Biểu
diễn âm vị học
(phần
đầu)
Âm thanh lời nói là một
hiện tượng tự nhiên bao gồm những dao động của thực thể vật lí mà âm học
hiện đại biểu thị ra bằng cao độ (nội dung của dây thanh), cường độ,
trường độ…
Nhưng từ khi xuất hiện
văn tự, âm thanh không c̣n là một dạng thể hoàn toàn tự nhiên nữa. Nó được
biểu diễn ra trên kênh viết dưới h́nh thức văn tự ghi âm ghi âm. Đó chính
là một phép chuyển kênh hay là một sự cải biến về âm thanh tự nhiên sang
các kí hiệu được thụ cảm bằng thị giác (từ thính giác tới thị giác).
"Lời nói gió bay" là
nhược điểm lớn nhất của âm thanh bằng lời. Lời nói muốn được lưu giữ lại
cần đến sự tác động nhân tạo vào đối tượng. V́ sự lưu lại lời nói âm thanh
cho con người là có ích về nhiều mặt. V́ vậy, từ khi có ngôn ngữ học,
người ta luôn luôn t́m ra những giải pháp tối ưu hơn cho việc lưu lại âm
thanh tự nhiên của con người. Chúng ta có những dạng sau đây:
Tự
nhiên (sóng âm) |
Lưu
giữ (nhân tạo tính) |
Âm thanh tự nhiên |
Thẩm nhận qua tai: Băng/đĩa từ, đĩa quang… |
Thẩm nhận qua thị giác
|
|
1a. Chữ viết ghi âm (abc) |
|
1b. Chữ viết ghi âm tiết (văn tự
Sumer) |
|
2. Phiên âm |
|
2a. Ngữ âm học (IPA)
2b. Âm vị học:
- Cấu trúc luận
- Tạo sinh luận
- Âm vị học tự chiết đoạn |
|
|
Dạng ghi lời nói qua văn
tự, tuỳ theo tiến bộ của khoa học kĩ thuật mà âm thanh có thể được chuyển
tải, được ghi lại với mức độ chính xác khác nhau. Tuy nhiên, các điều kiện
kĩ thuật của con người không thể phản ánh trung thực và khách quan những
điều tế vi nhất của âm thanh con người.
C̣n những sự lưu giữ
thông qua kênh thị giác là h́nh ảnh chủ quan của con người về thế giới âm
thanh. Bằng chứng là ḍng âm thanh liên tục đă được cắt ra theo truyền
thống chữ viết của từng dân tộc. Tuỳ theo nét thô hay nét tinh mà các chữ
cái được sắp lại thành chuỗi nhằm thể hiện được tính liên tục của âm thanh
trong tự nhiên:
Ví dụ: //:
"tr"
Trong h́nh dung của A. de
Rhodes (1651), âm này được "tăi" ra thành hai yếu tố tuyến tính đi cạnh
nhau và /t/ và /r/. So sánh: trời, blời, tlời… Có lẽ vào thời ấy, ở
phụ âm đầu tiếng Việt c̣n tổ hợp phụ âm đầu như bl, tl, tr… Nhưng ở
người Việt hiện đại, bất ḱ trong một thổ ngữ nào, phụ âm đầu này luôn là
phụ âm quặt lưỡi đơn nhất, đồng chất và không mang tính h́nh tuyến. Tiếng
Việt đă trải qua quá tŕnh đơn tiết hoá đến triệt để, đến nỗi một âm tiết
xét về mặt chiết đoạn chỉ là một tổ hợp của 3 thành phần âm thanh, mô
phỏng một cách tự nhiên chu ḱ cấu âm của con người.
Các âm khác như /f/,
/t'/, /χ/ ở trong tiếng Việt được ghi bằng "ph, th, kh" là cũng có lí do
tương tự như vậy. Vào thời ḱ A. de Rhodes, người Việt cận đại có lẽ lúc
đó phát âm các phụ âm đầu này như là những tắc bật hơi để phân biệt với
các âm tắc b́nh thường:
*/p'/
→
(/f/)
*/t'/ →
(t'/)
*/k'/ →
(/χ/)
V́ vậy, ông đă
sử dụng chữ "h" để ghi các yếu tố bật hơi có trong tiếng Việt. Do vậy mà ở
vị trí đầu này đă có tới 2 chữ cái cho một âm vị.
Văn tự là văn hoá, là
thói quen ghi chữ của một cộng đồng. Gần 4 thế kỉ tồn tại của hệ chữ viết
Việt Nam đă tạo thành một nét văn hoá trong chữ viết, đến mức một cá nhân
dẫu có uy tín lớn như Hồ Chí Minh rất mong muốn "âm vị hoá" hoá lại hệ chữ
viết này ngay từ khi Người đi t́m đường cứu nước đến khi Người viết di
chúc mà ư nguyện đó vẫn chưa thực hiện được. Đó chính là tính độc lập
tương đối của văn tự, là h́nh ảnh âm thanh quá khứ dội về. Đó là tiếng
vang văn hoá và không thể ngày một, ngày ngày hai mà có thể cải tiến và
sửa chữa được.
Như vậy, người ta có thể
lưu giữ lời nói âm thanh tự nhiên của con người thông qua hệ chữ viết của
ḿnh, nhưng đây là một thứ biểu diễn âm vị học sơ cấp, tính khoa học
nhường chỗ cho tính văn hoá và t́nh phổ cập. Từ khi xuất hiện cấu trúc
luận, nhất là từ khi xuất hiện những tuyên ngôn của trường phái Praha về
ngôn ngữ học, người ta lưu ư hơn đến việc lưu giữ hệ âm thanh tiếng nói
con người thông qua kênh thị giác. Bởi v́, qua kênh thị giác, con người có
thời gian suy nghĩ nhiều hơn về bản chất âm thanh tiếng nói con người, tận
dụng được năng lực cảm nhận một cách tối ưu cái mà tự nhiên cấp cho con
người: 90% thông tin con người nhận được là thông qua thị giác.
Nhưng từ cấu trúc luận
trở đi, việc biểu diễn âm vị học không c̣n là một hành động tự phát của
con người trong việc đ̣i lấy một sự b́nh đẳng giữa kênh nghe và kênh nh́n.
Từ cấu trúc luận trở đi, người ta chia thành hai dạng biểu diễn âm vị học:
một dạng mang tính ngữ âm học; một dạng mang tính âm vị học. Cả hai dạng
này đều là những cố gắng tự giác của con người trước âm thanh của ḿnh.
Biểu diễn âm thanh theo lối ngữ âm học là sử dụng một bảng phiên âm thống
nhất trên toàn thế giới cho việc ghi lại một ḍng âm thanh thanh mà con
người ta nghe được. Từ 1890, khi
Hội Ngữ âm học quốc tế (International Phonetic Association – IPA) được
h́nh thành, việc đầu tiên trong các việc họ phải làm là thiết lập một bảng
chữ cái chung cho các âm có trên toàn thế giới. Bảng phiên âm này có tên:
International Phonetic Alphabet (IPA). Cứ 5 năm một lần kể từ
khi thành lập, những nhà ngữ âm học quốc tế lại nhóm họp để cải biên, bổ
sung, sửa đổi cho bảng chữ cái này tương thích hơn với hệ âm thanh tiếng
nói con người. Bảng IPA bao gồm các kí tự Latinh, kí tự Hi Lạp và một hệ
các dấu phụ để phản ánh được trung thành hơn các dạng thể âm thanh của con
người. Vào năm 1993, sau gần 100 năm xuất hiện IPA, các nhà ngữ âm học đă
chỉnh sửa và đưa ra bảng chữ cái quốc tế cho phiên âm mà chúng ta đang
dùng.
Việc sử dụng bảng IPA để
phiên âm được gọi là phép phiên âm hẹp theo trường phái Mĩ, v́ người phiên
âm phải phiên âm một cách trung thành và chính xác ḍng âm thanh mà ḿnh
tiếp nhận.
Ví dụ:
"toan" = bao
gồm:
[t]
[a]
[n]
là 3 âm tố chính quan trọng. Ngoài ra, khi phát âm th́ [t] và [a] đều tṛn
môi ([to], [ao]).
Khi phát âm "toan" th́
[-n] đứng ở vị trí cuối cùng của âm tiết, một vị trí không thuận lợi cho
việc phân biệt giữa nét hữu thanh và vô thanh, giữa nét tắc và xát, trường
độ của âm cuối vô cùng ngắn (âm cuối thường có trường độ từ 3–5ms trong
tương quan với âm đầu có trường độ là từ 17–25ms), nên [-n] trong "toan"
là một âm mũi nhưng không đầy đủ về tính hữu thanh và vang. V́ vậy, khi
phiên âm hẹp âm cuối này th́ dưới kí hiệu này c̣n phải ghi chú thêm t́nh
trạng ít tính thanh (to).
Biểu diễn âm vị học
(phần hai)
Trong sự cố gắng tuyệt
vọng của các nhà ngữ âm học muốn ghi lại cụ thể và chi tiết các động thái
xảy ra trong ḍng âm thanh mà ḿnh nghe được, sự nối dài ra danh sách các
dấu hiệu phụ suy cho cùng th́ cũng chỉ được coi là một “tối kiến”. Bởi v́,
lời nói âm thanh là vô hạn, dẫu cho một danh sách đă chuẩn bị các chữ cái
và dấu phụ chi tiết đến mức nào th́ cũng chỉ là đem cái hữu hạn ra so với
sự vô hạn mà thôi. V́ vậy, các phiên âm ngữ âm học dù có được cải tiến đến
đâu th́ cũng chỉ là những h́nh ảnh mờ nhạt và không chính xác về thế giới
âm thanh.
V́ vậy, để phản ánh trung
thực được ḍng âm thanh mà chúng ta nghe được, không thể sử dụng phiên âm
ngữ âm học – một thứ phiên âm mang tính dị đoan trong ngữ âm học – mà
người ta phải t́m lấy cái bất biến trong cái vạn biến của một hệ âm thanh.
Chính nhờ việc xác định rơ cái biến động, cái vô hạn mà bộ môn âm vị học
ra đời. Với âm vị học, ḍng âm thanh dẫu có biến đổi bao nhiêu th́ vẫn
phải có cái thần của nó. Cái thần này nằm ở trong danh sách âm vị, danh
sách các nét âm vị và danh sách các luật âm vị học.
Một biểu diễn âm vị học
hiện đại bao gồm:
a- Một danh
sách các âm vị (list of phonemes)
b- Một danh sách các nét khu biệt (list of distintive features)
c- Một danh sách các luật âm vị học (list of phonetic rules).
Như vậy, ước mơ t́m đến
một bảng danh sách chung cho cả hệ âm thanh trên thế giới đă được thu gọn
lại, hiện thực hơn là: biểu diễn hệ âm thanh cho một hệ ngôn ngữ, một cộng
đồng. Đó là một chủ nghĩa hiện thực cho âm vị học biện đại, được bắt đầu
từ R. Jakobson (1953) với sự cổ vũ của Noam Chomsky (1968) và sự mở rộng
của Goldsmith (1970–1990).
V́ sự vô hạn đă biến
thành các sự hữu hạn của các nét khu biệt thường dùng trong cộng đồng nói
năng và sau đó được sửa đổi thông qua các luật âm vị học của riêng từng
ngôn ngữ cho nên, biểu diễn âm vị học phản ánh trung thành được ḍng âm
thanh mà chúng ta nghe được trên tinh thần khoa học và chính xác, của một
phiên âm mang tính khoa học và một hoạt động nhận thức của tự giác.
Trong một biểu diễn âm vị
học như vậy, nhà nghiên cứu có thể tiếp thu hoàn toàn bảng danh sách âm vị
có từ cấu trúc luận (x. Đoàn Thiện Thuật. Ngữ âm tiếng Việt),
hệ nét khu biệt có thể mượn của Jakobson hoặc Chomsky (Lí thuyết tạo sinh
trong âm vị học). C̣n luật âm vị học th́ có thể mượn của Chomsky hoặc
Goldsmith sau này (Âm vị học tự chiết đoạn – Autosegmental Phonology).
Người ta c̣n gọi sự phiên âm theo âm vị học là phiên âm rộng (broad
transcription). Phiên rộng là phiên âm lược bỏ được hầu hết các kí hiệu
phụ. Người ta “tẩy rửa” cho sạch những kí hiệu rối mắt ở trên một kí hiệu
phiên âm theo bảng chứ cái. Sự chi tiết của ḍng âm thành cùng với tính
khoa học trong phiên âm được bộc lộ thông qua hệ nét khu biệt và nội dung
của một âm vị và những phát biểu về các nét âm vị học cho từng trường hợp
cụ thể của ḍng âm thanh ấy.
Ví dụ: Tở lại trường hợp
“toan” trong tiếng Việt, theo phiên âm rộng, chúng ta có:
1.
([tan]) ([w][1])
2. Danh sách các nét khu biệt:
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
+PAT
+Tắc
+Răng-lợi
+Vô thanh |
|
|
|
+NAT
+Giữa
+Thấp
+Đơn |
|
|
|
+PAT
+Răng-lợi
+Mũi
|
|
|
|
|
|
+Tṛn môi |
|
|
|
+Thanh điệu tính
+Bằng
+Cao |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3. Luật âm vị học:
[BT]
→
[+Tṛn môi] |
/
/ |
C1 ≠ [+Môi]
V ≠ [+Sau] |
(luật) |
|
(chu
cảnh) |
|
[+Môi]: /b-/, /p-/, /f-/, /v-/, /m-/,…
[+Sau]: /-u-/, /-o-/, /-uo-/,…
[B́nh thường]: Âm tiết không âm đệm
[+Tṛn môi]: Âm tiết có âm đệm |
Biểu diễn âm vị học
(phần cuối)
1.
Ở danh sách âm vị, trong mỗi biểu diễn âm vị học, thường có 2 phần tách
rời nhau là biểu diễn âm vị học ở phía trái và biểu diễn âm vị học ở phía
phải. Biểu diễn âm vị học ở phía trái là phần chia hết theo lí thuyết
chiết đoạn, nghĩa là theo lí thuyết về phổ niệm âm thanh, bất ḱ một âm
tiết nào cũng là sự tổ hợp của 3 giai đoạn khác nhau của một chu ḱ phát
âm tự nhiên:
Một âm tiết bao gồm một hạt nhân của nó. Đây là
phần chủ đạo về âm hưởng của một âm tiết. Nó chiếm giữ hầu hết năng lượng
của một âm tiết và v́ vậy, nó có tính độc lập tương đối, đến mức một âm
tiết có thể chỉ bao gồm mỗi một hạt nhân. Đó chính phần V. Ở phía trước và
ở phía sau V, hay c̣n gọi là giai đoạn khởi và giai đoạn thoái trong âm
tiết, là vị trí ưa thích của các chiết đoạn phụ âm tính. Trong âm vị học,
đó là C1 hoặc C2.
Bản thân từ nguyên của
chữ “phụ âm” (consonant) đă nói lên tính phụ thuộc của các yếu tố phía
trước và phía sau nguyên âm: con – đi kèm; sonant – âm.
Chúng là các yếu tố âm thanh chứa ít năng lượng nhất nên luôn luôn phải
bám vào các nguyên âm để tồn tại. Các số (1) và (2) đi sau kí hiệu C, đối
với tiếng Việt, là để chỉ vị trí cụ thể của các phụ âm trong mối tương
quan với nguyên âm có trong một âm tiết. Ta có C1 là phụ âm đầu
(ở vị trí giai đoạn tiếng của một âm tiết), C2 là phụ âm cuối
(ở vị thoái của một âm tiết). Kết quả, ta được một mô h́nh chung cho biểu
diễn âm vị phía trái là:
C1 V C2
*Ư nghĩa:
Không như Cao Xuân Hạo
hoặc Nguyễn Quang Hồng đă tuyên bố: âm tiết tiếng Việt là một hiện tượng
ḱ dị trong ngôn ngữ thế giới v́ người ta không thể cắt âm tiết thành từng
phần được, không chiết đoạn hoá được các âm vị bên trong một âm tiết, âm
vị học tiếng Việt hiện đại cho rằng: tiếng Việt cũng chỉ là một mảnh của
cánh đồng âm thanh nhân loại. Nó là âm thanh của con người nên nó phải có
tính nhân bản. Nếu như toàn bộ các ngôn ngữ đều có cấu trúc âm tiết là:
- phần đầu âm tiết (C1);
- phần giữa âm tiết (V) là hạt nhân;
- và phần cuối âm tiết (C2) để kết thúc âm tiết
th́ tiếng Việt
cũng phải nằm trong quy luật tự nhiên này, nghĩa là nó vân phải có 3 phần
như vậy. Đó là phần lơi hay tính nhân bản của loài người. Không nên cho âm
tiết tiếng Việt là có h́nh dáng ḱ quái đến mức chỉ mỗi người Việt là phát
âm được.
Nhưng tiếng Việt phải có
khó khăn của riêng nó trong việc phát âm các âm tiết. Sau khi thoả măn
phần nhân loại, tiếng Việt chuyển sang phần bản sắc của ḿnh. Đó là phần
biểu diễn âm vị học phía phải của âm tiết. Ở đó, chúng ta ghi ra những đặc
thù về mặt phát âm của âm tiết tiếng Việt – những yếu tố “cặn” c̣n đọng
lại không chia hết được theo nguyên tắc chiết đoạn luận của ngữ âm học
phương Tây. Đây là phần bản sắc của âm thanh tiếng Việt. Đó là sự tṛn môi
hoá âm tiết mà cấu trúc luận gọi là âm đệm. Đó là toàn bộ hệ siêu đoạn
được bộc lộ ra bằng thanh điệu tiếng Việt. Đó là sự kết thúc theo biểu
b́nh thường hay có “sạn”. Đó là sự cố kết theo cách căng hay lơi ở phần
vần của âm tiết để tạo ấn tượng hạt nhân dài ra hay ngắn lại. Như vậy là ở
phía phải của một biểu diễn âm vị học, theo cách đầy đủ nhất sẽ gồm 4 yếu
tố, không được xếp một cách tuyến tính, sau đây:
Tuyến
tính |
|
Phi
tuyến tính |
C1VC2 |
|
1. [+tṛn môi] / [-tṛn môi]
2. [T1]/[T2]/.../[Tn]
3. [T[7+8]] / [T[1
→
6]]
4. [+căng] / [+lơi] |
Trái |
|
Phải |
Tuy nhiên, nếu chúng ta
đă quy ước rằng các bộ phận ởp hía phải là bộ phận không mang tính h́nh
tuyến, nghĩa là không theo một sắp xếp h́nh tượng nào mà cùng xuất hiện
khi một cấu trúc chiết đoạn đă được bộc lộ là C1VC2,
th́ chúng ta có thể không nhất thiết phải liệt kê theo thứ tự 1, 2, 3… Ví
dụ:
1.
“tăn”
→
([tan]) ([T1]
[+căng])
2.
“tan”
→
([tan]) ([T1])
3.
“quan”
→
([kan]) ([T1]
[+tṛn môi])
4.
“quăn”
→
([kan]) ([T1]
[+tṛn môi] [+căng])
2.
Phần chủ yếu của âm vị học mở rộng là bàn về nội dung của các âm vị có
trong một biểu diễn âm vị học. V́ có thể danh sách âm vị ở các ngôn ngữ là
như nhau (ở phần phía trái) nhưng nội dung các nét khu biệt đẻ làm đầy âm
vị ở mỗi ngôn ngữ là khác nhau. Lí do nằm ở chỗ: Số lượng âm vị ở
mỗi danh sách thường không bao giờ như nhau; chất lượng thể hiện
của các âm vị ở mỗi ngôn ngữ là một khác; khả năng xuất hiện ở các
vị trí C1 và C2 trong khung âm tiết phổ niệm cũng
rất khác nhau ở các ngôn ngữ.
V́ vậy, nếu như ở phần
danh sách âm vị, người ta có thể chia ra được phần chung và phần riêng;
phần nhân loại và phần cộng đồng; phần phổ niệm và phần bản sắc th́ ở danh
sách nét khu biệt, người ta hiếm gặp được một nội dung âm vị học nào đó
tương tự nhau giữa các ngôn ngữ. Sự khác nhau này xuất phát từ nguyên lí
quan trọng của âm vị học: Âm vị học là nghiên cứu âm thanh của một ngôn
ngữ. (x.
chi tiết)
Ví dụ: Chúng ta có một số
mẫu biểu diễn âm vị về nội dung âm vị của các tiếng và từ tiếng Việt sau
đây:
1.
“tăn”: ([tan]) ([T1][+căng]) |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
+PAT
+Tắc
+Răng-lợi
+Vô thanh
-Mũi |
|
|
|
+NAT
+Giữa
+Thấp
+Đơn
|
|
|
|
+PAT
+Tắc
+Răng-lợi
+Mũi
|
|
|
|
|
|
+TĐT
+Bằng
+Cao |
|
|
|
+Căng |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2. “tan”: ([tan]) ([T1]) |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
~
|
|
|
|
~
|
|
|
|
~
|
|
|
|
|
|
~
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3. “quan”: ([kan])
([T1][+tṛn môi]) |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
+PAT
+Tắc
+Ngạc mềm
+Vô thanh
-Mũi |
|
|
|
~
|
|
|
|
~
|
|
|
|
|
|
~
|
|
|
|
+Tṛn môi |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
4. “quăn”: ([kan])
([T1][+tṛn môi][+căng]) |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
~
|
|
|
|
~
|
|
|
|
~
|
|
|
|
|
|
~
|
|
|
|
~
|
|
|
|
+Căng |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
5. “loan”: ([lan]) ([T1][+tṛn môi]) |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
+PAT
+Bên |
|
|
|
~
|
|
|
|
~
|
|
|
|
|
|
~
|
|
|
|
~
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3.
Giới thiệu về hệ thống âm vị học của một ngôn ngữ, ngoài việc thống kê
danh sách âm vị học và nét khu biệt, c̣n phải đề cập đến các điều kiện
xuất hiện của các âm vị và các nét khu biệt này. H́nh thức hoá các điều
kiện này được gọi là luật âm vị học.
Luật âm vị học được chia
thành hai loại:
a. Các luật âm vị học
về tổ chức một âm vị hay đó là cấu trúc nét của âm vị;
Ví dụ:
Trong tiếng Việt, các âm [+ngạc cứng] không thể phối hợp được với các nét
[+xát] để tạo nên được một phụ âm đầu chính danh. Ta có một số phụ âm
tiếng Việt như sau:
p |
t |
|
c |
k |
b |
d |
luật a3 |
luật a1 |
luật a2 |
f |
s |
ş |
χ |
v |
z |
|
γ |
Ta có luật
âm vị học a là:
a1: [+xát]
→
ø [+ngạc cứng]
a2: [+tắc; +ngạc mềm]
→
ø [+hữu thanh]
a3: [+quặt lưỡi; +tắc]
→
ø [+hữu
thanh]
Nói cách khác, luật a chính là luật trục dọc hoặc luật hệ h́nh để
thể hiện khả năng hay tiềm năng của hệ thống âm vị học. Chúng góp phần
giải thích tại sao và ở chỗ nào một hệ thống âm vị học lại trở nên không
cân đối.
b. Sự tương hợp của
các nét khi đứng cạnh nhau trong một cấu trúc âm thanh lớn hơn. Ví dụ
như trong một h́nh tiết hoặc một h́nh vị.
Luật b
chính là luật thể hiện trục ngang hay khả năng kết hợp của các âm vị đứng
cạnh nhau trong một cấu trúc âm thanh lớn hơn so với âm vị. Ví dụ:
Trong tiếng Việt có một nguyên tắc là: Các âm vị khi kết hợp phải xa nhau
về cấu âm, phải xa nhau về các nét liên quan đến bộ vị cấu âm.
Trong tiếng Việt, các nguyên âm cùng một vị trí của lưỡi th́ không thể kết
hợp với nhau. Ta không có:
*[εi],
*[ei], *[ou]…
Để phản ánh nguyên tắc kết hợp này, chúng ta có
luật b1:
V + C2
→
R |
|
điều kiện: V, C2 không chứa cùng nét bộ vị; |
ta cũng không có:
*[boam], *[muy],
*[phoàm]…
Và tương ứng với trường hợp này là luật b2:
C1 + R
→
S
R = V + C2 |
|
điều kiện: {C1 ≠ V (R)} ≠ [+tṛn môi] |
Nói tóm lại, khác với âm
vị học cổ điển, âm vị học hiện đại ngoài việc cho biết danh sách âm vị học
và các nét khu biệt của một hệ thống, nó c̣n giải thích lí do xuất hiện
cũng như lí do một âm vị có một dạng cụ thể của một âm vị. Những điều này
giúp cho việc đối chiếu, so sánh âm vị học giữa các ngôn ngữ trở nen có cơ
sở đáng tin cậy hơn nhiều.
Tuy nhiên, để có được
những căn cứ xác thực cho một sự tương hợp giữa các nét âm vị học, người
ta phải cần nhiều đến các cứ liệu trong thực tế: trong từ vựng của một
ngôn ngữ, trong sự kết hợp và thể hiện của một âm vị có trong lời nói tự
nhiên hoặc trong các biến thể khác nhau của các phương ngữ. Chính v́ vậy
mà âm vị học hiện đại khác hẳn âm vị học truyền thống ở tính quan tâm đến
nhiều mặt khác nhau của một ngôn ngữ tự nhiên. Nhà âm vị học hiện đại,
ngoài tri thức chắc chắn về âm vị học, c̣n cần đến những tri thức sâu sắc
trong thi pháp học, phương ngữ học, ngữ nghĩa học và ngữ pháp học. Nói
cách khác, âm vị học hiện đại chính là một ngôn ngữ học thu nhỏ.
|