừng bắt người khác gánhthay cho mình. Phải ai nấy chịu thôi con
ạ, đừng có trách cứ chi ai mà tội nghiệp.
Phát như phát chẩn
(Phát chẩn: nhà giàu tổ chức phân
phát tập thể, bố thí tiền gạo cho người đói).
Phân phát đều khắp lượt cho mọi
người; người hào phóng, rộng lượng, sẵn sàng bỏ tiền ra nhiều, bất cứ
lúc nào. Tiền mô nơi thằng nớ mà nhiều ghê gớm gặp ai hắn cũng phát
như phát chẩn.
Phập phù như ma trơi
Không ổn định, khi thếnày lúc thế
khác.
Phéc (vạch) rọt (ruột) cho troi
(dòi) ruông
Người thân trong nhà hoặc trong
cùng một tập thể mà không biết gìn giữ cho nhau lại tiết lộ những điều
bí mật của gia đình hoặc tập thể để người ngoài tìm cách làm hại. Anh
em than tình cả mà anh lại đi phéc rọt cho troi ruông.
Phô (nói) nghe nhủ cứ
Con cái hoặc kẻ dưới ngoan ngoãn
vâng lời cha mẹ, người trên. Bác có mấy đứa
con thích thật đã giỏi dang lại phô
nghe nhủ cứ.
Phơi ló (lúa) thì phải năng quây
Gạo đâm liền trày (chày) đừng có
nghỉ chân. Kinh nghiệm phơi lúa và giã gạo, cũng là lời răn dạy con cái:
phải siêng năng, chăm chỉ, chớ lười biếng.
Ăn thì chớ no
Ngủ thì đừng có ngủ cho rạng ngày
Phơi lúa thì phải năng quây
Gạo đâm liền trày,
Đừng có nghỉ chân.
KTVXN, T6, Tr. 552
Phơi ló (lúa) nống sưa (thưa),
Chèo đò ngược động (núi)
Sự việc ngược đời khó xảy ra.
Đừng có phơi ló nống sưa
Chèo đò ngược động mà lừa duyên em.
KTCDXN, Ti, Tr. 295
Q
Qua bờ giếng, liệng bờ ao
Rất khát khao muốn gặp gỡ nhưng
ngại tiếp xúc trực tiếp nên chỉ tha thẩn chung quanh ngắm nhìn từ xa để
chờ dịp; đi đi lại lại làm như vô tình gặp gỡ chứ không có chủ ý.
Qua bờ giêng, liệng bờ ao
Nước thì không khát khát khao duyên
chàng.
KTCDXN, T2, Tr. 282
Qua cồn băng cụp
(Cụp: đồi cao). Đường đi gian nan
vất vả. Đi cả ngày qua cồn băng cụp nhọc bở
hơi
tai .
Qua truông trỏ lọ cho khái
X. Qua truông trật cặc cho khái.
Qua truông xuống động
X. Qua cồn băng cụp.
Qua truông trật cặc cho khái (hổ)
Kẻ sống không thủy chung, phản bội,
xảo trá. Hắn là đứa tráo trở, vừa mới xong việc đã trở mặt, đúng là
loại qua truông trật cặc cho khái.
Qua vườn cam chớ sửa mụ (mũ),
Qua vườn củ chớ sửa giày
Cần khéo léo ứng xử tinh tế trong
cuộc sống tránh để bị hiểu lầm, nghi oan ví như qua vườn cam đừng nên
sửa mũ vì người đứng từ xa có thể nhầm là mình đang hái quả, qua vườn củ
mà sửa giày dễ bị cho là đào trộm củ.
Quả hồng ngâm đưa cho chuột vọc
Những thứ quí giá lại rơi vào tay
kẻ tầm thường, hạ đẳng. Sự không tương đẳng tương ứng.
Tiếc quả hồng ngâm đưa cho chuột
vọc
Tiếc con người ngọc đưa cho ngâu
vầy
Tiếc của An Nam dành dụm để cho Tây
vẫy vùng.
K TCDXN , T 1 , Tr. 159
Quá ngán nội nước
Thất vọng, chán nản đến hết cỡ
trước những việc quan trọng xảy ra ngược lại với những gì đã định liệu
Quan ăn tiền thằng dại,
Khái (hổ) ăn thịt thằng đần
Ngu dốt, đần độn thì chỉ có bị
người ta ức hiếp, bắt nạt.
Quan ăn tiền thằng dại,
Khái ăn thịt thằng đần
Còn những
kẻ khôn ngoan
Quan không mần chi được
Khái nỏ mần chi được.
HGNT
Quan môn, quý môn,
Đến cửa nhà lồn,
Quỳ gối lượm tay.
Bất kể kẻ quyền quý cao sang gì
cũng tầm thường trong sinh hoạt tình dục.
Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn tần mần như ma.
Ca
dao
Quanh năm nhút chuối, vại cà
Lưng còng long mỏi, cháy da sém mày
Cuộc sống quá gian nan vất vả lao
động quá nặng nhọc ăn uống kham khổ.
Quay mòng mòng
Quay tròn liên tục.
Muốn ngồi thì ngồi cối xay.
Đừng ngồi côí đá mà quay mòng mòng.
KTVXN, T2, Tr. 581
Quảy trù (trầu) đến nhởi (chơi)
Mang trầu cau đến chạm ngõ.
Mặc ai chê,
mặc ai dèm
Quảy trù đến nhởi mà đem em về
Mặc ai dèm, mặc ai chê
Quảy trù đến nhởi em về cùng anh
Hai ta cùng dọi mái tranh
Đói rách cùng chịu no lành có nhau.
KTCDXN, Ti , Tr. 328
Quần chằm áo vá
X. Quần quành áo cụt.
Quần dài ăn mắm thúi (thối),
Quần đến trục cúi (đầu gối) ăn mắm
thơm
(Mắm: thức ăn). Mặc quần dài thì
khi lao động sẽ khó vì thế năng suất thấp, hiệu quả kém và ngược lại. Ý
nói: lao động thật sự không có chỗ cho sự lòe loẹt hay nhếch nhác.
Quần quành áo cụt.
Cảnh sống khó khăn nghèo túng.
Ba thưng bảy đấu
Đong lại cho nhằm
Mất mùa ba năm
Quần quành áo cụt.
KTVXN, T2, Tr. 512
Quần rộng xống dài
Sống phong lưu nhàn hạ.
Cày thuê cuốc mướn
Quần rộng xống dài
Đến
tiết giêng hai
Rau khoai ngọn đỗ.
KTVXN, T4, Tr. 362
Quạt rách thì giữ lấy lài,
Bị rách thì giữ lấy quai cho bền
Dù trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu
thốn cũng phải giữ cho được phẩm hạnh, đạo đức của con người.
Quạt rách thì giữ lấy lài
Bị rách thì giữ lấy quai cho bền.
KTCDXN, T2, Tr. 1 26
Què khỏe óng, ngọng siêng phô (nói)
Việc có vẻ nghịch lí nhưng có lí bị
hạn chế phải cố gắng để bù lấp hạn chế như què chân thì chân còn lại
phải vận động nhiều nên khỏe
óng, ngọng nói người ta
không hiểu nên phải nói nhiều, nói đi nói lại để lgười ta đoán mà hiểu
được
Quen mặt, đặt tiền
(Đắt tiền: đáng giá). Kinh nghiệm
mua hàng: mua người quen thì được hàng tốt vừa ý xứng đáng với đồng tiền
bỏ ra.
Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần
Người quen quá hiểu nhau, e nể tính
tình, bụng dạ; người lạ thì chỉ đánh giá qua cách ăn mặc, sang trọng,
lịch sự, hay nghèo hèn.
Quen việc nhà mạ (mẹ) lạ việc nhà
chồng.
Lẽ thường của việc làm dâu. Dẫu đã
quen việc nhà mình nhưng vẫn lạ lẫm, lúng túng trước bổn phận mới mẻ ở
nhà chồng.
Dầu quen việc nhà mạ
Mà lạ việc nhà chồng
Biết đâu bụt mất ông
Biết đâu trời mấy tuổi.
KTVXN , T4, Tr. 215
Quét như chó liếm kít lá tre
Phân người ở vùng có nhiều lá tre
chó không thể liếm sạch được vì lá tre nhỏ. Phê phán việc quét dọn không
sạch sẽ, không đến nơi đến chốn.
Quỳnh Đôi khoa bảng thật nhiều,
Như cơn (cây) trên rú (núi), như
diều trên không
Làng Quỳnh Đôi có nhiều người đỗ
đạt cao, nổi tiếng cả nước.
R
Ra đàng hỏi kẻ tra (người già), về
nhà hỏi con nít (trẻ
con)
Người già sống lâu, nhiều kinh
nghiệm. Ra đường hỏi người già là rõ nhất vì họ biết nhiều nhất. Còn
muốn biết chuyện trong gia đình thì hỏi trẻ em là rõ nhất vì trẻ em thật
thà, có gì nói nấy, thậm chí hay khoe, chưa có ý thức bảo vệ bí mật.
Ra đi gặp tắn (rắn) mắc may,
Ra về gặp tắn nằm ngay chịu đòn
Quan niệm mê tín: đi làm việc gì đó
nếu gặp rắn thì rất may mắn, còn trên đường về gặp rắn lại không may, là
điềm xấu.
Ra đi mẹ đạ (đã) dặn rồi,
Không làm thì đứng đừng ngồi khó
coi
Làm ăn chung nếu lười biếng thì
không thể chấp
nhận. Nếu có mệt chỉ nên đứng nghỉ một lát thì ít người để ý, ngồi xuống
trông nhếch nhác và dễ bị phát hiện, bị tẩy chay. Đây là một kinh nghiệm
ứng xử trong sinh hoạt cộng đồng.
Ra khơi vào lộng
Cảnh sống vất vả, khó khăn nay đây
mai đó nhưng cũng rất thoải mái, tự do của người dân miền biển bằng nghề
đánh bắt cá.
Tiếng đồn lừng tẫy ba trang
Ra khơi vào lộng đâu bằng Lộc Châu
Lộc Châu nghề biển làm đầu
Lại còn buôn bán làm giàu ăn chơi .
KTCDXN, T2, Tr. 72
Rạch ồ ồ như cá rô mắc cạn
X. Ngoảy như tru sứt trẹo.
Rát hơi bỏng cổ
Phải nói quá nhiều vì con hoặc kẻ
dưới không ngoan, nói không chịu nghe hoặc chậm hiểu. Nói rát hơi
bỏng cổ mà chúng có nghe cho đâu.
Rau tập tàng thì ngon,
con tập tàng thì khôn.
(Rau tập tàng: rau vặt, rau dại
nhiều thứ góp lại; con tập tàng: con không có cha, không rõ cha là ai,
con do mẹ quan hệ không đứng đắn mà có). Rau tập tàng nấu canh hoặc
luộc, ăn sống đều ngon do lạ miệng, có nhiều hương vị. Con tập tàng phải
chịu nhiều gian khổ tự lập sớm nên sớm khôn.
Rằm tháng sáu, con cháu đi ăn sim
(Sim, cây thấp, mọc ở các đồi núi,
hoa màu tím, quả nhiều hạt, chín ăn khá ngọt). Hằng năm cứ đến rằm tháng
sáu âm lịch là lúc sim chín rộ người ta đua nhau lên núi hái về các chợ
bán.
Răng cào chìa
Răng to, hô, chìa ra rất xấu.
Răng ông nớ như răng cào chìa.
Răng đen má đỏ
Người phụ nữ đẹp (theo quan niệm
thời xưa).
Trắng trong giữ giá nhà vàng
Răng đen má đỏ đợi chàng đầu xanh.
KTCDXN, Tl , Tr. 420
Rặt rặt (chim sẻ) ẻ (ỉa) cứt đận
Chỉ người tằn tiện, bủn xỉn đến quá
mức.
Rậm lông mày dày lông 1ồn (tục)
Kinh nghiệm xem tướng, xem mặt đoán
bên trong chỗ kín.
Rầy thì bắt bỏ bù
(Rầy: ngượng ngùng, e ngại; rầy còn
là cách gọi khác một số loài bọ như bọ vừng, bọ muổng mà dân địa phương
thường bắt bỏ vào bầu đem về rang ăn). Đây là hình thức chơi chữ ngụ ý
nói: không việc gì sai trái để phải e ngại, ngượng ngùng cả.
Rẻ như ổi
Rất rẻ, không đáng giá.
Rẻ như khoai
X. Rẻ như ổi.
Rẻ như toóc (rạ) lụt
Rất rẻ vì hầu như không còn giá trị
(trong một thời điểm nào đó, ví như toóc mùa lụt).
Rèo như rèo bò
Trông nom,
dạy dỗ con cái
em út, kẻ dưới nói chung một cách
khó nhọc vì nghịch ngợm hoặc
chậm hiểu. Thằng nớ mần
tội bọ hắn rèo như rèo bò.
Rèo tru (trâu) đực không bằng chực
bựa ăn
(Rèo tru đực: chăn trâu đực. Chăn
trâu cái mau đẻ lãi nhanh chăn trâu đực thì vừa lâu lãi vừa hay quẩng
mỡ). Nỗi bực bội vì phải chờ ăn, chờ cho đủ người, đủ mâm, thời gian chờ
đợi như lâu hơn nhiều so với thời gian thực tế.
Riệu (rượu) Đức Thanh, chanh Chợ
Thượng
Đức Thanh thuộc huyện Đức Thọ là
nơi có rượu ngon nổi tiếng, chợ Thượng cũng thuộc huyện Đức Thọ,
Hà
Tĩnh là nơi có chanh ngon, nhiều.
Ròi bu (ruồi bâu) kiến độ.
Thức ăn để ruồi nhặng đậu, kiến bò
vào, rất mất vệ sinh.
Ròi bu (bâu) kiến cắm (cắn)
Trẻ em không có người chăm, thả bò
lê la rất tội nghiệp. Tội nghiệp, hắn thả cho ròi bu kiên cắm từ khi
sáng tận giừ.
Rọng (ruộng) cạn, má úa
Tính chất thời vụ cấp bách, đòi hỏi
khẩn trương, chậm trễ là hỏng việc. Rót mật thử ròi (ruồi) Làm những
việc vô ích, hoài công.
Ôm rơm kề tận lửa
Lấy mía đút cho voi
Rót mật lại thử ròi
Biết bao là cho chán.
KTVXN, T7, Tr. 338
Rọt (ruột) như rọt (ruột) ca cóc
Bụng rất to so với cơ thể. Ăn nhiều quá hay
răng mà thằng mô thằng nấy rọt như rọt cá cóc cả.
Rọt (ruột) tựa ống pheo (tre)
Thân hình quá ốm yếu, ruột giống như ruột tre.
Thương mình ruột tựa ống pheo
Cơm ăn chẳng được khu beo tày giành.
KTVXN T 1 , Tr. 415
Rọt (ruột) xót như mói (muối) dạ mềm như dưa
Cảnh buồn đau, sầu não.
Đêm qua chính thực là đêm
Rọt xót như mói dạ mềm như dưa
Gọi nàng chẳng thấy nàng thưa
Thò tay bẻ khoá trời vừa rạng đông
Trách trời sao chóng rạng đông
Chẳng khuya tí nữa để lòng thở than.
KTCDXN, T.l, Tr. 275
Rổ trẹt lận nẩy tròn
Rổ trẹt: rổ có thành thấp, thường dùng để bán
cá, trông qua tưởng nhiều nhưng kì thực rất ít, lại nẩy tròn lên lúc
đong nữa thì càng chứa ít cá, có lợi cho người bán.
Kẻ nhà nghề hải ngạn
Được cá bán cho buôn
Ổ trẹt lận nẩy
tròn
Mong cho buôn mất vốn.
HGNT
Rộc Mĩ Tú lắm cá,
Lèn Trung Phường lắm đá,
Đất chợ Bộng lắm nồi,
Đất Văn Tập lắm vôi.
Đây là những địa danh ở hai huyện Yên Thành và
Diễn Chấu, Nghệ An nổi tiếng về các sản phẩm: cá, đá nồi, vôi.
Rù rờ như cờ không gió
Chậm chạp thiếu sinh khí, thiếu mạnh mẽ, quyết
đoán. Đàn ông con trai chi mà rù rờ như cờ không gió rứa.
Rú Bờng, rú Mả, rú Bin;
Ba rú họp lại bằng một chin rú Hồng
Rú (núi) Hồng lớn gấp nhiều lần những ngọn rú
khác
Rú (núi) Đọ đội mụ (mũ),
Rú Vọng ấp mái thì trời mưa
Rú Đọ tức núi Bàn Độ, rú Vọng là núi Cao Vọng
là những ngọn núi ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Nhân dân địa phương có thói
quen đoán thời tiết dựa vào quan sát núi. Núi Bàn Độ mây bá đỉnh, hoặc
núi Cao Vọng mây phủ mái thì
thế nào cũng có mưa.
Rú (núi) Lần đội
mạo (mũ) thì
trời sắp mưa
Rú Lần tức núi Lạn Sơn, một trong những ngọn
núi của Hồng Lĩnh. Kinh nghiệm xem thời tiết của nhân dân vùng vùng Nghi
Xuân: khi
thấy mây phủ đỉnh rú Lần
biết là trời sắp mưa.
Rú (núi) Hôống đeo đai, rú Cài đội mạo
(mũ)
Rú Hôống rức núi Hồng Lĩnh, rú Cài một ngọn
núi ở làng Kiệt Thạch, Thanh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Đây là kinh nghiệm
xem thời tiết của người dân vùng này: thấy núi Hồng Lĩnh có mây vắt lưng
chừng như đeo đai, núi Cài có mây bá trên đỉnh là biết trời sắp mưa.
Rúm ró như chó khiếp pháo
Sợ quá mức, sợ đến rúm ró cả thân thể.
Run như cò tháng tám
X. Co ro như cò tháng tám.
Rửa đọi (bát) thì chớ chồng cao.
Kinh nghiệm dân gian khi rửa bát đ a. Chồng
cao dễ đổ vỡ
Rửa đọi thì chớ chồng cao
Sa tay nảy (rớt) xuống tan hao cửa nhà.
KTVXN , T6 , Tr. 553
Ruộng cao trồng mầu, ruộng sâu cấy chiêm
Kinh nghiệm trong sử dụng đất canh tác có hiệu
quả tránh những thiệt hại do thời tiết gây ra: ruộng cao không có nước
không nên cấy lúa mà chỉ trồng màu, ruộng sâu không nên cấy vụ mùa vì
mùa mưa nước ngập.
Ruộng đồng, chồng trửa (giữa) làng
X. Lấy chồng trửa làng bằng vàng treo trửa
ngọ.
Ruộng không phân như thân không của
Kmh nghiệm trồng lúa: phân rất quan trọng cho
quá trình sinh trưởng của cấy lúa, thiếu phân lúa sẽ kém phát triển ví
như người không có của, thiếu ăn, gầy yếu.
S
Sào sậy bè lim
Công việc quá sức, quá khả năng, khó đạt hiệu
quả.
Sóng dồn thuyền muôn dừng neo
Sợ rằng sào sậy khó chèo bè lim.
KTCDXN, T2, Tr. 541
Sáng tai hò mà điếc tai cày
X. Túi đàng cày mà sang đàng hò.
Sáo nhảỳ quá đăng
Làm những việc vượt quá quyền hạn, chức phận
cho phép. Chưa hỏi ý kiến lãnh đạo mà các đồng chí đã tự ý làm, rõ
ràng là sáo nhảy quá đăng, không thể chấp nhận được.
Sấm tháng mười cày cươi (sân nhà) mà cấy
Kinh nghiệm trồng trọt: tháng mười có sấm thì
nhất định vụ chiêm sau đó sẽ được mùa, nên tận dụng đất để cấy lúa.
Sập vàng trải chiếu hoa
Cuộc sống phong lưu, sung túc
sập vàng mà trải chiếu hoa
Không bằng áo thiếp đắp qua dạ chàng.
KTCDXN, Tl, Tr. 390
Sầu tương tư hư nhan sắc
Sầu muộn vì tình thường dễ làm nhan sắc tàn
phai. Không lấy đứa ni thì lấy đứa khác việc chi mà phải buồn khổ lắm
rứa, sầu tương tư hư nhan sắc đó con ạ.
Sấm ra tháng chín
Cấy trên đống nhấm (rấm) cụng (cũng) được ăn
Kinh nghiệm trồng trọt: Sấm tháng chín sẽ được
mùa.
Sây (sai) du (dâu) đại hạn, sây (sai) nhạn
(nhãn) được mùa
Kinh nghiệm dân gian : dâu sai quả thì đại
hạn, nhãn sai quả thì được mùa.
Sây (sai) sim đại hạn,
sây (sai) nhạn (sai) được mùa,
Sây (sai) cua thì lụt
Kinh nghiệm dân gian: sim sai quả thì đại hạn,
nhãn sai quả thì được mùa, cua nhiều thì lụt.
Sây trái rậm cành
Gia đình đông người, lắm anh, nhiều chị.
Tham nơi sây trái rậm cành
Tham nơi nhiều chị lắm anh mà nhờ.
KTCDXN , T.1 , Tr. 401
Sèm (thèm) nhệ dại (nước miếng)
Chỉ cảm giác thèm muốn cao độ, trước cái gì đó
hấp dẫn, đặc biệt là trước thức ăn ngon. Bọn nớ ăn cá ngon quá, tau
sèm nhệ dại.
Siêng chẻ chạc (lạt), nhác lợp nhà
Ngày trước ở nhà tranh, nhà lá cứ vài ba năm
lại phải lợp lại. Trong công việc lợp nhà lạt là thứ trọng yếu liên quan
đến công việc của tất cả mọi người, đòi hỏi phải làm nhanh không thể
chậm trễ. Nếu chậm, thiếu lạt, người ngồi trên mái gọi vang lên. Mọi
thiếu sót, chậm trễ dễ đổ dồn cho người chẻ lạt cho nên người siêng
năng, nhanh nhẹn mới nhận việc này. Còn lợp nhà nếu có chậm một tý là có
người bên cạnh buộc với sang vài nuộc cũng không sao.
Siêng đi chạc, nhác đi nu
X. Siêng chẻ chạc, nhác lợp nhà
Siêng gánh nác (nước) nhác đi ẻ (ỉa)
Ngày xưa cả làng dung chung một cái giếng,
gánh nước là việc thường xuyên, hàng ngày. Nước là nhu cầu cần kíp để
nấu nướng, người siêng năng mới dám nhận công việc này vì chỉ cần chậm
trễ là không kịp nấu cơm, ảnh hưởng đến bữa ăn của cả gia đình, người
lớn dễ nhận thấy. Lười biếng thì tìm cách trốn tránh công việc bằng mọi
lí do mà lí do không ai có thể trì hoãn là đại tiện.
Siêng làng Trác, nhác làng Sau,
Lắm cau làng Nồi, bạo (hay) ngồi Đồng Cạn,
Lắm hạn làng Chùa, lắm vua Đồng Địch.
Các làng trên đều thuộc xã Xuân Viên, huyện
Nghi Xuân. Mỗi làng có một đặc điểm riêng.
Siêng uống nác (nước), nhác đi ẻ (ỉa)
Uống nhiều nước được coi là biểu hiện của làm
việc nhiều vì làm việc nhiều thì mồ hôi ra nhiều, cơ thể cần nước để bù
lại. Lười biếng thì tìm cách trốn tránh công việc bằng mọi lí do mà lí
do không thể trì hoãn là đại tiện.
Sim, nang, sang, sú (sấu)
Đây là những thứ quả của rừng có nhiều về mùa
hè ở vùng rừng núi Nghệ Tĩnh, người dân hay lên rừng lấy về bán.
Sinh mắt cho rách trán
Mắt có cũng như không; không chịu quan sát,
nhìn ngó chung quanh, không biết cách tìm kiếm. Người ta đua nhau làm
ầm ầm rứa mà mi không biết rứa thì sinh mắt mần chi cho rách trán đi
.
Sổ cầu Bùng lấy thùng đựng nác (nước)
Kinh nghiệm xem thời tiết của dân địa phương:
Sổ xuất hiện phía cáu Bùng là dấu hiệu báo trời sẽ mưa. (Cầu Bùng ở Diễn
Châu, Nghệ An) .
Sổ quàng Lạch cái đách cụng (cũng) khô
Dấu hiệu trời nắng hạn.
Sổ quàng Lạch lau lách phơi khô
X. Sổ quàng Lạch cái đách cũng khô.
Sổ quàng Rông, hướng Đông thì bạo (bão)
X. Sổ cầu Bùng lấy thùng đựng nác.
Số chó đòi
Chó vốn là loại động vật có bản năng săn mồi
vào cỡ siêu hạng trong thế giới động vật. Chó sói cũng như chó nhà nếu
nó đã bám đuổi được con mồi thì nó đuổi bắt kì được. Người được ví mắc
phải số chó đòi là người liên tục gặp vận rủi, vận đen, cuộc đời long
đong lận đận luôn gặp phải chuyện không may. Hắn làm cái gì cũng
không
nên chuyện, số hắn đúng là số chó đòi.
Số không giàu làm đau xương hoóc
Không có số đậu của thì đừng cố làm giàu vì
như thế cũng vô ích, thậm chí có khi còn hại mình.
Tử sinh hữu mệnh, phú quý do thiên
Số giàu đem đến dửng dưng,
Lọ là con mắt tráo trưng mới giàu
Tốt số hơn cố làm
Giàu nghèo có số đừng cố làm gì
Số không giàu làm đau xương hoóc.
HGNT
Số ma trơi
Ma trơi tức là lân tinh bị cháy ban đêm khi
thay đổi thời tiết ở các khu nghĩa địa. Đặc điểm của ngọn lửa lân tinh
là bập bùng lúc tắt lúc đỏ lúc nhỏ lúc to, khi bay cao, khi sà xuống
thấp. Những người số phận phập phù, long đong hay tự ví mình như vậy.
Mình gặp cái số ma trơi, không làm chi nên ăn được.
Sông su (sâu) nác (nước) nậy (to, lớn)
Cảnh sông nước hiểm nguy, gian nan, vất vả.
Khi sông su nác nậy
Lúc cách trở đò giang
Em muốn để lại mớ hàng
Về tạu dăm ba sào ruộng.
KTVXN, T2, Tr. 137
Sởi lởi trời gởi của cho,
Quăn co trời gò của lại
Người vui tính, cởi mở, dễ dãí với mọi người
thì làm ăn dễ dàng, có của; người khó tính, cau có, dáng điệu tất bật
vất vả thì khó làm ăn không có của.
Sợ đọi cơm đáy, không sợ thầy to tiếng
Sợ đọi cơm đầy là sợ miếng ăn không sợ thầy to
tiếng tức là không sợ uy quyền. Đây là một đạo lý trong thực
tiễn cuộc sống
ngày xưa của người nông đân. Đối với họ cái đói và miếng ăn là đáng sợ
nhất. Đừng có to mồm mà dọa, choa đây chỉ sợ đọi cơm đầy, không sợ
thầy lo tiếng.
Su ao lắm cá, độc dạ khốn thân
Người có tâm địa hiểm độc, hại người sẽ bị
trừng trị.
Su ót (gáy) lẹm cằm ham ăn như chó
Có quan niệm cho rằng người có gáy sâu và cằm
chẻ (lẹm cằm) thì rất tham ăn.
Sủa như chó sủa ma
Một cách nói điêu khi giận dỗi về hiện tượng
bệnh ho nhiều, ho suốt đêm do không kiêng khem, gìn giữ
Sưa (thưa) răng nói hớt, trớt mui (môi) nói
thừa
Quan niệm dân gian cho rằng những người thưa
răng, môi trớt thường hay nói khoác loác, nói sai hoặc nói quá sự thật.
Mi là thằng sưa răng nói hớt, trớt mui
nói thừa .
Sừng bánh chưng, lưng tôm càng
Trâu có đặc điểm trên là trâu xấu
Sừng cánh ná, dạ hình vôi mắt ốc nhồi
Kinh nghiệm chọn trâu: trâu có những đặc điểm
trên là trâu tốt.
Sưa răng nói dối, trối răng nói thừa
Kinh nghiệm xem tướng: Người răng thưa và răng
trối đều ăn nói không thật
Thà.
Sướng con cu, mù con mắt
Hoan lạc, sung sướng trong tình dục
nhiều thì cơ thể mệt mỏi, suy sụp.
Sướng cu, mù mắt
X. Sướng con cu, mù con mắt.
T
Tại anh, tại ả, tại cả hai bên
Để dẫn đến một cuộc xô xát tranh
chấp lí do là từ cả hai phía chứ không riêng một bên nào. Đứa mô cũng
có cái sai cả mới ra nông nội ri, tai anh tại ả tại cả đôi bên.
Tát hơi phỏng cổ
X. Rát hơi bỏng cổ.
Tay
bị tay gậy
Cảnh đi ăn mày.
Tay chồm mồm cắm (cắn)
Tư thế, động tác của hổ, mèo khi
tấn công con mồi. Người dữ tợn, điêu ngoa, ghê gớm, hễ gây sự là không
cho đối thủ kịp phản ứng Con mệ nớ hắn ghê gớm lắm, động tí là tay
chồm, mồm cắm.
Tay chiêu (tay trái) đập niêu nỏ bể
(vỡ)
Người yếu đuối, thấp kém về năng
lực thì làm việc gì cũng không xong dù đó là việc đơn giản nhất. Đã
biết tay chiêu đập niêu nỏ bể răng anh còn nhờ hắn mần việc nớ.
Tay giắc con bò, chân dò con giam
(cua)
Siêng năng chăm chỉ, làm một lúc
hai ba việc, tận đụng hết mọi cơ hội, thì giờ
để làm việc.
Tay làng lựa (chọn), mồm làng buôn
(Tay làng lựa: tay người làm nghề
chọn hàng, rất nhanh và dẻo. Mồm làng buôn: miệng người làm nghề buôn
bán giỏi mời chào, thuyết phục khách hàng) . Chỉ những người
nhanh nhẹn, hoạt bát.
Tay vo miệng lẻm.
Làm được bao nhiêu tiêu xài hết,
không có phần để dành.
Thợ may bớt giẻ, thợ vẽ bớt hồ
Tay vo miệng lẻm có mô sang giàu.
KTCDXN, T2, Tr. 80
Tắm cho con láng giềng
Con láng giềng, không phải con mình
nên không săn sóc hết lòng. Hàm ý chỉ người làm việc gì đó qua loa, sơ
sài lấy lệ, không chu đáo cẩn thận. Mi mần chi mà như tăm cho con
láng giềng rứa.
Tắm mát giếng Đoài, hỏi ngài
(người) Trường Lưu
Giếng Đoài ở xã Thanh Nga, lrường
Lưu, nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, một vùng đất văn vật của Hà
Tmh. Gái Trường Lưu nổi tiếng xinh đẹp giỏi giang, thông minh, tình tứ.
Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du thời trẻ đã nhiều lần giao lưu hát xướng
với các cô gái Trường Lưu và để lại hai tác phẩm khá nổi tiếng là bài vè
"Thác lời trai phường nón" (Giả nhập vai người con trai phường
nón Tiên Điền gửi người yêu là cô gái phường vải Trường Lưu) và bài văn
tế nhan đề "Sinh tế Trường Lưu nhị nữ văn".
Te te lái lái không bằng cái dái
học trò
Người có học hơn hẳn người lao
động, trực tiếp làm ra sản vật, dù người lao động có cố gắng bao nhiêu
(vừa te, vừa lái). Thành ngữ đề cao sự học, người học.
Trự nghịa văn
chương
Không bằng xương con cá lẹp
Te te lái lái không bằng dái học
trò.
Ca dao
Tha như mèo tha dưa
Di chuyển vật khác một cách vất vả,
khó khăn. Em thì to chị thì yếu nên chỉ tha như mèo tha dưa.
Thà ăn nhắt đừng để tắt bựa (bữa)
Phải biết tiết kiệm, dành dụm trong
chi tiêu để tránh rơi vào túng quẫn. Còn hơn tháng nữa mới có lúa
mới, phải dè xẻn để mà cầm cự
tới
khi nớ, thà ăn nhắt đừng để tắt bựa
.
Thà rằng ăn cơm lận (lẫn) nu,
Còn hơn đi ở rèo tru lận (lẫn) bò
Trâu và bò khó chăn dắt chung. Chăn
trâu lẫn bò vất vả bội phần. Đây cũng là thái độ phản ứng dứt khoát của
người dân trước sự bóc lột sức lao động quá thậm tệ của địa chủ.
Thà vô sự mà ăn cơm hẩm
Còn hơn bổ bệnh mà uống sâm nhung
Ăn uống đạm bạc mà bình yên, vô sự,
giữ được sức khỏe thì tốt hơn để lâm bệnh mà tẩm bổ sâm nhung, cao lương
mỹ vị.
Thả con sằn sặt bắt con ca rô
Bỏ ra con cá nhỏ làm mổi để câu
được con cá lớn hơn. Hàm chỉ thủ đoạn bỏ ra ít để kiếm lợi nhiều. Nhà
nớ giỏi câu khách lắm. Họ biết thả con sằn sặt bắt con cá rô.
Thả ga mà đòi (đuổi)
Để tuột khỏi tầm kiểm soát của mình
do vô ý. Ai lại thả ga mà đòi mới nhọc chớ.
Thả rạ hết tiền
Nghề kiếm củi kiếm sống qua ngày
rất nghèo túng, khó khăn nghỉ làm là hết tiền, không có dư để dành dụm.
Chúng em vất vả lắm mới kiếm đủ ăn, cái nghề ni thả rạ là hết liền
anh ạ.
Tham công tiếc việc
X. Tham việc tiếc công.
Tham của rừng rưng nác (nước) mắt
Của rừng tức của thiên nhiên thì
nhiều vô tận ai cũng muốn mang về nhiều nhưng đường đi vất vả gian khó
chỉ mang vừa đủ nếu không sẽ không vượt qua nổi phải bỏ lại dọc đường
thì vừa mất công, khó nhọc mà chẳng được gì. Phải biết lường sức, đừng
quá cố, quá tham mà hỏng việc. Mần một gánh nhẹ nhẹ thôi kẻo không
trụ nổi đường núi mô, tham của rừng rưng rưng nác mắt đó.
Tham thì thâm, lừa thì lầm
Ở đời dừng nên tham lam, gian dối.
Tham quá sẽ thất bại đau đớn, lừa lọc người thì sẽ bị người lừa lại
mình. Một vừa hai phải để mà sống, tham thì thâm lừa thì lầm đó.
Tham việc tiếc công
Ham mê công việc của mình quá mà có
khi lãng quên những chuyện khác, thậm chí cản trở người khác
Mẹ em tham việc tiêc công
Cầm duyên em lại tiếc thu đông mần
mùa.
KTCDXN, T2, Tr. 174
Tháng ba ăn hột (hạt) bỏ vỏ
Tháng bảy ăn vỏ bỏ hột
X. Tháng ba ăn rọt (ruột) bỏ vỏ,
tháng bảy ăn vỏ bỏ rọt.
Tháng ba ăn rọt (ruột) bỏ vỏ
Tháng
bảy
ăn vỏ bỏ rọt
Đây là cách ăn quả muồng, quả của
một loại cây cùng họ với dừa mọc hoang ở các đồi núi, có nơi dùng làm
nguyên liệu để dệt thảm chùi chân: Tháng ba quả muồng còn non hạt dẻo ăn
được còn vỏ màu xanh vị chát, không ăn được. Tháng bảy, quả chín vỏ có
màu đen ăn có vị ngọt, mùi thơm nhưng hạt thì đã già, cứng như đá.
Tháng ba trong nước ai ơi
Nhịn cơm nhường mặc mà nuôi bạn cùng
Kinh nghiệm của dân đánh cá tháng ba, biển
trong khó đánh cá phải nghỉ chài lưới Đây là lúc thợ bạn phải chịu cảnh
túng thiếu. Chủ thuyền không giúp đỡ thì nay mai sẽ không có người đi
nghề cho mình.
Tháng ba trong nước ai ơi,
Nhịn cơm nhường mặc mà nuôi bạn cùng.
KTC DXN , T. 2 , Tr. 76
Tháng chín nhịn ăn muống
Rau muống chỉ phát triển tốt vào mùa hè sang
thu, nhất là đến tháng chín không còn phát triển nữa, rau muống già và
không ngon. Đây là thời điểm thôi trồng rau muống ăn mà chỉ gầy giống
cho năm tới.
Tháng chín ăn rươi, tháng mười ăn ruốc
(Rươi: một loại giun đất, thân có nhiều tơ
nhỏ, sinh theo mùa ở vùng nước lợ; Ruốc: tép biển xuất hiện nhiều theo
mùa, nhân dân thu hoạch làm mắm, sản phẩm mắm tép cũng được gọi là
ruốc). Tháng chín, rươi xuất hiện nhiều người ta vớt về làm chả, làm mắm
ăn rất ngon. Tháng mười là một trong những thời điểm tép biển vào gần bờ
nhiều, tép tháng mười con to, ăn ngon.
Tháng chín thì nhịn đi buôn,
Tháng mười thì sắm lòi buôn lấy tiền.
(Lòi: dây bằng giang dung để xâu tiền). Tháng
chín là tháng giáp hạt, đói kém, sức mua giảm, tháng mười có lúa mới
việc mua bán chắc chắn sẽ tấp nập hơn.
Tháng chín thì nhịn đi buôn,
Tháng mười thì sắm lòi buôn lấy tiền.
KTCDXN, T2, Tr. 77
Tháng giêng đúc từ, tháng tư đúc vạc
Kinh nghiệm trồng trọt: trồng củ từ thì trồng
vào tháng giêng, trồng khoai vạc thì trồng vào tháng tư là thích hợp
nhất.
Tháng giêng trồng từ, tháng tư trồng lạc
X. Tháng giêng đúc từ, tháng tư đúc vạc.
Tháng mười lất phất gió nam, tháng ba đông bắc
có làm không ăn Thời tiết có những biểu hiện không thuận ảnh hưởng xấu
đến mùa màng, thu hoạch kém. Đây cũng là kinh nghiệm của nghề ngư: Gió
trái mùa, cá ăn sâu không đánh được.
Tháng mười
lất phất gió Nam,
Tháng ba Đông bắc có làm không ăn.
KTCDXN, T2, Tr. 76
Tháng mười thì xem tua rua,
Tháng năm đông chí nửa mùa mới yên
Kinh nghiệm xem thời tiết, xem lịch để dự đoán
kết quả thu hoạch mùa vụ. Căn cứ vào việc xem sao, xem lịch để biết thời
tiết có thuận lợi không.
Tháng năm coi mè té,
Tháng mười coi dé muống
X. Tháng mười thì xem tua rua,
Tháng năm đông chí nưa mùa mới yên.
Tháng năm coi mè té,
Tháng mười coi dé muống
Thấy dé muống đông đặc
Biết đông vụ phong lưu
Thấy mè tre trấy (trái) nhiều
Biết tháng năm được lúa.
KTVXN, T2, Tr. 149
Tháng năm mà cấy mạ non,
Thà rằng không cấy ẵm con ở nhà,
Tháng mười mà cấy mạ già,
Thà rằng không cấy ở nhà ẵm con
Kinh nghiệm cấy lúa theo dân gian: tháng năm
(vụ chiêm) cấy vào khoảng tháng chạp, tháng giêng trời rét, cấy mạ non
sẽ kém Phát triển. Ngược 1ại vụ mùa cấy vào tháng sáu, tháng bảy trời ấm
nắng, cấy mạ già không tốt.
Tháng tám đâm chèo vô bụi
Tháng tám là mùa mưa bão, không còn đi biển
đánh cá nữa, gác chèo nghỉ ngơi.
Tháng tám mưa dư, tháng tư mưa bỏ
Kinh nghiệm xem thời tiết: Nếu tháng tám mưa
nhiều thì tháng tư năm sau sẽ ít mưa.
Thanh cậy thế, Nghệ cậy thán
Thanh Hoá được nhờ vào ân huệ của vua, đất
Nghệ Tĩnh được thần phù hộ . Thanh Hoá là nơi sinh ra nhiều vị
vua chúa. Thời Lê Sơ tồn tại 99 năm (1428-1527), mở đầu 1à Lê Thái Tổ
(Lê Lợi) và có 11 vị vua. Thời Lê Trung Hưng (1533-1788), tồn tại 255
năm, trải 17 đời vua. Triều Nguyễn trải qua 9 đời chúa, 13 đời vua.
Riêng vương triều Nguyễn trải 143 năm (1802- 1945), mở đầu là Nguyễn
Thế Tổ, tức Gia Long (Phước ánh). Nghệ Tĩnh là vùng đất biên trấn của
Đại Việt, được triều đình các đời coi trọng và cử các vị quan quan giỏi
nhất đến cai quản vùng đất này như Lý Nhật Quang, Chiêu Trưng . . .
Nghệ Tĩnh cũng sinh ra nhiều vị nhân tài cho đất nước như Hoàng Tá
Thốn, Tống Tất Thắng. Những vị quan này khi sống được nhân dân tin yêu
mến phục khi mất được nhân dân thờ phụng mãi mãi. Nghệ Tĩnh có 4 ngôi
đền nổi tiếng linh thiêng nhất cả nước: "Đền Cờn đền Quả, Bạch Mã,
Chiêu Trưng. Mỗi khi có giặc quấy phá biên giới hoặc xâm lấn đất
đai, các vị vua và tướng lĩnh cầm quân đi đánh giặc đều đến cầu xin các
thần phù hộ và đều đánh thắng giặc.
Thằng bụng trự (chữ) không bằng thằng bụng cứt
Hàm ý chê bai người có học vấn mà ứng xử không
khôn khéo, thiếu văn hoá trong giao tiếp với quần chúng. Học hành
nhiều, bằng ni bằng khác mà ứng xử không bằng đứa vô học đúng là thằng
bụng trự không bằng thằng bụng cứt.
2- Tình trạng người có học nhưng cuộc sống khó
khăn, còn người lao động trực tiếp sản xuất thì đủ ăn đủ mặc. Học
hành chi cho lắm, thằng bụng trự không bằng thằng bụng cứt.
Thằng cha bòn thằng con bỏ
Cha mẹ lo tích cóp của cải nhưng gặp phải con
cái hư hỏng nên phá phách hết.
Lạo nớ có đứa con phá gia chi tử, bao nhiêu
của cải nỏ còn chi đúng là thằng cha bòn thằng con bỏ.
Thằng cha răng, thằng con rứa
(Like father like son) Cha mẹ là tấm gương ảnh
hưởng sâu sắc đến nhân cách con cái. Con cái học cha mẹ cả những tính
xấu (câu trên hàm ý chê). Hắn cũng trơ tráo như cha hắn Đúng là thằng
cha răng thằng con rứa.
Thắt cổ chó
Buộc hai đầu dây một cách sơ sài (hàm chỉ sự
không chắc chắn). Thắt cổ chó như rứa, răng cũng tụt.
Thâm mình cảy (sưng) trán
Biểu hiện cơ thể sau khi bị đánh hoặc xô xát.
Tính hay nổi cáu
Đụng đến là giận là hờn
Chưa nói đã đánh co
Thâm mình cảy trán.
KTVXN, T7, Tr. 204
Thậm lẩm mà có tấm đầu đày
(Đầu đày: phần cuối cùng của thanh gỗ bị cưa
bỏ đi, thường xù xì, góc cạnh) Người bề ngoài có vẻ hiền lành ít nói
nhưng lại làm những việc làm khiến người khác phải kinh ngạc. Không
ai ngờ anh trông hiền lành rứa mà có con em (bồ), đúng là thậm lẩm mà có
tấm đầu đày.
Thấp không trao, cao mà vói
Phải biết
tìm nơi tương xứng với mình mà trao
than gửi phận đừng viễn vông, theo đuổi cái mình không đủ sức. Người
ta có tình cảm chân thành, quyết tâm theo đuổi thì không chịu lấy lại mơ
tưởng đâu đâu, thấp không trao, cao mà vói.
Thấp tay với chẳng đến kèo
Hạn chế về năng lực, trí tuệ hoặc nhan sắc khó
có thể đạt được mục đích mong muốn. Thấp tay với chẳng tới kèo Vì anh
phận nghèo với chẳng tới nơi.
KTCDXN, Ti , Tr. 499
Thấp trà thấp trệt
Rất thấp, gần sát mặt đất. Thấp trời phải đi
còm. Thân phận, địa vị thấp kém thì phải luồn cúi, chịu sự sai khiến của
người khác. Con phải chịu nín nhịn một tý để mà sông, thấp lrời thì
phải đi còm thôi.
Thật cấy, thật hột
Không có hình thức màu mè nhưng chất lượng
tốt, đáng tin cậy. Mua hàng của bọn em thật cấy thật hột, nỏ phải lo
chi.
Thật thà ăn cháo, trếu tráo ăn cơm
Cuộc đời vẫn thường hay có sự bất công: người
thật thà, chính đáng thì phải chịu thua thiệt còn kẻ gian dối thì hay
được lợi.
Thầy ẻ (ỉa) vầy đống mun
Nhân cách, năng lực thấp kém mà đòi làm thầy
thiên hạ.
Thầy ẻ (ỉa) vầy đống mun,
Ba bốn con chó lại hun (hôn) mặt thầy.
Thế gian lắm kẻ thày lay.
Miệng thế gian
vô cùng phức tạp, bàn ra tán vào.
Thiếp thương chàng đừng cho ai biết
Chàng thương thiếp chớ để ai hay
Thế gian lắm kẻ thày lay
Cực chàng chín rưỡi, thiếp nay mười phần.
KTCDXN, Tl , Tr. 404
Thịt lợn thì nấu hành hoa,
thịt tru (trâu) nấu tỏi, thịt ga (gà) nấu gừng
Kinh nghiệm ẩm thực trong dân gian. Thiếu cha
con khát cá, thiếu mẹ rách áo quần Vai trò vị trí của người cha, người
mẹ trong gia đình khác nhau được biểu hiện rõ nhất khi thiếu vắng. Cha
làm trụ cột, nguồn thu nhập
chính của gia đình, mẹ chăm sóc con cái,
đường
kim mũi chỉ. Vì thế, thiết cha con khát cá, thiếu mẹ rách áo quần.
Thiếu tháng giêng mất khoai,
Thiếu tháng hai mất độ (đậu),
Thiếu tháng tư mất tằm,
Thiếu tháng năm mất ló (lúa)
Kinh nghiệm xem lịch dự đoán kết quả thu hoạch
mùa dựa vào những tháng thiếu (không đủ 30 ngày theo âm lịch) .
Thổi lả (lửa) cháy mồm
1- Người đứng ra chịu trách nhiệm nguy hiểm
thì thường phải chịu hi sinh, thiệt thòi
2- Hay gây sự thì thường mang lấy hậu quả xấu
Cậu nói nhiều nỏ được chi mô mà có khi lại hại vào thân, thổi lả cháy
mồm đó
Thông rồng bể cạn
Tỏ ra biết hết mọi chuyện trên trời dưới biển.
Con nớ hắn nói chuyện thông rồng bể cạn .
Thợ may bớt giẻ, thợ ve (vẽ) bớt hồ
Nghề nào cũng có những mánh khoé gian lận dựa
vào đặc điểm công việc.
Thợ may bớt giẻ, thợ ve bớt hồ
Tay vo miệng lẻm có mô sang giàu.
KTCDXN, T2, Tr. 80
Thời dưa dưa ăn, thời mít mít ăn
Ai nấy đều có phần của người đó, không nên cản
trở người khác hưởng cái thuộc về quyền lợi chính đáng của họ. Mình
qua cái tuổi đó rồi thì để cho con nó tự do, thời dưa dưa ăn, thời mít
mít ăn.
Thơm tho chi
mít mùa đông,
Khôn ngoan chi gái lộn chồng mà khen
Mít thường chín vào mùa hè, mít mùa
đông là mít
trái mùa không ngon, không thơm như bình thường. Gái khôn thì không thể
là gái lộn chồng. Theo quan niệm xưn trốn chúa lộn chồng là đồ bỏ đi.
Thơm tho chi mít mùa đông
Khôn ngoan chi gai lộn chồng mà khen.
Ca dao
Thu (dấu) du (dâu) ăn, để rể ăn, cất mất ăn
Có miếng ăn cũng như của cải thì nên đưa
ra chia
sẻ cho mọi ngườl cùng hưởng đừng bo bo cất giữ cho riêng mình để rồi
cuối cùng mất hết.
Thua kiện thì dại, thua cại (cãi) thì khun
Thua kiện thì phải chịu thiệt hại, nhưng thua
cãi thì giữ được Hòa khí, nghĩa là không có tranh chấp to tiếng, tránh
được những cuộc xô xát không đáng có. Mình
khuyên cậu nên
im lặng, Đừng cại cọ nựa, Thua kiện thì dại thua cại thì khun đó.
Thúi (thết) như chin (chân) đinh
Rất hôi thoi, khó chịu như mùi hơi bốc lên từ
phần thịt bị hoại tử.
Thúi (thối) như cứt được nắng
X. Thúi như cứt phơi nắng.
Thúi như cứt phơi nắng
Mùi hôi thối nồng nặc có cảm giác nghẹt thở.
Thủng thẳng mà thương nhau hoài,
Đừng vồ vập lắm mà rời nhau ra
X. Yêu nhau lắm cắm nhau đau. Quan hệ
tình cảm có chừng mực thì bền vững; quá vồ vập săn đón đến khi có xung
đột thì lại càng sâu sắc khó hàn gắn.
Thủng thỉnh Văn Lâm, lầm rầm Yên Mỹ
Tính cách nổi trội của người Văn Lâm, Yên Mỹ.
Thuốc ngon nửa điếu
Của ngon thì chỉ dùng vừa phải, dùng nhiều quá
mất ngon. Cậu quá si mê rồi, vừa phải thôi, thuốc ngon nửa điếu mà .
Thuần Trung, Bụt Đà, Bạch Hà, Long
Thái, Thượng Thọ
Vác mọ (mõ) đi rao, vác sào đi đâm,
Vác mâm đi chấn, vác mấn (váy) đi
trùm
Thuần Trung, Bụt Đà, Bạch Hà, Long
Thái (thuộc Đô Lương), Thượng Thọ (thuộc xã Thanh Vân, Thanh Chương).
Dân các vùng trên thường có những cử chỉ ngổ ngáo, khác người.
Thứ nhất hại (sợ) gặp bầy bò,
Thứ hai hại gặp học trò tan ca
Ra đường mà gặp lúc học sinh tan ca
thì phải cẩn thận nếu không sẽ gặp tai nạn vì đây là lúc học sinh được
thoải mái tung tăng sau một buổi học căng thẳng. Câu tục ngữ mới này còn
ngụ ý phê phán tình trạng không chấp hành luật lệ giao thông của học
sinh một số nơi . . . (Ngày nay học sinh được giáo dục luật giao
thông nên tình trạng trên đã ít thấy). Mấy đứa học trò đi học về đi
nghênh ngang, rành hại bấp phải chúng thì khốn, thứ nhất hại gặp bầy bò,
thứ hai hại gặp học trò tan ca.
Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ hai tru (trâu) trậm
(chậm),
Thứ ba rạ (rựa) cùn
Những nỗi khổ cực thường thấy nhất
của cuộc sống người nông dân xưa.
Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ hai trâu trậm (chậm),
Thứ ba rạ (rựa) cùn
Vợ dại
thì đẻ con khun (khôn)
Tru trậm nát đất, rạ cùn chịu băm.
KTCDXN, T2, Tr. 131
Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ hai tru trậm (trâu chậm),
Thứ ba rạ (rựa) cùn,
Thứ tư sớm vợ muộn con,
Thứ năm nhà thốt (dột),
Sáu buồn hết ăn,
Bảy buồn vợ cắm (chửi) cằn nhằn,
Tám buồn nhà cửa một căn hẹp hòi,
Chín buồn nhà nợ đến đòi,
Mười buồn khách đến ngồi dai không
về.
X. Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ hai trâu trậm (chậm), thứ ba rạ
(rựa) cùn.
Thừa nội chí ngoại
Ngày xưa trọng con trai (bên nội),
mọi quyền lợi phải chú trọng bên nội trước sau đó mới đến bên ngoại. Bên
trong đầy đủ đã rồi mới nghĩ đến giúp đỡ bên ngoài.
Thương cấy (cái) xương no con
X. Thương không có xương mà cạp.
Thương chồng nấu cháo Cu cu:
Cu cu: chim gáy, gần giống bồ câu,
con đực có vòng như hạt cườm quanh cổ, thường hay gáy cúc cu, thịt rất
thơm, ngon và bổ. Bồi bổ cho chồng thì cháo cu cu là đắc sách, đây cũng
là cách để làm cho tình cảm vợ chồng thắm thiết, gắn bó.
Thương chồng nấu cháo cu cu
Chồng ăn chồng đụ (tục) như tru phá
ràn.
Ca dao
Thương chồng nấu cháo độ (đỗ) đen
Đậu đen ăn mát và bổ. Chăm sóc, bồi
bổ cho chồng bằng cháo đậu đen là cách thể hiện tình yêu thương của
người vợ khôn ngoan.
Thương chồng nấu cháo độ (đỗ) đen
Chồng ăn chồng đụ (tục) cho quen
cái 1ồn (tục)
Ca dao
Thương chồng phải khóc mụ gia (mẹ
chồng)
Tình cảm con dâu với mẹ chồng vốn
ít đằm thắm, chẳng qua vì thương chồng mà phải bày tỏ tình cảm với mẹ
chồng mà thôi.
Thương chồng phải khóc mụ gia
Ngầm tui với mụ có bà con chi.
KTCDXN, T2, Tr. 190
Thương không có xương
mà
cạp (gặm)
Giả vờ tỏ ra thương yêu, tử tế hoặc
thương xót trước cảnh ngộ không may người khác nhưng kỳ thực trong lòng
thì ngược lại không muốn tốt cho người. Hàm chỉ những kẻ giả nhân, giả
nghĩa. Hắn mà thương mi a, thương không có xương
mà cạp thì có.
Thương mà cái xương muốn cạp
X. Thương không có xương mà cạp.
Thương ngài hại mềng (mình)
Giúp đỡ người khác như nhưng chính
mình phải chịu thua thiệt vì có sự liến đới liên quan. Thấy hắn tù
tội tui cũng muốn cứu nhưng chỉ e thương ngài hại mềng.
Thương nhau bốc bỏ dần tràng (dần
sàng),
Ghét nhau mâm bạc, mâm vàng cụng
(cũng) xê
X. Thương nhau cơm giấu gấu cho,
Ghét nhau một mảnh quạt mo cũng
đòi.
Thương nhau con chí (chấy) cắn đôi,
Ghét nhau con chí bỏ nồi canh rau
X. Thương nhau cơm giấu gấu cho,
ghét nhau một mảnh quạt mo cũng
đòi.
Thương nhau cơm giấu gấu cho,
Ghét nhau một mảnh quạt mo cụng
(cũng) đòi
Hai thái cực yêu ghét có những biểu
hiện ứng xử cực đoan ngay trong một con người. Khi thương yêu thì sẵn
sang dành hết tất cả và ngược lại.
Thương nhau cơm giấu gấu cho,
Ghét nhau một mảnh quạt mo cũng đòi
Thương nhau con chí (chấy) cắn đôi
Ghét nhau con chí bỏ nồi canh rau.
KTCDXN, T2, Tr. 132
Thương nhau lắm, cắm (cắn) nhau đau
X. Yêu nhau lắm, cắn nhau đau
Thương nhau tình nghịa (nghĩa) lâu
dài, Đừng coi của trọng hơn ngài hỡi ai!
X. Tiền là gạch ngãi là vàng.
Thương nhau tô vẹ (vẽ) méo nên
tròn,
Ghét nhau vày vò khôn hoá dại
X. Thương nhau cơm giấu gấu cho,
Ghét nhau một mảnh quạt mo cũng đòi.
Thương thì thương cho chắc
Phải chung thủy trong tình yêu
Đã thương thì thương cho chắc
Đã trục trặc trục trặc cho luôn
Đừng như con thỏ đứng đầu truông
Khi vui giỡn bóng, khi buồn chơi
trăng.
Ca dao
Thượng nguồn lắm cá, hạ bạn rẻ cau
(Thượng nguồn: chỉ miền núi, hạ
bạn: chỉ miền biển). Cảnh trớ trêu, ngược đời: miền thượng đáng ra khan
hiếm cá biển thì lại có nhiều, miền biển vốn không trồng cau thì lại
nhiều và rẻ do chỗ cung vượt quá cầu (người đi buôn quá nhiều). Nỏ
ai ngờ được thượng nguồn lắm cá hạ bạn rẻ cau.
Thượng truông Rếp hạ truông Vên
Chỉ vị trí, địa thế của xã Quỳnh
Tam, Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Thượng cầu Rầm, hạ Bến Thủy.
Không gian, địa thế thành phố Vinh,
Nghệ An.
Tiếc mô hết của trời
Tài sản trong tự nhiên là vô tận
không thể tham lam thu nhận hết một lúc về mình được Đừng chộ nhiều
mà ham, lấy vừa phải thôi không có rồi không kham nổi mô, tiếc mô hết
của trời.
Tiên Điền, Tiên Bào sinh anh hào
thông thái;
Đan Tràng, Đan Hải sinh khảng khái
nhiều người
Các địa danh trên thuộc huyện Nghi
Xuân tỉnh Hà rnh và Nghi Lộc tỉnh Nghệ An. Nhiều danh nhân, hào kiệt
sinh trưởng tại các vùng này.
Tiền có ló nhiều
Cuộc sống đầy đủ, sung túc.
Tứ mùa cũng đủ
Tiền có ló nhiều
Điều ăn thì theo
Điều ở thì thích.
KTCDXN, Tl, Tr. 132
Tiền kho ló (lúa) đụn
X. Tiền có ló nhiều.
Giàu tiền kho ló đụn
Được
mấy
kẻ cho dòn
Trong một nước một non
Không ai bằng thấy nữa.
KTVXN, T4, Tr. 255
Tiền là gạch, ngại (ngãi) là vàng
Tình nghĩa quý hơn tiền bạc, phải
biết trọng tình nghĩa, chớ tham vàng bỏ nghĩa.
Tiền là gạch ngãi là vàng
Muốn bán vàng mua ngãi, ngại chàng
giá cao.
KTCDXN, Ti , Tr. 397
Tiền một đồng chớ cho người đợ,
Vợ ba con ở chưa hết lòng
Phải có tiền của dư giật mới có thể
giúp đỡ người khác. Phải cân nhắc kĩ khi cho mượn tiền để tránh khó khăn
cho mình (vì tiền đã cho mượn thì mình không còn nắm được chủ động theo
kế hoạch chi tiêu của mình nữa). Vả lại, bụng dạ con người khó biết
được, đến như vợ ba con mà có khi còn ở chưa hết lòng nữa là người dưng.
Tiền một đồng mà đòi ăn hồng một
hột
Tiền ít mà đòi mua thứ tốt. Nghèo
mà lại muốn chơi sang, yêu cầu, đòi hỏi những thứ không tương xứng với
điều kiện, địa vị của mình.
Tiền nỏ có mà ăn
Đói tiền mua khói mà ngưởi
Gia cảnh nghèo túng không biết tằn
tiện, chi tiêu phung phí vào những thứ hình thức xa xỉ, không cần thiết
.
Tiếng để đời
Những việc làm xấu, trái với đạo lí
thì người đời cứ nhắc mãi để làm gương mà tránh. Đừng có mần dại mà
tiếng để đời đó con ạ.
Tiếng lành đồn xa, tiếng dự (dữ)
đồn xa,
Cái nghề thợ mộc nhất là Thái Yên
Thái Yên thuộc huyện Đức Thọ, Hà
Tĩnh là nơi có làng nghề mộc nổi tiếng, có nhiều nghệ nhân tài hoa.
Thợ mộc Thái Yên lắm tài
Thứ nhất cửu Ngãi thứ hai cố Hồng.
Ca dao
Tình nặng ngại (nghĩa) dày
Có tình nghĩa sâu nặng, gắn bó lâu
dài.
Muối ba năm muối đương còn mặn
Gừng
chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng ngại dày
Dù có xa nhau đi chăng nựa (nữa)
Ba vạn sáu ngàn ngày mới
xa .
Ca dao
To mạ vả con
Mẹ lớn thì nhất định con to. Đây là kinh
nghiệm chọn giống nuôi nái.
To mồm tốn nác (nước) chấm
Nói năng nhiều chẳng được tích sự gì, đe dọa
người khác mà chẳng ai sợ. Thôi ông im đi, to mồm tôn nác chấm mà
thôi.
To mông rộng háng đáng trự tiền
Những biểu hiện của phụ nữ mắn đẻ, dễ đẻ, một
yếu tố quan trọng trong việc truyền nòi giống. Đây cũng là tiêu chuẩn
chọn vật nuôi tốt nái.
To như bồ sệ cạp
Người quá to béo, thiếu cân đối khó thiện cảm.
ả nớ to như bồ sệ cạp.
To trôốc dại ngài (người)
Chỉ người có lớn mà chẳng có khôn. Cấy
(cái) thằng ni to trôốc mà dại ngài, để mấy thằng con nít hắn lừa cho.
Tò vò đóng ở trên cao,
Ắt là nác (nước) lụt đầy ao ngập bờ
Kinh nghiệm dân gian: tò vò làm tổ trên cao
thì lụt to.
Tò vò làm tổ trên nhà,
Ắt là nác (nước) lụt trổ nhà mà lên
X. Tò vò đóng ở trên cao,
Ắt là nác lụt đầy ao ngập bờ.
Toát mồ hôi hột
Quá sợ hãi, hoặc quá mệt nhọc đến mức mồ hôi
vã ra đọng thành hạt. Nghe hắn nói lại mà tau toát mồ hôi hột.
Toát mồ hôi nhớt
X. Toát mồ hôi hột.
Tóc bạc tại máu, răng rụng tại sâu
Hình thức bên ngoài tuy già nhưng sức lực vẫn
con tráng kiện, mạnh mẽ nhất là về khả năng tình dục. (Đây là câu nói
đùa tếu cho vui).
Tóc bạc tại máu
Răng rụng tại sâu
Lưa từ lộ dún (lỗ rốn) đến phao câu
Cứ non chanh rứa mại
Cứ dì
dì rứa mại.
Ca dao
Tóm như con hạc mồi
X. Tóm như dam.
Tóm (gầy) như dam
Quá gầy, hầu như chỉ thấy xương giơ ra thô
cứng như cua đồng.
Ai mà gầy tóm như dam
Về đất nhà chàng cũng béo như tru.
KTCDXN, Tl, Tr. 205
Toóc rạ (rã) rơm khô
Mùa màng thu hoạch đã xong xuôi, không còn
công việc bận rộn nữa.
Rồi mùa toóc rạ rơm khô
Bạn về quê bạn biết nơi mô mà tìm .
KTCDXN, T2, Tr. 67
Tội mà lội xuống sông,
đánh ba cấy địt (rắm)
Tồng phồng (bong bóng) nổi lên
Thái độ phủ nhận quyết liệt trước những lời
kết tội, vu oan của người khác.
Tốn nác (nước) rác nhà
Phải tiếp đón, chăm sóc, nuôi nấng những kẻ
không biết điều thì chỉ có mất công vô ích. Lần sau bọn nớ đến thì
đừng có tiếp nữa, chỉ tổ tôn nác rác nhà.
Tốt đẹp thì phô ra, xấu xa thì đậy lại
X. Tốt thì khoe, xấu thì che.
Tốt mốc ngon tương
Tương là một đặc sản của vùng Nghệ An và đây
là kinh nghiệm khi làm tương phải chuẩn bị mốc cho tốt thì tương mới
ngon.
Tốt như rú
Chỉ tóc để quá lâu không cắt, trông rất luộm
thuộm, hoang dã. Tóc tai để tốt như rú ri à?
Tốt thì khoe, xấu thì che
Những cái tốt đẹp thì phô trương, cái xấu thì
che đậy không để cho ai biết. Nên giải quyết những mâu thuẫn thuộc nội
bộ (vợ chồng, gia đình, họ hàng, làng xóm . . . ) đừng nên làm ầm
ĩ, để người ngoài biết. Các con phải biết giữ gìn
danh dư cho gia đình, ai lại mần ầm ĩ rứa, tốt
thì khoe, xấu thì che chớ.
Tốt thi trăng tre, xấu thì che đậy
X. Tốt thì khoe, xấu thì che.
Tốt thì trăng tre, xấu thì dè dự
X. Tốt thì khoe, xấu thì che.
Tới rằm thì trăng tròn
X. Túi trời ga vô truồng.
Tra đời trót kiếp
X. Hết đời, mãn kiếp.
Yên Hầu, Yên Lạng
Bắt ếch tứ mùa
Em đã thương anh chưa
Về sắm ngoèo, đẽo ngoắc
Thịt cò, thịt vạc
Nỏ đến phần mô
Thịt ếch với bù khô
Ăn tra đời trót kiếp.
KTCDXN , T 1 , Tr. 2 1 7
Tra (già) hột đúc mau moọc
Hạt già thì gieo xuống sẽ chóng mọc. Người phụ
nữ cứng tuổi thì sẽ mắn con. Đây là thái độ phản ứng của những người phụ
nữ bị coi là quá lứa, lỡ thì; cũng là
cách chống chế của những người lấy phải
vợ nhiều tuổi hơn mình, bị thiên hạ chê cười. Tra có cấy hay của
tra,
tra hột đúc mau mọc.
Tra (già) không đều
Tuổi cao nhưng ham muốn dục tính vẫn còn mạnh.
Tra mà tra không đều,
Ngài tra mà cái nớ nỏ tra.
Tra (già) ngài (người) mà không tra
dại
Chỉ những người lớn tuổi nhưng
không chín chắn, còn để vướng vào những chuyện không hay mà mình đã từng
chứng kiến, mắc phải trong đời. Trêu bọn con nít mần chi cho hắn
chưởi (chửi) lại mình. Thật là tra ngài mà không tra dại.
Tra (già) ngay (ngày) dày kén
Con tằm đủ ngày thì kén mới dày,
nhiều tơ. Hàm chỉ người càng sống lâu thì càng già dặn, trưởng thành và
có nhiều kinh nghiệm hơn. Anh nớ ngay ni khác
hẳn trước, đúng là tra ngay dày kén
.
Tra (già) rồi còn đeo hoa trập
trội.
(Hoa trập trội: hoa dẻ, hoa của
tuổi học trò). Tuổi cao nhưng vẫn còn quá lãng mạn, thích chơi bời như
còn trẻ Già rồi vẫn muốn cưới vợ trẻ. Ông phải mần gương cho con cháu
chớ, tra đời rồi mà vẫn chưa trót, vẫn
thích đeo hoa trập trội.
Tra trôốc môốc trọ (sọ)
Đã già, nhiều tuổi, từng trải lắm
rồi nhưng vẫn làm gì đó
dại dột. Tra trôốc môốc trọ rồi
mà còn để con nít nó
lừa.
Trai Cát Ngạn, gái Đô Lương
(Cát Ngạn nay là xã Cát Văn, huyện
Thanh Chương; Đô Lương là một huyện trong tỉnh Nghệ An) . Trai
Cát Ngạn, gái Đô Lương nổi tiếng buôn bán táo tợn,
đanh đá.
Gái này là gái Đô Lương
Gái buôn nái tâm gái lường vải con
Gái này là gái chả non,
Gái lường chợ Điếm, gái buôn chợ
Dừa.
KTCDXN, T2, Tr. 41
Em là con gái Đô Lương
Anh trai Cát Ngạn chung đường bán
mua
Lộ lời khi được khi thua
Ngọt bùi nỏ thiếuchanh chua ai
bằng.
KTCDXN, Tl , Tr. 1 67
Trai chưa vợ như chợ chưa đình
Trạng thái chưa yên ổn, yên ấm khi
người con trai chưa có vợ.
Trai chưa vợ như chợ chưa đình
Khi mưa to gió nậy
(lớn)
biết ẩn mình vô mô (vào đâu).
KTCDXN, Tl, Tr. 502
Trai Đông Thái gái Yên Hồ
(Đông Thái thuộc xã Châu Phong, Yên
Hồ thuộc xã Đức Diên, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh). Trai Đông Thái nổi tiếng
thanh lịch tài giỏi, gái Yên Hồ xinh đẹp giỏi giang. Trai gái hai làng
thường kết duyên Tần Tấn với nhau. Trai tài-gái sắc, anh hùng-thuyền
quyên nức tiếng cả một vùng đất văn vật xưa nay. Câu này thường được
dùng như một hoán dụ để thể hiện niềm tự hào của người xứ này về đất
nước và con người quê mình.
Trai Đông Thái gái Yên Hồ
Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên.
KTCDXN, Ti , Tr. 208
Trai Đông Phái, gái Phượng Lịch
Hai địa danh nói về trai tài gái
sắc thuộc xã Diễn Hoa, Diễn Châu, Nghệ An.
Trai gái là con, nếp lòn là của
Không nên phân biệt đối xử với con
cái trong gia đình, cần chống thái độ trọng
nam, khinh nữ. Trai gái là con,
nếp lòn là của răng ông lại trọng đứa ni mà thờ
ơ đứa khác rứa .
Trai mong chiếm bảng đề danh,
Gái thời dệt vải vừa nhanh vừa tài
Trai chăm lo học hành lập công
danh, gái gái giỏi nghề canh cửi.
Ai về Hồ Liệu mà coi
Chợ Tro một tháng sáu phiên họp đều
Trai mĩ miều bút nghiên đèn sách
Gái thanh tân chuyên mạch cửi canh
Trai mong chiếm bảng đề danh
Gái thời dệt vải vừa nhanh vừa tài.
KTCDXN , T2 , Tr. 6
Trai nhớ bạn cụ (cũ), gái nhớ chồng xưa
Trai gái dù không nên duyên, hay tình duyên
tan vỡ nhưng không vì thế mà hết tình, hết nghĩa. Đó là lẽ tự nhiên
trong cuộc đời .
Trai nhớ bạn cũ, gái nhớ chồng xưa
Không nên tình nghĩa cũng đón đưa cho trọn
niềm.
KTCDXN , T 1 , Tr. 416
Trai nuôi gấy (vợ) đẻ mặt mụi (mũi) lem ngoem,
Gái nuôi chồng hèn ra không lọt cựa (cửa)
Đàn ông không quen với việc nội trợ, bếp núc,
chăm sóc vợ con, khi vợ sinh nở buộc chải chăm sóc thì rất khó khăn, vất
vả trông rất tội nghiệp. Đàn bà nuôi chồng đau ốm thì là việc quen làm
không có gì vất vả không phải làm việc nặng lại ăn những thức ăn bổ
dưỡng mà người ốm ăn không hết nên béo tốt hơn bình thường. Chà bựa
ni gấy ốm một bựa mà ngong vất vả hè, trách chi người ta nói: trai nuôi
gấy (vợ) đe mặt mũi lem ngoem, gái nuôi chồng hèn ra không lọt cựa đã
phải.
Trai ôốc trai sò
(Trai: đàn ông, trai: loài vật thân mềm sống ở
đáy nước có vỏ cứng gồm hai mảnh, cùng họ với sò, nghêu).
Dùng hình thức chơi chữ đồng âm với hàm ý mỉa
mai, chê bai người con trai nhân cách tầm thường.
Trai ôốc trai sò
Trai cầm cái vẹm
Trai mò trong niêu.
Ca dao
Trai Thanh Lạng bất khả giao,
Gái Nguyệt Ao bất khả thú
Trai Thanh Lạng và gái Nguyệt Ao khó tin cậy,
không nên giao du, kết duyên chồng vợ.
Trai tơ mà lấy nạ dòng
Như nước mắm cốt chấm lòng lợn siu (thiu)
Không tương xứng trong tình duyên. Theo quan
niêm xưa, con trai chưa vợ lấy gái đã từng có chồng là một thua thiệt về
danh dự, bị chê cười.
Trai tơ mà lấy nạ dòng
Như nước mắm cốt
chấm lòng lợn thiu.
KTCDXN, T2, Tr. 367
Trán bánh chưng, sừng vỏ độ (đỗ)
Trâu có đặc điểm trên là trâu xấu
Trán u chạc chìu
(Chạc chìu: cây leo, da xù xì, thân
có nhiều u, thường dùng làm dây buộc khi làm nhà tranh). Chỉ trán xù xì,
nổi u cục.
Cần chi trò khú lụ
Với cái bọn ác điều
Gân trán u chạc chìu
Không dám khinh ta nựa
Nỏ kinh phường ta nựa.
KTVXN, T6, Tr. 329
Tràng sưa
(thưa)
sáo rách
Cửa nhà, gia thế rơi vào túng
thiếu, vất vả.
Một mình em bối rối
Từ ngày vắng mặt chồng
Con tay dắt tay bồng
Bỏ nhà thết (dột) phản không
Bỏ tràng sưa sáo rách.
KTVXN, T4, Tr. 540
Trao tráo (sáo) nhờ đàng cày,
Ăn mày nhờ bựa chợ
(Trao tráo: chim sáo). Chim sáo hay
đi theo đường cày mới để nhặt giun, dế, ăn mày thì nhờ vào lúc họp chợ,
đông người để ăn xin mới được nhiều. Kiếm ăn phải đúng lúc, đúng nơi.
Bất cứ nghề nào dù sang hèn cũng phải biết chớp cơ hội tốt để làm ăn nếu
không thì suốt đời chỉ có nghèo đói.
Trăm lời nói không bằng cấy khói hon đa
Thời kỳ sau giải phóng miền Nam, xe máy hon đa
mới xuất hiện ở miền Bắc như là biểu tượng của sự giàu sang, niềm mơ ước
của nhiều người. Câu tục ngữ hàm ý nói: của cải vật chất đặc biệt là
những thứ mới lạ hiện đại có sức nặng quyết định đến việc giải quyết một
vấn đề nào đó. Con không thể chọt được với thằng nớ mô, nhà ta thì
nghèo còn nhà hắn thứ chi cũng có, trăm lời nói không bằng cái khói hon
đa mà.
Trăm rác lấy nác (nước) mần sạch
Đề cao vai trò của nước trong vấn đề vệ sinh:
mọi thứ dơ bẩn đều có thể dùng nước để làm sạch.
Trằm thợ bạc, áo phường buôn
Những thứ tốt đẹp phải đem ra phô trương,
quảng cáo ví như sự giàu có phải thể hiện trong cách trang điểm, ăn mặc,
nếu không thì chẳng ai biết đến.
Nghĩ đời được mấy
Kẻ chân lấm tay bùn
Trằm thợ bạc, áo phường buôn
Giàu lắm kho ai kể
Béo lợn sề ai kể.
KTVXN, T 1 , Tr. 2 1 2
Trăng đang tỏ, hoa đang thì
Đang độ thanh xuân, tươi trẻ
Có răng (sao) nói thật đi nha
Khi trăng đang tỏ, khi hoa đang thì.
KTCDXN, Tl , Tr. 247
Trăng u ám vì mây, đêm lạnh lùng vì cưởi
(sương)
Nỗi buồn tủi do hoàn cảnh khách quan.
Tay anh cầm sợi chỉ
Muốn xe lại
đường dây
Trăng u ám vì mây
Đêm lạnh lùng vì cưởi.
KTVXN, T3, Tr. 74
Trầm trồ như ngô chộ lồn (tục)
(Ngô: ngây dại). Khen ngợi, thán phục một điều
gì đó một cách thái quá, không đáng. (Việc mà đối với mọi người là bình
thường, nhưng với người khen thì quá lạ lẫm vì cả đời không biết, mù
thong tin, lạc hậu). Chuyện nớ thì
có chi đáng nói mà mi cứ trầm trồ như ngô chộ
lồn rứa.
Trậm (Trẫm) mình sắt (thắt) cổ
Những cách tự tử vì uất ức, phẫn chí.
Trậm (chậm) như trăn.
Vận động một cách chậm chạp, nặng nề. Con
ni hắn mần cấy chi cũng trậm như trăn .
Trậm (chậm) như tru (trâu) ốm
Quá chậm chạp và yếu ớt.
Gớm! Hắn trậm
như tru ốm rứa, biết khi mô mới xong.
Trẩn mất tang mất tích
Lẩn trốn, không còn thấy tăm hơi đâu cả.
Trẩn như chạch
Lẩn trốn rất nhanh, khó tìm thấy, bắt gặp, ví
như chạch chui rúc nhanh ở dưới bùn. Mắc nợ người ta rồi không chịu
trả, trẩn
như chạch.
Trật triều (chiều) xiêu bóng
Làm việc vất vả, kéo dài quá trưa sang chiều
mà vẫn chưa nghỉ. Mần chi
mà mần trật
triều xiêu bóng rồi mà vẫn chưa cơm
nước chi cả rứa.
Trâu bò đưa mồm đi trước thì được
ăn,
Ngài đưa mồm đi trước thì trật ăn
Nói trước bước không qua.
Trâu bò ở với nhau chia nhau phần
cỏ,
Người ở với nhau như chó với mèo
Loài vật còn biết nhường nhịn nhau
mà sống huống nữa con người. Phải tìm cách giải quyết những mâu thuẫn
trong cuộc sống để sống Hòa thuận, đoàn kết, yêu thương nhau.
Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn ga (gà)
(Trâu đen: trâu, trâu đỏ: máy cày).
Đây là tục ngữ mới xuất hiện thời làm ăn tập thể, phản ánh hiện tượng
tiêu cực trong đời sống sản xuất: những người lái máy cày thường vòi
vĩnh buộc phải tiếp đãi mỗi khi đưa máy xuống cày cho tập thể cá nhân
nào đó.
Trâu một tai, ngài (người) một mắt
Theo quan niệm xưa người, vật có
những khiếm khuyết trên thân thể như thế thường có
tính
ác. (Quan niệm này chưa hẳn đúng)
.
Trâu nghệnh (nghễnh) bò ngạng
(ngãng )
Tình trạng thiếu sự thống nhất,
đoàn kết trong khi cùng giải quyết một công việc nào đó. Phải bảo ban
chắc mà mần cho tốt, đừng có trâu nghễnh bò ngãng mà hỏng việc.
Trâu roi voi búa
X. Ngài roi voi búa.
Trầu héo cau khô
Cuộc tình duyên đôi lứa không
thành.
Trây máu ăn phần
Không bỏ công sức, hoặc chỉ tham
gia hờ nhằm cùng hưởng thành quả. Câu thành ngữ có gốc tích từ lao động
săn bắt. Kẻ không tham gia cuộc săn nhưng khi người khác săn được thú,
chim thì tìm cách chia phần bằng việc dính máu vào người để tỏ ra mình
tham gia tích cực Mi tránh ra đi đừng có trây máu ăn phần.
Tre non đuôi én
Tre rất đẹp nhưng quá non, chưa sử
dụng được . Hàm chỉ người chưa đến tuổi trưởng thành.
Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Tre non đuôi én đan tràng (sàng)
được chăng?
Thiếu tre, thiếu ná (nứa) đan giang
Tre non đuôi én đan răng được sàng.
KTCDXN, T2, Tr. 109
Tre ngấm khô, gộ (gỗ) ngâm ướt
Ngâm gỗ để nước ngập nhiều hơn tre.
Trẻ ghe lúc ăn
X. Con nít nhờ khi khi mần giỗ,
Trâu bò sướng khi sổ ran.
Trèo lên truột (tụt) xuống
1 - Cố gắng mãi mà không đạt được
mục đích. Hắn leo mại (mãi) mà không lên nổi cứ trèo lên rồi
lại truột xuống.
2- Thực hiện nhiều lần động tác
trèo trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Mấy đứa nhỏ cứ trèo
lên truột xuống suốt ngày chỗ cầu trượt.
Trên gò dưới vực
Địa thế không bằng phẳng, hiểm trở.
Chọn địa điểm để cắm trại mà chọn chỗ trên
gò dưới vực ra ri?
Trên không tranh dưới không véc
(vách)
Nhà cửa đã xuống cấp một cách
nghiêm trọng đến mức không còn có thể gọi là nhà
nữa. Hàm chỉ cảnh nhà sa sút nghèo
túng quá mức.
Nhà cửa trên không tranh dưới không
véc, con cái thì nheo nhóc biết mần răng hả trời
?
Trên mồm con ga, dưới má con chó
X. Ngài không ra ngài, ngợm
không ra ngợm.
Trên sống dưới khê tứ bề nhạo
(nhão) choẹt
Người nội trợ kém cỏi, vụng về,
không làm thứ gì nên hồn cả. Hắn nấu nồi cơm mà trên sống dưới khê tứ
bề nhão choẹt.
Trêu cò cò mổ mắt,
Trêu ắc xắc, ắc xắc mổ trọ (sọ)
Nghĩa như trêu chó chó liếm mặt.
Trêu ong, chọc tắn (rắn) Nghịch ngợm, làm những
việc mạo hiểm vô ích.
Trêu oong oong cắm, trêu tắn tắn
đòi (đuổi)
X. Trêu cò cò mổ mắt
Trêu ắc xắc ắc xắc mổ trọ.
Tríu chắc như rạm trôi bè
(Rạm: cua nhỏ, thân dẹp, có nhiều lông, sống ở
nước lợ) Rạm thường kẹp chặt nhau thành túm không chịu buông nhau ra
ngay cả khi gặp nguy hiểm. Hàm chỉ sự ích kỉ, không có tinh thần vị tha,
nhường nhịn nhau, không ai muốn ai hơn mình, gây cản trở cho nhau. cuối
cùng tất cả đều thất bại. Đây là một nét tính cách không tốt của một bộ
phận người dân ở một số vùng quê ở Nghệ Tĩnh.
Phải tạo điều kiện cho chắc mần ăn, tríu chắc
như rạm trôi bè ri để mà chết cả bầy
Tròn như nống (nong)
Tròn và to, rất dễ nhận thấy.
Gương treo tròn như nống
Khắp tứ tổng đông đoài
Gái lộn chồng theo trai
Tội voi giày ngựa xé.
KTVXN, T3, TR. 2 )
Tròn như vại nhút
Người quá thấp béo. Con nớ thấp lại béo
nữa, cứ tròn như vại nhút rứa.
Trong nhà có vàng,
Đi đàng (đường) cụng (cũng) lợ (lỡ)
Đi đường xa, dài ngày không ai có thể dự kiến
và chuẩn bị đầy đủ của cải, vật dụng cho mọi tình huống, kể cả những
người có nhiều tiền của.
Trổ vồng thì lụt, trổ cụt thì mưa
Theo kinh nghiệm dân gian, trổ vồng, trổ cụt
xuất hiện là dấu hiệu
báo trời sẽ mưa, lụt.
Trổ Đổng Và, dợ nhà không kịp
Dấu hiệu báo trời mưa bão lớn
Trốc (đầu) bù ngù như rơm
Luộm thuộm, không chăm lo đến hình thức, đầu
tóc bù xu Gió đưa cây trúc, gió đạp
Gió đưa mụ xạ trốc bù ngù như rơm.
KTCDXN, T2 , Tr. 113
Trốc cúi (đầu gối) đi mô lặc lè
theo đó
(Lè: phía sau đầu gối, lè và gối
như hai mặt không tách rời). Sự gắn kết không thể tách rời giữa người,
vật có quan hệ gần gũi ví như đầu gối và lè, hai mặt trong cùng một sự
vật. Đi mô thì mang
túi này đi theo, không được
rời
ra, trục cúi mô lặc lè phải theo
đó.
Trốc (đầu) to như ấm Đạm.
Đầu rất to, thô. Cái thằng nớ trôốc to như
ấm Đạm.
Trốôc (đầu) không mắc thì mắc tai
Làm việc gì đó sai trái thì đằng nào rối cũng
chịu hậu quả xấu
X .Trôốc không mắc lại mắc tai.
Trốôc (đầu) không mắc lại mắc tai
1 - Người trên 1àm sai nhưng người dưới lại
phải chịu trách nhiệm.
2- Giúp cho người khác nhưng mình lại phải
chịu trách nhiệm khi có hậu quả xấu Mần cái chi cũng phải giữ mình
kẻo mà trôốc không mắc lại mắc phải tai đó.
Trốôc (đầu) như ổ quạ
X. Trốc (đầu) bù ngù như rơm.
Trôốc (đầu) như trôốc máy cày
Mặt mày đỏ lừ toát lên vẻ trơ tráo lì lợm do
uống nhiều rượu Tau kháp hắn ngoài đàng mà chộ trôốc hon như trôốc
máy cày.
Trốn như chó trốn con
(Chó trốn con: chó cái trốn không cho chó con
bú vì con đã lớn). Thái độ lẩn tránh trách nhiệm của một số người trước
những việc đòi hỏi có vai trò của mình vì sợ liên đới, phiền hà. . .Những
lúc cần thì hắn cứ trốn như chó trốn
con, nỏ còn tình nghĩa chi nữa...
Trông trời cho đến tháng mười,
Bà già, con nít ngồi cười nống cơm
Niềm vui của mọi người trong mùa thu hoạch.
Trông trời cho chóng gió đông,
Cho thuyền được gió cho nhông (chồng) tôi về.
Nỗi lo lắng của người dân vùng biển khi chồng
ra khơi đánh cá. (Khi đánh cá, sáng mai có gió Đông và chiều có gió Đông
là thuận buồm xuôi gió).
Trông trời cho chóng
gió đông
Cho t uyền được gió cho nhông (chồng) tôi về.
KTCDXN, T2, Tr. 85
Trồng tre cậy phía
Trồng tre làm rào chắn, ranh giới giữa hai
vườn nhà thì cả hai bên đều được hưởng chứ không riêng gì người trồng.
Hàm ý chỉ tình cảm láng giềng gần gũi.
Trống đền Cuông chuông chùa Bốn
Đền Cuông thuộc xã Diễn An, chùa Bốn thuộc xã
Diễn Hồng, Diễn Châu, Nghệ An.
Trộp ăn trộp nói
Nói năng bộp chộp, thiếu cân nhắc, suy nghĩ
chin chắn. Hắn là đứa trộp ăn trộp nói rứa mà bụng dạ nỏ có chi mô.
Trở mặt mần trái
Kẻ xảo trá lọc lừa. Đừng tin chi thằng nớ,
hắn trở mặt mần trái như nhởi đó.
Trở mỏ cắm (cắn) cánh
Người thân trong nhà lại đi làm hại nhau.
Nuôi mi ăn học để rồi mi trở mỏ cắm cánh ra ri a .
Trở khâu rạ
Xoay hướng khác, làm việc khác khi gặp hoàn
cảnh khó khăn.
Trở trôốc lộn khu (đít)
Quay lộn ngược, không ra thể thống gì cả.
Răng em lại nằm trở trôốc lộn khu ri.
Trở vô trở ra cụng (cũng) thằng cha khi nại
(ban nãy)
Chê bai, chọn lựa nhiều rồi cuối cùng vẫn nhận
được cái ban đầu. Tưởng là chọn được cái tốt hơn hoá ra hắn lừa mình,
trở vô trở ra cũng thằng cha khi nại.
Trời có mưa có dợ (tạnh),
Người có dại có khun (khôn)
Quy luật tất yếu của thiên nhiên và cuộc đời.
Trời có mưa có dợ (tạnh),
Người có dại có khun
Nước chẳng đậu lá môn
Ai khôn mặc ai khôn
Ai dại thì phải chịu.
KTVXN, T5, Tr. 537
Trời đi khỏi
Việc hiếm có, hiếm gặp, bình thường không thể
xảy ra được. Hắn mà chấp nhận dàn Hòa dễ dàng rứa có mà trời đi khỏi.
Trời kêu ai nấy chịu
X. Trời kêu ai nấy dạ.
Trời kêu ai nấy dạ
Số phận do trời định đoạt, không có
cách gì cưỡng lại được Bệnh của cha con khó qua khỏi, đó là số trời
con ạ? ta cũng không biết mần răng mà san sẻ được, trời kêu ai nấy dạ
thôi.
Trời mưa lâu trời dợ
X. Trời có mưa có dợ,
Người có dại có khun.
Trời mưa lâu trời dợ,
Vợ đi lâu vợ về
Đó tưởng như là một quy luật không
cần phải bận tâm, lo lắng. Tuy nhiên, đôi khi cuộc đời không phải vậy
Chuyện kể rằng có hai vợ chồng cãi nhau vì một con rắn mối (thạch sùng).
Chồng cho là rắn mối, vợ lại bảo
thằn lằn, không ai chịu nhường ai, cãi nhau dẫn đến giận nhau to, vợ bỏ
nhà đi. Mấy năm sau, tĩnh tâm nghĩ lại thương con, thương chồng người vợ
trở về.
Người chồng vừa trông thấy mặt vợ
đã đọc lên mấy câu cảm khái.
Trời mưa lâu trời
dợ, vợ đi lâu vợ về, con vật cại
(cãi) năm tê, vẫn là con tắn (rắn) môí.
Người vợ nghe thế bỏ nhà đi luôn.
Trời mưa nắng lò (thò) nác (nước)
bò vô (vào) cửa
Kinh nghiệm xem thời tiết: trời
đang mưa mà có chút ánh nắng thường là dấu hiệu mưa to, mưa lâu.
Trời sao ao nác (nước)
Thời tiết mùa thu thường có những biểu hiện
đỏng đảnh khó dự đoán. Có khi đêm trời đầy sao nhưng ngay sau đó có thể
có mưa lớn.
Trời thấp phải đi còm (khom)
X. Thấp trời phải đi còm.
Trời thương cho miếng xương miếng
thịt
X. Trời thương cho xâu xương xâu
thịt.
Trời thương cho xâu xương xâu thịt
Sự sắp đặt của tạo hoá về hôn nhân
thường rất công bằng theo luật bù trừ. Ví dụ người chồng nóng tính thì
thường gặp phải người vợ hiền lành, một người ốm yếu thì người kia lại
khỏe mạnh để gánh vác . . . Như thế là hợp duyên số, là "trời
thương" còn nếu ngược lại thì khó tồn tại lâu, có nhiều nguy cơ tan vỡ.
Hắn thật thà dại dột rứa nhưng có con vợ khun đáo để, đúng là trời
thương cho xâu xương xâu thịt.
Trơn lông đủ cánh
Đã đủ điều kiện để trưởng thành.
Phượng
hoàng đậu chốn cheo leo
Sa cơ, thất thếphải theo đàn gà
Đến khi mưa gió thuận hoà
Trơn lông đủ cánh lại ra phượng
hoàng.
KTCDXN, T2, Tr. 126
Tru (trâu) ác thì nghé dạc sừng
Cha mẹ làm điều ác thì con cái phải
chịu quả báo.
Tru (trâu) ác thì tru dạc sừng
Làm việc ác thì sẽ có lúc bị trừng
trị. Thật đáng đời hắn, tru ác thì tru dạc
sừng, hắn
mần hắn phải chịu thôi.
Tru (trâu) bò báng chắc ròi mọi
(ruồi muỗi) chết
Kẻ mạnh xô xát, kẻ yếu chịu vạ lây.
Con hãy tránh xa những chỗ nớ kẻo vạ lây, tru bò báng chắc ròi mọi
chết đó.
Tru (trâu) bò bổ mô rơm toóc đó
Kinh nghiệm chống rét cho trâu bò:
rơm rạ là phương tiện chống rét tốt nhất vừa giữ ấm vừa làm thức ăn.
Tru (trâu) bò lấy mụi mà dắc (đắt),
đàn bà lấy cặc (tục) mà lôi
Phương pháp tốt nhất để chế ngự đối
tượng.
Tru (trâu) cụng (cũng) bổ (ngã)
Một cái gì đó quá sức chịu đựng
vượt quá sức tưởng tượng. Hắn làm bộ mần
điệu ghê gớm, đến tru cũng bổ.
Tru (trâu) đẻ mùa cấy, gấy đẻ mùa
gắt (gặt)
Mất nguồn lao động chính đúng vào
những thời điểm cần tập trung sức lao động, khó khăn chồng chất. Lúa
chín rồi mà gắt không kịp, thật nỏ có chi khổ bằng tru (trâu) đẻ mùa cấy,
gấy đẻ mùa gắt.
Tru (trâu) đực da giấy,
Tru (trâu) cấy (cái) da hổ
Kinh nghiệm chọn trâu tốt
Tru (trâu) gầy bằng bầy bò
X. Ốm trâu con hơn bạo bò.
Tru (trâu) nhác ăn to méng (miếng)
cỏ
X. Nhác thì mần một vác cho
nặng.
Tru (trâu) quá sá, má (mạ) quá
thì
Những thứ đã quá thời hạn thì không
còn giá trị ban đầu nữa.
Tru (trâu) rôộng ràn ngài nhàn thân
Đó là những điều kiện cho sự phát
triển. Trâu rộng chuồng thì mau lớn, nhanh nhẹn. Người thong thả thì
phong lưu, xinh đẹp. Con nớ dạo ni đẹp thật, đúng là tru rôộng ràn
ngài nhàn thân.
Tru (trâu) thì cỏ, ló thì phân
Kinh nghiệm trồng trọt: cỏ là thức
ăn chủ yếu của trâu là điều ai cũng dễ thấy, tương tự như thế, phân là
thức ăn của lúa, là một trong những yếu tố quan trọng cần cho sự sinh
trưởng phát triển của lúa (nhất
nước, nhì phân). Không có thức ăn thì trâu cũng như lúa không thể phát
triển được.
Tru (trâu) tóm mà đòi leo giường
cao
(Giường: bờ ruộng, ruộng bậc thang
ngày xưa thường phải đắp bờ cao). Muốn làm những việc mà khả năng không
chó phép; viễn vông không biết người, biết mình. Với năng lực
của con chỉ nên thi vào những trường vừa phải thì mới có thểđậu được
đừng có trâu tóm mà đòi leo giường cao.
Tru (trâu) tóm nhóm về sừng, ngài (người)
tóm nhóm về dái
Trâu gầy là do hay phá phách, húc
nhau, không lo kiếm ăn. Người gầy là do hoạt động tình dục quá độ.
Trâu tóm sừng trông to hơn,
Người tóm thì bộ phận ấy phát triển mạnh hơn.
(Thường để nói trạng, đùa tếu)
Tru (trâu) tóm nhóm về sừng,
Ngài (người) tóm nhóm về lưng về 1ồn
X. Trâu tóm nhóm về sừng,
người tóm thì nhóm về dái.
Đừng chộ tóm rứa mà
khinh, trâu tóm nhóm về sừng. . . đó .
Tru (trâu) tơ thì bán mua lấy bò già
Dại dột, không sành sõi, khôn ngoan hoặc kém
may mắn nên phải chịu thiệt thòi
Tru tơ thì bán
Mua lấy bò già
Trăm đường tại số sinh ra
.
KTVXN, T4, Tr.
247
Tru trậm (trâu chậm) uống nác cắn (nước đục)
Chậm chạp, lề mề
thì phải chịu thua thiệt. Mần cấy chi
cũngphải nhanh nhẹn, hoạt bát nếu không thì cả đời nỏ ngóc trôốc lên
được, trâu trậm thì uống nác cắn mà
Trụ như bò trụ mưa
(Bò vốn không ưa nước) . Chịu đựng gian
khổ, chống đỡ vất vả để đứng vững qua cơn khó khăn, nguy hiểm. Một
chắc mình chèo chống, nhọc vô kể, trụ như bò trụ mưa.
Trụ như chó trụ nây (nai)
Quá vất vả để chống đỡ. (Nai vốn to, khoẻ hơn
bò, chó phải vất vả để giữ chân nai chờ thợ săn đến). Thắng nớ hắn
uống khỏe quá, tau trụ với hắn như chó trụ nây.
Trục cúi (đầu gối) quá tai
Chỉ tư thế ngổi của những người gầy yếu, lười
nhác, ươn hèn.
Ngồi trục cúi (đầu gối quá tai,
Đi hai cẳng xéo khoai.
Đáng mặt trai KhốNội,
Ra dáng ngài (người)
Khố Nội.
Vè ông Luyện Thỉ
Trục cúi (đầu gối) to hơn trấy vả
(Đầu gối to hơn bắp vê). Sự ngược đời, không
bình thường, không có tôn ti, thứ bậc. Hàm ý phê phán thái độ hỗn xược,
xem thường đối với người thuộc lớp trước, đáng kính trọng. Con phải
biết kính trên nhường dưới đừng có trục cúi to
hơn trấy vả .
Trùng triềng như nón không quai
Trạng thái lửng lơ, không có chỗ bám, không
chắc chắn, vững vàng. Thường chỉ con gái chưa có nơi, có chốn.
Trùng triềng như nón không quai
Như th uyền không lái như ai không chồng.
Ca dao
Truột mấu đòn triêng
(Đòn triêng: đòn gánh có mấu để giữ cho quang
khỏi tụt khi gánh nặng) Thất
bại, hỏng việc, đổ vỡ.
Mình đang trông mong vô chuyến hàng ni, ai ngờ
hắn mần truột mấu đòn triêng rồi.
Trự (chữ) được trự mất
Nghe lõm bõm, không đầy đủ rõ ràng. Thầy
đọc không rõ, mình nghe trự
được trự mất.
Trự nghịa (chữ nghĩa) văn chương không bằng
xương con cá lẹp
1- Học hành kém cỏi, chẳng làm nên trò trống
gì, vô tích sự.
2- Lao động làm ra của cải, dù ít cũng quý hơn
văn chương chữ nghĩa.
(Hàm ý đề cao lao động chân tay) .
Trự (chữ) như mạ ga
(Mạ ga: gà mẹ). Chữ rất to, Trự (chữ) như mèo
quào Chữ viết nguệch ngoạc, cẩu thả đến mức không thành nét. Con với
cái, học hết lớp 12 rồi mà trự cứ như mèo quào.
Trưa ngay, túi (tối) buổi
X. Trưa ngay, túi bựa.
Trưa ngay, túi bựa
Hết cả ngày. Chỉ công việc vất vả kéo dài
không có thời gian nghỉ ngơi hoặc sự đam mê cái gì đó quên cả thời gian.
Mần chi mà mần trưa ngay túi bựa lắm a?
Trưa tru (trâu) nát ràn (chuồng)
Giam trâu lâu không cho đi ăn sẽ phá chuồng.
Phải quan tâm, đối xử tử tế với kẻ ăn, người ở, nếu không họ sẽ có phản
ứng tiêu cực.
Nói rồi xúi dục vô cho
Nói thì nói được không mò cổ đi
Đã làm còn có sợ chi
Giận cá bằm thớt trưa tru nát ràn.
KTVXN, T5, Tr. 446
Trừa tận tra
(già)
Thất bại, sai lầm quá nghiêm trọng
trong công việc cũng như trong ứng xử, quan hệ để lại bài học nhớ đời,
không bao giờ tái phạm.
Trửa (giữa) con mắt mà bắt không ra
Rất rõ ràng, gần gũi dễ nhận thấy
nhưng vì kém cỏi thiếu nhạy cảm nên không nhận thấy. Thường dùng trong
đố vui, khi đối phương không tìm được lời giải để vừa gợi ý vừa chọc quê
Trứng rồng lại nở ra rồng
Có dòng có giống, cha mẹ thế nào
thì sinh con thế ấy.
Trứng rồng lại nở ra rồng
Ba tuồng bịp bịp lá lông toàn xoàm.
KTCDXN, T2, Tr. 135
Trương gân búng má
Điệu bộ hung hăng dữ tợn như chực
đánh người. Nghe động một tí là trương gân búng má lên, nỏ ra chi cả.
Trương cồ trô côộc
X. Trương gân búng má.
Trương mắt như mắt lợn loọc (luộc)
(Mắt lợn loọc: mắt lợn luộc chỉ
thấy toàn tròng trắng rất dễ sợ). Tỏ thái độ hung hăng, dữ tợn để đe dọa
người khác. Mi mần cấy chi mà trương mắt như mắt lợn loọc rứa.
Tu hú nuôi con cà cượng (cưỡng)
Chim cà cưỡng thường tìm cách đẻ trứng vào tổ
tu hú để tu hú ấp trứng và nuôi con. ám chỉ những người dàn ông bị cắm
sừng, nuôi con người khác mà không biết. Thiệt tội cho thằng nớ, ngờ
ngờ nghệch nghệch để con nớ hắn lừa, không đẻ mà phải nuôi như tu hú
nuôi con cà cưỡng.
Tùa trời bỏ đạy gai
X. Tùa trời bốc nạm.
Tùa trời bỏ bị lác
X. Tùa trời bốc nạm.
Tùa trời bốc nạm
Huênh hoang, khoác loác quá mức.
Tin chi thằng nớ, hắn nói tùa trời bốc nạm.
Tùa trời vô bị
X. Tùa trời bốc nạm.
Túi (tối) đàng cày mà sáng đàng hò
(Hò: hát ví nam nữ). Công việc thì dốt nát mà
chơi bời thì giỏi giang, không ai bằng. Công việc buổi ngày giao cho
thì mần nỏ ra chi mà đêm về thì hết em ni đến em khác, rõ là túi đàng
cày mà sáng đàng hò.
Túi (tối) đen túi hụ
Rất tối, tối đến mức không nhìn
thấy gì. Trời túi đen tối hụ, nỏ chộ đàng mà đi.
Túi (tối) mắt tưởng ăn bao nhiêu
Kẻ tham ăn, xấu tính lúc nào cũng
nghĩ người ta hưởng phần hơn mình. Rõ thật là dơ, túi mắt tưởng ăn
bao nhiêu.
Túi (tối) trời ga vô truồng
Việc gì đến thì phải đến, không
phải bận tâm lo lắng gì cả Cậu không cần phải lo lắng chi cả, mô sẽvô
đó hết, túi trời thì ga vô truồng.
Tuổi cao ngài nậy (lớn)
X. Ngài cao tuổi nậy
Tức máu hờn gan
Bực bội, căm tức đến cao độ. Chị
đừng tức máu hờn gan ra chơi chồng chị hoa tàn
mới
thôi.
KTCDXN,
T2, Tr. 454
Tức như bò đá dái
Cảm giác khó chịu, ấm ức quá mức mà
không phản ứng lại được khi nghe (thấy) điều sai trái, vô lí, tác động
đến mình.
Tức như bò đá dái
Giận như bò đá dái.
KTVXN, T7, Tr. 52
Tức nổ rọt (ruột)
Bực bội, căm tức cao độ dồn nén
chất chứa trong lòng tưởng muốn vỡ tung. Con cái nhủ một đàng mần một
nẻo, thiệt tức nổ rọt.
Tức nổ rọt nổ gan
X. Tức nổ rọt.
U
Ù ù cạc cạc như vạc cả đàn
Ngớ ngẩn, chẳng biết gì như ở giữa
đám dông ồn ào không nghe rõ gì cả cứ cố dỏng tai lên.
Uống nác không trừa cợn
1 - Tham 1am, hưởng hết
phần của người khác.
2- Cư xử quá cứng nhắc, không có
tình
Uống nác phải trừa cợn
1 - Không nên tham 1am quá phải
biết nhường phần cho người khác.
2- Cư xử đừng quá cứng nhắc, biết
nể tình thân.
Ưa nặng như lừa
Khuyên bảo nhẹ nhàng không nghe,
phải dùng mệnh lệnh trấn áp. Hàm chi kẻ lười biếng, lì lợm, khó bảo.
Nói nhẹ nhàng thì không nghe cứa ưa nặng như lừa.
Ướt cặc (tục) mới đặc nồi
Có chịu khó ngâm mình dưới nước mới
bắt được nhiều cá. Có chấp nhận gian khổ, khó khăn mới có thể đạt thành
quả cao. Bọ mi có ướt cặc thì mệ mi mới đặc nồi chớ.
V
Vá đụp vá chằng
Quá nhiều mảnh vá chồng lên nhau.
Hàm chỉ cuộc sống quá khó khăn, nghèo túng.
Áo thì rách từng mảng
Quần vá đụp vá chằng.
KTVXN, T4, Tr. 447
Vác mặt lên trời
X. Mặt vênh như mỏ trày.
Vác mỏ như mỏ trày (chày) đạp
X. Mặt vênh như mỏ trày đạp
Vác mồm đi ăn giộ (giỗ)
Kẻ không biết điều, văn hóa ứng xử
thấp kém, đi ăn giỗ theo lệ thường ít nhất phải có chút lễ đến để thắp
hương, vác mồm đi ăn giỗ là đi không có chút lễ nào cả, chỉ đến ăn không.
Thằng cha nớ vác mồm đi ăn giỗ mà không biết ngượng.
Van như van làng
Gọi to, gọi mãi mà không thấy thưa.
Đi mô mà van như van làng vẫn không nghe ?
Vàng mười không phải thử,
Ngọc tốt chẳng bán rao
Cái có giá trị đích thực thì chẳng
cần quảng cáo, phô trương vẫn được khẳng định.
Vàng mười không phải thử,
Ngọc tốt chẳng bán rao
H~
yếu liễu thơ đào
Nên tu thân mới phải
Tu thiện từ mới
phải.
KTVXN, T8, Tr. 564
Vay quyền ả (chị) trả quyền em
Cho vay hay không là do người có
tiền quyết định nhưng trả hay không, trả khi nào thì tuỳ thuộc vào người
vay. Phải thận trọng khi cho người khác vay mượn tiền kẻo có hại cho
mình khi gặp phải người không tử tế. Em cho hắn vay nhiều rứa khi
mình mần nhà lấy tiền mô ? Em không nghe nói vay quyền ả trả
quyền em à :
Vay cả trả nửa
Người có tính lần lựa, muốn ăn quỵt
của người khác khi trả thường tìm cách trì hoãn, bớt xén.
Vay hả hả trả hỉ hỉ
Khi vay thì tỏ vẻ xởi lởi, thoải
mái và vay nhiều (hả hả), khi trả thì miễn cưỡng, kém vui, trả nhỏ giọt
(hỉ hỉ).
Văn Tràng chạy cá,
Trung Hạ đết vôi Văn Tràng và Trung
Hạ là hai làng thuộc xã Kỳ Hải, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà rrnh. Văn Tràng
nhiều người làm nghề buôn cá, Trung Hạ là nơi nổi tiếng về nghề làm vôi.
Đất Văn Tràng chạy cá
Đất Trung Hạ đết vôi
Đất Kỳ Thọ bầy tui
Bắt ba nạm cáy hôi
Về đâm đâm phơi phơi
Đưa ra trửa chợ mà ngồi
Ruốc tui ngon lắm
mệ ơi
Ngon bằng năm ruốc bể
Ngon bằng
mười
ruốc bể.
HGNT
Vẹ (vẽ) cho đị (đĩ) xắn mấn
Bày vẽ, hướng dẫn, nhắc nhở cho
người khác việc mà họ đã quá sành sõi để tỏ ra mình hiểu biết. Thôi
tui xin ông, ông đừng có vẹ cho đị xắn mấn nựa.
Vẹ cu vẹ cò
Tự do, thoải mái hành động, không
bị ai ngăn cản mặc cho kết quả thế nào cũng được. Để cho một chắc hắn
một (rọng) chohắn muốn vẹ cu vẹ cò chi mặc kệ hắn.
Vẹ voòng đạp phải voòng
Đặt ra quy định để hạn chế ngưởi
khác nhưng chính mình lại mắc phải. Muốn bắt chẹt người ta, nỏ ngờ vẹ
voòng lại đạp phải voòng.
Vênh mồm rú Đọ ngoảnh mỏ rú Vong
Rú Đọ, rú Vong là những ngọn núi
bao quanh xã Kỳ Ninh, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Chỉ tình trạng không thống nhất,
đoàn kết, mỗi người một ý kiến, không ai nghe ai.
Vênh như bánh tráng phơi nam
Bánh tráng phơi nam (gió Lào) khô
quá nhanh nên bị cong vênh, lồi lõm, không còn giữ được phẳng phiu như
bình thường nữa.
Việc người thì sáng, việc mình thì
quáng
Nhìn nhận công việc của người khác
thì tỉnh táo, sáng suốt nhưng việc của chính mình thì lơ mơ.
Việc nhà chưa âu, lo thằng bầu lọc
(tục)
Những việc của nhà mình đáng phải
lo lắng, giải quyết thì không làm lại rỗi hơi đi lo huyện tầm phào đâu
đâu Nhà nỏ còn hột gạo mô mà cứ đi lo việc của ai, đúng là cái đồ
việc nhà chưa âu lo thằng bầu lọ
Vít bên mang cả làng ăn thép,
Vít bên mép ăn thép cả làng
(Vít: nốt ruồi). Kinh nghiệm đoán
tướng số: những người có nết ruồi ở mang tai là dấu hiệu sẽ thành đạt
trong cuộc đời, làng xóm được nhờ vả. Người có nốt ruồi bên mép thì
ngược lại cuộc sống sẽ không mấy tốt đẹp, cả đời phải nhờ và người khác
.
Vít ròi ở cổ có lổ tiền chôn
Kinh nghiệm xem tướng số: người có
nết ruồi ở cổ là tướng phong lưu, giàu có.
Số mi là số sướng, vít
ròi ở cổ có lổ tiền chôn mà.
Vịt ăn nác (nước) ga ăn khô
(Ga: gà). Khác nhau về đặc điểm nghề nghiệp,
văn hoá nên rất khó chung sống. Hai đứa bây lấy chắc mần răng mà hợp
được, vịt ăn nác, ga ăn khô .
Vọc như tấy
Nghịch ngợm, rờ mó hết cái này đến cái khác,
không để yên cái gì. Mấy đứa con nhà nớ vọc như tấy.
Voi chê cỏ cam lanh
Chuyện lạ đời, chê bai, dè bỉu
những thứ vốn rất thích hợp. Bựa ni oai hè, voi chê cỏ cam lanh
à.
Vô (vào) lộ hà ra lộ hổng
Rơi vãi, lãng phí. Mần ra cũng nhiều nhưng
mà cứ vô lộ hà ra lộ hổng mô cả nỏ tích luỹ được mấy.
Vô (vào) lộ ni ra lộ khác
Tình trạng
không dành dụm được của cải mặc dầu làm ra rất nhiều do nhu cầu chi tiêu
lớn hoặc rủi ro, tai nạn.
Vô (vào) lối vô hàng
Không có hàng có lối. Chỉ sự nói năng, suy
nghĩ không đúng cách, hỗn láo với người trên, bất chấp đúng sai.
Vô tai ni ra tai khác
Không nghe, không hiểu, không nhớ được những
điều người khác căn dặn, dạy bảo. Nót đến rứa màhắn nỏ hiểu, như kiểu
vô tai ni ra tai khác rứa.
Vô tai lặng tiếng
Không để lại tai tiếng gì cả, không xảy ra sự
việc nghiêm trọng nào. Nếu anh biết nhường nhịn một thỉ (tý) thì đã
vô tai lặng tiếng rồi.
Vô tay voọc moóc mô ra
Voọc: cách gọi của nhân dân địa
phương về loài đười ươi Đười ươi hễ nắm được vật gì thì nắm rất chắc,
rất khó có thể giành lại. Chỉ những kẻ tham lam, xem của cải nặng hơn
tình nghĩa, bất chấp tất cả để chiếm đoạt của người khác. Thôi con
ạ, mình chấp nhận mất của thôi, không đòi được
nơi
nhà nớ mô, vô tay voọc moóc mô ra.
Vô ý mắng ngài vô duyên
Không có ý tứ, tự gây phiền nhiễu
cho mình rồi lại còn trách cứ người khác một cách vô cớ.
Vôi pha với nghịa (nghĩa)
Thuốc nồng với duyên
Tình cảm thắm thiết. Trầu xanh,
cau trắng chay nồng Vôi pha với nghĩa thuốc nồng với duyên.
KTCDXN, Tl , Tr. 422
Vôống đẹo mà khéo chựa (chữa)
Làm thì dở mà chỉ giỏi chống chế,
nguỵ biện. Mần như ma mà còn nói tốt rõ là vôống đẹo khéo chựa.
Vơ quàng vơ xiên
Tìm cách vơ vét, thu vén cho mình
bất chấp tất cả; không phải của mình mà cứ nhận bừa.
Vợ
chồng trẻ đi ẻ cụng (cũng) nhớ
Vợ chồng mới cưới, hạnh phúc đang
tràn trề, vắng một tí cũng nhớ nhau.
Vợ ở mô thủ đô ở đó
Vợ có vị trí trọng yếu số một trong
cuộc đời bên cạnh công danh, sự nghiệp. Vợ sống và làm việc ở đâu thì
quyết định nơi ở của gia đình ở đó. (Đây là quan niệm mới, khác hẳn quan
điểm "tòng phụ" ngày trước)
Vuốt bụng thở dài
Quá buồn bực trước thực tế khó
khăn.
Vô trửa (giữa) tiết giêng hai
Ngong (nhìn) vô chum không có ló
(lúa)
Ngó vô vại, vại nỏ có khoai
Anh vuốt bụng thở dài
Tôi đây thì cộ (cũ), cộ con ngài
(người).
KTVXN, T3 , Tr. 117
Vưa (vừa) cơm vưa mắm
Sắp xếp khéo léo, không thừa không
thiếu.
Vưa (vừa) một méng
(miếng)
lủm.
Rất ít, rất nhỏ không đáng kể.
Vườn rộng chớ trồng tre là ngà,
Nhà rộng chớ cho ngài (người) ở độ
(ở nhờ).
Tre là ngà là loại tre vàng đẹp
nhưng phát triển nhanh, chiếm mất nhiều đất. Người ở độ thường ở lì, đôi
khi Chiếm đoạt cả nhà của chủ.
Xa xạ (xã) ngái làng
Cách xa nơi mình ở.
Đôi đũa sơn son,
Gắp hòn tro đỏ
Bỏ vô cơi vàng
Đến đây xa xạ ngái làng
ước răng cho được con
Phượng
bắc ngang con rồng.
KTCDXN , T2 , Tr. 287
Xán (ném) rá đá đòn
X. Xán (ném) rá đá kiềng.
Đừng chửi mèo mắng chó
Đừng xán rá đá đòn.
KTVXN, T4, Tr. 149
Xán (ném) rá đá kiềng
Bực tức nhưng không nói ra trực
tiếp mà chỉ phản ứng bằng hành động mạnh đối với đồ vật xung quanh.
Cức (tức) chi thì nói cớ răng lại xán (ném) rá đá kiềng rứa.
Xán
(ném) rá đá niêu
X. Xán (ném) rá đá kiềng.
Bởi vì em quen thói
Miệng vùng vằng nhiều điều
Chồng xán rá đá niêu
Mặt giận hờn sớm chiều
Trăm công chi cũng bỏ
Vạn việc gì cũng bỏ.
KTVXN, T4, Tr. 1 39
Xải xải như cải tháng ba
Rau cải cuối mùa không ngon.
Xay lúa thì kẻo bồng em
X. Xay lúa thì khỏi bồng em.
Xay lúa thì khỏi bồng em
Làm việc này thì khỏi làm việc khác
không thể một lúc làm hai ba việc. Phân công lao động phải công bằng,
mỗi người một việc, tránh chồng chéo.
Xâu xương xâu thịt
X. Trời thương xâu xương xâu
thịt.
Xấu chuôm cá nỏ vô đìa
Môi trường không hấp dẫn thì không
thu hút được sinh vật đến trú ngụ. Không tương xứng thì đừng có mất công
theo đuổi.
Trăng lên đến đó rồi tề
Nói răng thì nói em về kẻo khuya
Anh về đi ngủ kẻo khuya
Xấu chuôm cá nỏ vô đìacho mô.
KTCDXN , T1 , Tr. 419
Xấu đắng nác (nước)
Quá xấu, gây ác cảm, xấu đến mức
nếu tắm ở sông, hồ thì làm cho nước phải đắng. Tau chưa chộ ai xấu
như con nớ, hắn xấu đắng nác.
Xấu như ma nhả
Rất xấu. Lứa lợn ni xấu như ma
nhả.
Xấu trự tốt nghịa (nghĩa)
X. Vống đẹo (đẽo) khéo chựa (chữa).
Xe chỉn (chỉ) uốn cần
Cần mẫn,làm đủ mọi việc cần thiết
để theo đuổi cuộc tình.
Công anh xe chỉn uốn cần
Vì chưng
trời
động, con cá lần ra khơi .
KTCDXN, T2, Tr. 251
Xe nhợ (dây) uốn cần
X. Xe chỉn (chỉ) uốn cần.
Tiếc công anh xe nhợ uốn
cần
Xe
chưa
kịp nhợ cá lần ra khơi .
Xin như tù xin ẻ (ỉa)
Van xin một cách khẩn thiết, tội
nghiệp. Ra vẻ tay chơi, phóng xe như bay khi bị phạt lại xin
như tù xin ẻ.
Xoong như nác đấy (nước đái) bò
X. Khai như nác đấy bò.
Xôi nếp cái, gái Tràng Lưu
Nếp cái: một loại nếp của địa phương Hà Tĩnh
rất thơm và dẻo. Trường Lưu, nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, một
vùng đất văn vật của Hà Tĩnh. Gái Trường Lưu nổi tiếng xinh đẹp giỏi
giang, thong minh, tình tứ. Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du thời trẻ đã
nhiều lần giao lưu hát xướng với các cô gái Trường Lưu và để lại hai tác
phẩm khá nổi tiếng là bài vè "Thác thời trai phường nón" (Giả
nhập vai người con trai phường nón Tiên Điền gởi người yêu là cô gái
phường vải Trường Lưu) và bài văn tế nhan đề "Sinh tế Trường Lưu nhị
nữ văn".
Xôi nếp cái, gái họ Dương
Họ Dương
Xem lại phần nầy
Tu hú nuôi con cà cượng (cưỡng)
Chim cà cưỡng thường tìm cách đẻ trứng vào tổ
tu hú để tu hú ấp trứng và nuôi con. ám chỉ những người dàn ông bị cắm
sừng, nuôi con người khác mà không
biết. Thiệt tội cho thằng nớ, ngờ ngờ
nghệch nghệch để con nớ hắn lừa, không đẻ mà phải nuôi như tu hú nuôi
con cà cưỡng.
|