|
Cuộc Di Cư Của
Chữ Nghĩa
Vietsciences- Nguyễn Văn Lục
04/10/2005
Năm 1954, người ta nói đến cuộc di cư người, thật ra c̣n có cuộc di
cư chữ nghĩa nữa. Người đi, chữ cũng đi theo. Chữ nghĩa miền Bắc
cũng lềnh kềnh, lếch thếch nối đuôi nhau lên tầu há mồm. Chuyến đi
gian nan của nguời di cư thế nào th́ chữ nghĩa cũng vậy. Chữ ở lại,
chữ ra đi, chữ nào c̣n, chữ nào mất. Chẳng ai c̣n tâm trí đâu để lưu
tâm tới điều đó. Chữ được di cư vào miền Nam, chở đi rồi, bao nhiêu
chữ đă rơi rụng, vung văi dọc đường. Bao nhiêu chữ đă sống c̣n sau
khi đă hội nhập với chữ bản địa.
Phải đợi đến sau ngày 30 tháng tư 1975, người ta mới có thể biết
được sự c̣n mất này một phần nhờ so sánh chữ nghĩa giữa hai miền.
H́nh như cũng ít ai để ư đến cái mất, cái c̣n của chữ nghĩa, v́ có
quá nhiều cái mất cái được được lớn hơn. Cái mất lớn hơn đó để người
khác lo, người viết lạm bàn về số phận chữ nghĩa người di cư sau
1954 và nếu có dịp về chữ nghĩa của người di tản.
Phần 1.- Chữ ṃn theo thời gian.
Cho dù không có cuộc di cư, chữ nghĩa cũng cách này cách khác bị xói
ṃn. Sự mất c̣n này trước hết là do sự xói ṃn của thời gian . Chữ
nghĩa như một vật dùng một lần th́ c̣n ngon, nhưng dùng nhiều lần
th́ ṃn hay cùn đi. Như cái kéo cắt măi cũng phải cùn. Dao băm măi
cũng lụt đi. Khen đi khen lại đâm nhàm tai. Yêu nhau lắm, cắn nhau
đau, hay ít ra cũng chán. Đùa dai hoài đâm
nhạt như nước ốc. H́nh như chữ nghĩa dị ứng với cái lập đi lập lại.
Tất cả những ngữ nghĩa trên chỉ ra một điều: Thời gian và sự đi lập
lại có thể làm xói ṃn, hoen rỉ chữ nghĩa. Tâm lư con người lại ưa
chuộng cái mới, cái lạ. Như trong t́nh yêu, dùng chữ đó với nhau lần
đầu, trọng lượng của chữ nặng lắm, thấm thía lắm, cảm động lắm. Dùng
lần thứ hai thấy nhẹ đi rồi. Phải tăng cường độ nghĩa bằng những chữ
lắm, nhất, số một. Có khi cả bằng tay chân vẫn chưa đủ. Tăng lời thề..
H́nh như vẫn hụt. Trong văn chương, ta cũng gặp cảnh ngộ tương tự. Nhất là trong lănh
vực thơ . Thơ là khơi nguồn cho sáng tạo chữ mới, văn ảnh mới,
biểu tượng mới. C̣n nhớ, hồi thơ Nguyên Sa xuất hiện đúng lúc khi mà
cuộc di cư đă hoàn tất. Chữ nghĩa thơ của ông c̣n nóng hổi, thơm
phức như bánh ḿ mới ra ḷ. Nhiều cô cậu, ghi ghi chép chép để dùng
lại :
Áo nàng vàng, tôi về yêu hoa cúc. Áo nàng xanh, tôi mến lá sân
trường.
Chữ nghĩa đó được truyền tay, đến người cuối cùng có thể chỉ là
chiếc bánh ḿ nguội. Cứng như đá. Thật ra, thơ đó có một vài văn ảnh
mới. Mới với người đọc thôi. Nguyên Sa đă gợi nguồn cảm hứng từ
người t́nh là cô Nga ( sau này là bà Trần Bích Lan) . Có thể lúc mà
thơ đó mới ra ḷ, đối với ông, thơ văn đó chả có ấn tượng ǵ nữa.
Nhưng mới người cũ ta. Có lẽ v́ vậy mà nhà thơ suốt đời mang cái
nghiệp phải sáng tạo cái mới. Sáng tạo không ngừng. Số mệnh chữ nghĩa mỏng manh như số phận con người. Thời gian như
thước đo chiều dài ngắn của chữ nghĩa, đồng thời cành báo về cái hữu
hạn của nó. Sự sợ hăi của Nguyễn Du phải chăng cũng từ đấy mà ra. Chữ có thế vắn số nên có nhiều chữ đă trở thành chữ cổ ít ai nhắc
tới. C̣n nhớ, hồi mới di cư
vô Nam, người Bắc
sửng sốt nhất, nghe lạ tai nhất là chữ
Mă Tà. Mă tà thời tây
là gọi là Hiến Binh, sau này trong Nam gọi là Cảnh sát, ngoài Bắc
gọi là Công An. Không biết v́ lư do ǵ, chữ Mă tà sau khoảng hai năm
ǵ đó, không c̣n nghe ai nói nữa. Cũng vậy, theo sách vở
(1), chữ manh nghĩa là nhỏ mọn. Người đời chỉ c̣n nhớ
váng vất khi nó đi với chữ khác như mong manh, tan manh, chiếu manh,
manh áo, manh mún. Một chữ khác như chữ Khem, nghĩa là kiêng
cữ. Nếu nó không cặp bạn với chữ Kiêng th́ người ta không c̣n nhận
ra nó như Kiêng khem ra nắng, ra gió. Chữ khác như chữ
Lụn,
nghĩa là hết, người ta cũng chỉ dùng trong một số trường hợp hiếm
hoi : Tim lụn có nghĩa tim đèn cháy hết, lụn năm, lụn ngày, mềm lụn,
lụn xuống, lụn mạt. Mấy ai c̣n nhớ, c̣n biết, c̣n
sử
dụng những chữ cổ trên. Nhưng có chết đi mới có sống lại, cái chết
đi ung mầm ra cái mới. Nhờ vậy mà chữ nghĩa thay đổi và tiến bộ, mỗi
ngày một đa dạng, một phong phú và chuẩn xác hơn. Thời gian đă là
một nhẽ, cộng thêm dụng ư của người sử dụng chữ làm chữ nghĩa sống
dở, chết dở. Từ nay, chữ có thêm nghĩa. Chữ và nghĩa. Chữ dùng giống
nhau, nhưng nghĩa th́ mỗi người hiểu một nghĩa. Rầy rà từ đấy mà ra. Huyền thọai về việc xây tháp cổ Babel phải chăng là một bằng cớ báo
trước về sự sa đà của ngôn ngữ, chữ nghĩa và đến cả số phận của nó
nữa.(2)
-----------------------------------------------------------------------------
Trong từ điển Từ Việt cổ, nhà xuất bản
Văn
hóa thông tin, Hà nội 2001 các tác gia Nguyễn
ngọc San, Đinh văn Thiện cũng đă thu tập được gần một ngàn chữ cổ
như các chữ vừa nêu trên.. Theo Thánh kinh, các con của ông
Nô-ê (Noé,
Noah) muốn xây một cái tháp ở Babel (Thành Babylone ) để tới
được trời cao.. Chúa thấy sự cao ngạo đó nên muốn dẹp tan ư định
ngông cuồng đó bằng cách tạo ra sự lẫn lộn và phức hợp của các ngôn
ngữ. Quả nhiên ư định xây tháp không thành, v́ mỗi người nói và hiểu
khác nhau.
----------------------------------------------------------------------------
Số phận chữ nghĩa, cái sống, cái chết của nó là sống ṃn, chết ṃn,
chết từ từ. Mỗi ngày của nó là một bước ngắn lại. Cả làng, cả nước
đang dùng, vậy mà không đâu biến đi đằng nào.. Từ ṃn đến là hay, nó
gợi lên văn ảnh của một đồ vật mới đầu bóng loáng , sáng choang, mầu
sắc rực rỡ, hấp dẫn người ta. Ai ai cũng mê, cũng nói, cũng dùng.
Chữ trở thành thời thượng. Càng được dùng, càng nhiều người nhắc đi
nhắc lại, càng phổ biến th́ cái nguy cơ mất lúc nào không hay. Chữ
vẫn đó, mà nghĩa đă mất dần . Cái xe chở chữ, lúc chở chữ này, lúc
khác chở chữ khác, hoặc dán nhăn hiệu khác. Nó đă chở như thế bao
nhiêu chuyến, đă thay h́nh đổi dạng bao nhiêu lần.
Nói như thế th́ chữ ṃn hay nghĩa ṃn. Cái nào ṃn trước, cái nào
ṃn sau. Chữ là cái chuyên chở nghĩa và một chữ có thể có nhiều
nghĩa, tùy theo vị trí của nó trong câu nên nghĩa dễ bị ṃn hơn chữ.
Chẳng hạn , chữ cái và con. Chữ chỉ có hai, nhưng nghĩa th́ nhiều
lắm nên nghĩa lúc thế này, lúc thế khác. Cũng là con , nhưng con dao,
con với cái, nhỏ con, con dại cái mang, con đĩ, cỏn con. Nhưng cũng
không thiếu trường hợp cả hai đều mệnh yểu. Chữ càng ṃn nhanh nếu nó chuyên chở nhiều nội dung, ư hướng của
người dùng.Tất cả tuỳ thuộc vào ư hướng người sử dụng.. Nhưng làm
sao nắm bắt được ư hướng đó. Dĩ nhiên khó lắm. Vấn đề nay đă lây lan
sang một chủ đề triết lư là : sự ngộ nhận, sự thông cảm hay sự bất
lực trong việc t́m hiểu tha nhân mà các triết gia hiện sinh thường
đề cập tới. V́ có dụng ư chữ nghĩa đôi lúc trở thành gian dối, lừa
phỉnh và trong chính trị trở thành tuyên truyền. Một thứ bạo lực
ngôn ngữ, một thứ vũ khí như con dao, khẩu súng. Chẳng hạn chữ Việt
gian thời Việt Minh, hay chữ tay sai Cộng Sản thời bây giờ. Với cái nh́n nhân bản th́ chữ nghĩa có một cuộc sống , có ḍng sinh
mệnh, có thể mất, có thể c̣n, trôi nổi như đời sống một người. Nhiều
chữ nay đă chết, nằm chôn vùi trong nghĩa địa của các Bảo tàng hay
sách cổ. Nói ra cũng ngậm ngùi. Xin trích dẫn một số chữ nghĩa làm bằng chứng về sự mất c̣n này.
Trong lời mở đầu báo Nam Kỳ địa phận, số đầu tiên, năm 1907 có những
câu như sau : " Bổn báo kỉnh cáo, ṭa báo đă ước ao cho con nhà Annam, đua nhau
tấn tài, tấn đức, thông phần đạo, ngoan việc đời… Tờ báo có ư khai
đàng văn minh cho nhân dân đặng tấn phát cho mọi bề, việc đạo việc
đời đều thông thuộc."
Xin trích dẫn một đọan khác :
"Lời rao cần kíp. Bổn báo gửi cho mỗi người hai số nhựt tŕnh đầu
hết mà xem thử, như ai bằng ḷng mua th́ đem ba đồng bạc đến mượn
cha Sở mua dùm.."
Trong một trả lời bạn đọc, chúng ta nghe thử lời rao sau đây :
" Bổn báo có nhận được một mandat của một ông nào đó không đề
tên, không đề địa chỉ, nhưng yêu cầu gửi báo "
Tức cười thật. Nhưng 25 năm sau, trong tờ L'Impartial
viết vào ngày 20-11-1929, ta thấy lối viết đă nhẹ nhàng thông thoát
hơn :
" Sự giải phóng người Annam về phương diện thương mại và kỹ thuật
chỉ là một huyền thoại."
Bạn đọc thấy có nhiều chữ được sử dụng cách nay một thế kỷ đă không
c̣n được dùng nữa như bổn báo kỉnh cáo, nhựt tŕnh, con nhà Annam,
tấn tài tấn đức, khia đằng văn minh. Nhưng có nhiều chữ vẫn được
dùng cho đến ngày nay như Chữ Cha Sở và nhất là những chữ khá chuyên
môn cách nay 70 năm như giải phóng, phương diện thương mại và kỹ
thuật, huyền thoại vẫn c̣n được dùng. Nhất là chữ Huyền thoại
mà người viết có cảm tưởng là nó chỉ được dùng sau này trong Triết
học Tây Phương mà thôi. Hóa ra nó đă có một nguồn gốc lâu đời đến
thế.
Trong những chữ bị ṃn, mất đi..ở trên. Vấn đề là t́m hiểu xem, tại
sao chúng không c̣n được dùng nữa. Sự mất c̣n của một chữ trước hết
là thói quen, rồi sự xói ṃn, sự được dùng ít hay dùng nhiều, tính
địa phương, sự sáng tạo của các nhà văn, nhà báo, dụng ư chính trị
và cuối cùng là các cuộc di dân. Và đặc biệt nhất là cuộc di cư năm
1954 cũng là mục tiêu của bài viết này.
Phần 2. Cuộc di cư của chữ nghĩa.
Cuộc di cư năm 1954 không phải chỉ là vấn đề chính trị của một tập
thể người chọn lựa một thể chế chính trị. Điều đó đúng nhưng không
đủ. Một triệu người di cư chuyên chở theo cả một nếp sống văn hóa,
phong tục, tôn giáo, cách làm ăn, cách suy nghĩ sinh sống, tính nết
và cuối cùng cách ăn cách nói. Chữ nghĩa đă làm một cuộc di cư không
tiền khoáng hậu trong lịch sử của người Việt từ Bắc vào Nam. Khi lần đầu tiên tiếp xúc lại với chữ nghĩa miền Bắc sau 20 năm xa
cách. Người viết có cái cảm giác sung sướng đến ngạc nhiên, đến bỡ
ngỡ v́ nhớ lại những chữ nghĩa tưởng chừng đă quên nay nhớ lại. Sau
bao năm xa cách, h́nh như bắt lại được ḿnh, nối lại được dĩ văng
thân thuộc, gần gũi. Chẳng hạn, lúc đọc nhà văn miền Bắc Vũ thư Hiên
trong cuốn Miền Thơ ấu và nhất là cuốn
Chuyện ở tỉnh lỵ, hay
Tô Hoài trong O chuột (1942), Nhà nghèo (1944) và nhất
là Cát bụi chân ai (1992), Nguyên Hồng, trong Cửa Biển,
Nguyễn Tuân Người Lái đ̣ trên sông Đà,
Nam Cao với Chí Phèo, Đôi mắt. Nguyễn Khải với
Mùa lạc.
Lê Lựu với Một thời xa vắng. Và gần đây thôi Nguyễn khắc
Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma. Họ, những nhà văn, đă
làm sống lại từ trong mồ nhiều chữ mà người viết đă nghe, hoặc chính
ḿnh đă dùng và nay đă quên, đă không dùng nữa. Người viết cảm động
như một khám phá, như một sưởi ấm lại kư văng đă quên. Chẳng hạn
thay v́ nói, ông ấy bệnh nặng, sắp chết, hay ông ấy đang hấp hối, đă
cấm khẩu, tay bắt chuồn chuồn. Nhưng hạ một câu :
Ông
ấy sinh th́ rồi th́ đă quá. Và cứ như thế dàn trải ra khắp các cuốn
sách quê hương cũ t́m về, dấu chân kỷ niệm và niềm thơ ấu sống lại. Chữ nghĩa như có hồn được vực dậy, thổi thêm sinh khí. Phần lớn
những thứ chữ này có vào thời tiền chiến và gần như bị * đoạn tuyệt
* vơi TLVĐ. TLVĐ chẳng những đoạn tuyệt với phong tục, nếp sống cũ
mà cả với chữ nghĩa cũ nữa. Như vậy, song song với nhóm TLVĐ, vẫn
c̣n sót lại một ḍng văn học ngược chiều với nhóm Văn Hoá Ngày nay
và cứ thế nó kéo dài đến bây giờ. Và một lần nữa, nó lại phải đương
đầu với những nhà văn trẻ, thế hệ sau 1975, thế hệ sau cởi trói hay
sau nữa Hậu Hiện đại. Cũng một cách thức tương tự, người ta t́m thấy ở miền Nam với Nhóm
Sáng Tạo đổi mới nội dung, giải phóng chữ nghĩa bằng cách sử dụng
những từ có vóc dáng triết lư thời thượng. Bên cạnh đó có một ḍng
chảy văn học chữ nghĩa như khe suối nguồn, lau lách, rỉ giỏ giữ lại
cội nguồn, giữ lại bản sắc của ḿnh với Sơn Nam, B́nh nguyên Lộc và
đặc biệt nhất là nhà văn Lê Xuyên. Đây là một
hiện tượng văn học có vóc dáng và đáng nể. Nhưng chuyện phải đến đă đến. Càng đọc các nhà văn miền Bắc, càng
thấy chữ nghĩa mất nhiều lắm. Đếm không hết, nói mấy cũng không đủ.
Luật của đa số
Ở bầu th́ tṛn, ở ống th́ dài. Coi vậy mà đúng lắm. Người mới đến
phải vào khuôn, phải thích ứng, phải hội nhập. Sức ép của đa số buộc
người mới tới vứt lại hành lư mang theo. Ngôn ngữ, tiếng nói phải
vứt dầu tiên v́ nó khác người ta quá. Tiếng nói là cái phải điều
chỉnh đầu tiên. Phải vặn lại đinh ốc hàm dưới,
điều chỉnh lưỡi, điều chỉnh tần số âm thanh ở tai, nhất là một thảo
tŕnh mới cho bộ óc. Càng ít, càng thiểu số, càng vào nhanh, càng
giống khuôn đúc (4). . Cái mà c̣n giữ lại
cuối cùng là giọng nói.
Thoạt đầu là các chữ chửi của dân miền Bắc vốn là sắc thái văn hoá
bản địa. Đặc thù và cá biệt. Ai chửi hay và chửi có bài bản, có nghệ
thuật, có vần điệu, ví von, có tay nghề bằng miền Bắc. Chửi hay như
thế nên có kẻ làm nghề chửi thuê kiếm ăn. Chẳng hạn, trong chuyện
Chí Phèo của Nam Cao, Chí Phèo chửi để lấy tiền uống rượu đến tay
sừng sỏ trong làng như lăo Bá cũng chào thua. Có những chữ nghĩa
thuộc loại anh chị, chửi có tay nghề ở miền quê nghênh ngang lên tầu
há mồm, coi ai chẳng ra ǵ. Vậy mà vào đến miền Nam gặp anh Hai ở
cầu Ba Cẳng hay bến Tầu Sàig̣n, chị Ba Cầu Muối, Chị Năm chợ cá Trần
quốc Toản đành tắt tiếng. Các chị chữ nghĩa miền Bắc vẫn có thói
quen đứng dạng háng, tốc váy, hoặc vỗ đồ bồm bộp đứng xo ro một góc
khi nh́n thấy những thằng cha bự tổ trảng, cởi trần, cười th́ mồm
vàng choé những răng vàng. Không im tiếng sao được. . Tiếng chửi thề
của tay anh chị miền Nam không có lời đáp trả. Tiếng chửi tục (5)
biết thân, biết phận tan hàng.
Tất cả những tiếng chửi tục đủ loại đă có một thời khét tiếng tỉ như
Tiên sư bố, tiên sư cha, tổ sư cha. Không bao
giờ được nghe nữa. Chả bù với ở miền Bắc, nhớ lại các anh chị chữ
nghĩa này chửi ra rả cả ngày, cả đêm không ai dám đụng đến.
Trong suốt 20 năm sống ở miền Nam, sống chung đụng với dân miền Bắc,
người viết chưa nghe. Cùng lắm, nghe chửi
trên Tivi vào những dịp tết.(6)
------------------------------------------------------------
Người viết đă sống một thời gian ở các vùng Dầu Tiếng, nơi mà dân
Bắc vào làm phu cạo mủ. Nơi đây, không có một dấu tích dù là nhỏ cho
biết họ là gốc Bắc nữa. Tiếng nói, giọng nói, cách ăn mặc, tập tục
tan ḥa loăng vào cái bản chất miền nam. Cũng không có tháp chuông
nhà thờ, mái chùa, không có đ́nh đám, không hội hè. Giải trí duy
nhất của họ là lâu lâu một gánh hát vọng cổ ghé qua. Họ biến chất
hoàn toàn.
Chửi là một phong tục, hay thói quen của người miền Bắc. Chửi trở
thành một nghề như chửi thuê, khóc mướn. V́ thế chửi cần có tay
nghề, chửi có bài bản, lớp lang, bới móc chuyện xưa cũ, nguyền rủa
đến tam tứ đại. Đàn ông thường chỉ là văng
tục, c̣n đàn bà chửi tục như một nghề. Một trong những người viết về
phong tục người miền Bắc là ông Toan Ánh qua
nhiều tác phẩm như Phong tục Việt Nam, Nếp xưa, Bó hoa Bắc Việt vv
Rất tiếc, ông né tránh vấn đề chửi tục.
Giữa chửi thề trong Nam và chửi tục miền Bắc, theo tôi, có sự khác
biệt. Người Nam chửi thề vô tội vạ, chửi bất cứ lúc nào, nhất là
trong lúc nhậu nhẹt, lúc vui, chửi mà không nhằm đối tượng nào, nhất
là không có dụng ư bôi nhọ. Người Bắc chửi thường nhắm đích danh
người nào và thường trong lúc giận dữ, có dụng ư. V́ thế, tiếng chửi
miền Bắc coi ra nặng nề hơn tiếng chửi thề. Lại nữa, chửi tục ở miền
Bắc, sản phẩm của chế độ phong kiến
------------------------------------------------------------
Thứ đến các chữ liên quan đến bộ phận sinh dục, các hành vi liên
quan đến chuyện sinh lư, bài tiết, đến chuyện ăn nằm giữa hai vợ
chồng. Người Bắc có văn hoá cao, tránh cái thô tục không cần thiết
nên đă có trăm cách, trăm lối diễn tả xa xôi, bóng gió được coi là
tao nhă. Vào trong Nam dẹp hết tất tần tật. Cái nào ra cái nấy phân
minh, đơn giản và vắn gọn. Đi cầu là đi cầu. Không bầy đặt hoa ḥe,
hoa sói. Cái đơn giản, cái thực tiễn không hàm ngụ, không gợi ư đôi
khi lại thanh tao gấp mấy lần cái thanh tao thứ thiệt.
Tính chơn chớt , thật thà, có sao nói dậy đánh văng chữ nghĩa
miền Bắc.
Bên cạnh chửi tục, người Bắc c̣n có lối nói mát, nói mỉa, nói xéo,
chê bai cũng độc địa lắm. Chửi cha không bằng pha tiếng là v́ vậy.
Những lối nói này sử dụng trong những liên hệ, tương quan gần như
người quen thuộc, người làng, người hàng xóm, bạn bè. Nó có nhiều
cấp độ từ chê bai, khinh bỉ, trách móc, coi thường giận hờn, bực
bội.. Nó chứa chất chút ǵ độc ác, bơi móc từ tính nết chi li từng
cử chỉ, gia cảnh, cái nghèo, cái đói, cái bần tiện, rạch ṛi từng
cái dốt nát, cái ngu xuẩn, cái kém cỏi, cái độc ác của mỗi người.
- Tỉ dụ nói mỉa mai :
Cái mặt nó vác lên, trông nó đú đởn, ăn cơm hớt ấy, cho chó ăn.
Thường sự mỉa mai nhắm vào sự nghèo khổ, sự ăn uống, vào tính nết,
về phái tính và sự đe dọa.
- Về nghèo khổ :
Dân miền Bắc túng quẫn nên lấy cái ăn, cái uống làm đầu. Lúc giận
rủa nhau cũng mang cái ăn uống ra mà nhiếc móc nhau kể cũng không
lấy làm lạ. Tỉ dụ diếc móc người ta như : nghèo rớt mồng tơi, nghèo
lơ đít, thí cho nó tư tiền, cứ gọi là đói vàng mặt, đói
ră họng. Nghe những chữ diếc móc trên đôi khi
đau ḷng c̣n quá chửi. V́ thế, người đời mới sợ tiếng diếc móc đến
cầm bát cơm lên ăn không nổi..V́ thế có tâm trạng khác nhau : Khi
nghe chửi, ta thấy tức giận, khi bị diếc móc, ta cảm thấy nhục. Từ
tâm trạng đó kéo ra hai lối phản ứng. Khi bị chửi, ta chửi lại hoặc
muốn đánh trả lại, ăn miếng trả miếng trong tương quan b́nh đẳng và
rất có thể tương quan bất b́nh đẳng, kẻ yếu chửi kẻ mạnh. Nhưng khi
bị diếc móc, bị sỉ nhục th́ tương quan lệch,
kẻ trên-kẻ dưới, nên nạn nhân hầu như
------------------------------------------------------------
của một xă hội bất công, bị chà đạp, không có công lư. Không dễ
dầu ǵ kiện tụng. Chửi là một bù trừ cho pháp luật, trả lại lẽ công
bằng cho kẻ thua, kẻ mất, kẻ thiệt tḥi. Dĩ nhiên, không thiếu
trường hợp cha chửi con. Nhưng cứ lư ra, lư giải trên vẫn có cơ sở.
------------------------------------------------------------
không có đ̣n để đỡ, v́ yếu thế không dám đáp trả, cam chịu ẩn nhẫn
và cùng lắm nuôi hận trả thù. Cho nên, về mặt tâm lư, bị diếc móc
vẫn đau hơn bị chửi. Thông thường những người có văn hoá, những
người có địa vị, ở trên người khác có giáo dục thường ít chửi mà nói
diếc, nói móc, nhẹ hơn là nói bóng , nói gió..(7)
Về tính nết :
Phải quen biết, phải qua lại mới biết nhau, biết từ chân tơ kẽ tóc,
đến lúc giận hờn th́ mang tính xấu người khác ra rủa. Chẳng hạn rủa
: mắt ông viền cải tây rồi, đồ thông manh, trông vậy mà đáo để ra
phết, đồ ông mănh, cứ giăy .. lên như đĩa phải vôi, nhanh nhẩu
đoảng, lanh cha lanh chanh. Tất cả những lối nói trên đều dựa vào
một sự vật, vào một biểu tượng cụ thể có thật để gợi lên một ư tưởng
xấu. Biến cái cụ thể thành một ư niệm trừu tượng(8)
Cả một nếp sống văn hóa, truyền thừa, kinh qua kinh nghiệm mới nhận
ra cái tế vi, cái dị biệt mà biên giới nghĩa chỉ cần xảy chân một
cái là dùng sai, hiểu sai. Xử lư đúng chỗ, đúng trường hợp hẳn không
phải là dễ. Đồ thông manh th́ nặng hơn mắt ông viền cải tây. Đồ cám
hấp th́ nặng hơn đồ dở hơi. Đồ láu cá láu tôm th́ nặng hơn đồ ông
mănh. Nói không đâu vào đâu th́ khác nói chua như giấm.
Cân nhắc vụ việc, đánh giá từng trường hợp, xử lư người – việc – rồi
dùng từ.. thích đáng.
------------------------------------------------------------
(7) Tùy theo trường hợp, c̣n những chữ diếc móc tuỳ thuộc cấp độ
nặng nhẹ tùy thuộc rất nhiều vào t́nh huống, vào giọng nói, và nhất
là vào người nói. Có những điều rơi vào miệng người này nó nặng trở
thành chết người, nặng như búa bổ. Nhưng ở người khác th́ lại chấp
nhận được. Chắc là nhiều người đă có kinh nghiệm mấy bà mệnh phụ gốc
Bắc, chỉ cần bà khen chê, kéo lê cái giọng thưỡn thẹo mà người viết
ở đây đành chịu không cách chi mô tả cho đúng được. Cứ thử rồi biết.
Chẳng hạn : ăn phải đũa nhà người ta, đồ ăn bám, thứ đó được mấy nả,
theo voi ăn bă mía, có khối nó chịu nhả cho đấy, đồ đi ḅn của, đồ
tha phương cầu thực. Cho ăn uống ở nhờ đến lúc canh không lành cơm
không ngọt th́ rủa : ăn ṃn đũa ṃn bát nhà người ta, ăn chậm như
sên, bà ấy nói như móc họng đến gần phải mửa cơm ra mà trả lại, thôi
th́ cũng phải vắt mũi đút miệng, được bữa hôm lo bữa mai. Tất cả
những lối diếc móc, nói bóng nói gió chẳng hiểu bằng cách nào chúng
biến mất. Người viết cũng không hiểu tại sao nữa.
(8) . Con đĩa giẫy trở thành ư niệm cứ quưnh cả lên. Và cứ như thế
có những chữ khác cũng theo quy tŕnh đồ vật – ư niệm như : đồ nỡm,
thằng nỡm, đồ giở quẻ, nó cứ trêu ngươi, dấu
như mèo dấu cứt, cứ ngồi chầu hẩu ra đó, tưởng kín bưng kỳ t́nh ai
cũng biết, nói chua như giấm, chua ḷm ḷm,
nói không đâu vào đâu, không có đầu cua tai nheo ǵ, thằng đó ba
lăng nhăng, chẳng đâu vào mới đâu, làm ǵ cũng lau cha lau chau, đồ
láu cá láu tôm, cứ lững tha lững thững, đứa nhăi ranh, vênh vênh váo
váo.
Chữ theo voi ăn bă mía gợi lên một văn ảnh rơ rệt : theo đuôi chỉ
ăn đồ thừa, đuôi thẹo. Các chữ như : chỉ đâm ba chầy củ, đồ láu cá
láu tôm, vênh vênh ngậu xị lên, đồ cám hấp, ngu như lợn, đồ miệng
năm miệng mười, đồ dở hơi, quá thể lắm, đồ phải gió ở đâu, chuyên
môn nói kháy, nói leo, cái giống nhà mày, thứ đó được mấy nả, trốn
như trạch, đồ thông manh, đồ ông mănh, đồ đi ḅn của. Mỗi chữ đều
gợi lên một văn ảnh và không chữ nào giống nghĩa chữ nào .
------------------------------------------------------------
Tất cả đ̣i hỏi sự khôn ngoan, tính toán và trải
đời. Đó là thứ văn hoá chửi mà không ăn ṃn bát ṃn đĩa ở miền Bắc
không hiểu thấu đáo được. Vào đến miền Nam sau này, người dân miền
Nam với nếp sống giản dị đă trấn áp người miền Bắc, quy kết là khôn
ranh. Bỏ đi Tám. Đù má, nói ǵ th́ nói mẹ nó đi cho rồi, ṿng vo tam
quốc hoài, mệt quá. Vậy là phải dẹp cái thói xỏ xiên, văn hoa chữ
nghĩa. Người miền Bắc di cư chỉ có mỗi một con đường trong lối sống
và cư xử mới là dẹp bỏ tất cả những từ chửi bới, diếc móc ở trên. V́
thế, mấy ai c̣n nhớ đến những lối diếc móc trên.
- Về phái tính :
Người phụ nữ miền Bắc vốn là nạn nhân của nhiều thứ, của đủ thứ đến
cái ǵ xấu đích thị là của phụ nữ. Đến cái ǵ khen th́ thật sự cái
đó có lợi cho đàn ông. Khen tứ đức tam ṭng là lời khen chết người,
buộc chặt, trói chân người phụ nữ thành tên nô lệ không công. Khen
tiết hạnh khả phong là lời khen trớ chêu nửa khóc, nửa cười. Khen
trinh tiết làm đầu là một lối khen họan, khen thiến không hơn không
kém, chẳng khác ǵ hoạn quan. Nói tách bạch ra, con C… là chúa, là
vua.
Nhưng những lời nguyền rủa quả không thiếu mà có thừa. (9)
------------------------------------------------------------
(9) Những lời nguyền rủa cũng lấy nữ giới làm đối tượng, mà đặc biệt
do chính đàn bà rủa đàn bà. Quan niệm trọng Nam, khinh nữ của thời
phong kiến tồn tích lại đẩy xô thân phận phụ nữ thành một phụ phẩm
thấp kém, hèn hạ dựa trên những thói đời bất công, dựa trên nền đức
lư hủ lậu giả h́nh, man trá đẩy họ xuống đất bùn. Chẳng hạn có những
câu diếc móc nhẹ nặng đủ thứ, đủ kiểu xuất phát từ tâm địa độc ác,
hận oán : người đâu có thứ người..sáng bảnh mắt c̣n nằm trương xác
ra. Đàn ông nằm đến bảnh mắt th́ không sao cả.
Dậy muộn cũng là một tội lỗi. Hoặc nặng hơn
nữa : đồ thối thây, nó bơi tro trát trấu vào
mặt, con gái con đứa, cô ấy cong cớn, những cô này mới nứt mắt nảy
ṇi mà sao giống những mụ nạ ḍng già đời, da dẻ nó hon hỏn thế này.
Tất cả đều nhắm vào phái tính hay đĩ tính : ơn à ơn ẹo, đanh đá lắm
cơ, một cô gái giăng hoa, một lũ lĩ con gái,
chửa buộm ( chửa với người khác không phải
với chồng), chó dữ mất láng giềng, dâu dữ mất họ, mẹ cái hĩm, con bé
t́nh ra phết, mà phải biết là đỏng đảnh.
Chưa chồng có cái khổ riêng lại thêm cái khổ của miệng lưỡi thế
gian : Già kén kẹn hom . Ăn mặc lơ đễnh một
chút cũng khổ : cái yếm xẹo xọ để trật ra cái
sườn nây nẩy, cái người đàn bà dại dột đă nằm ềnh ệch ra đấy, nói
dại nếu mày chửa th́ ăn nói làm sao, cái yếm cổ xây thật trắng, cái
quần lụa buông chùng xuống tận gót, ăn bận sang đến cô đầu cũng
không ăn đứt, nó nhân t́nh đến trăm thằng, bọn lư dịch chẳng anh nào
không thậm thọt ra vào nhà nó, nó mặc áo cánh xát xí, nào yếm vải
phin, nó tơ tuốt ghê lắm (diện). Diện cũng chết mà không diện cũng
chết : chết nỗi không tơ tuốt, chồng nó chê, con đó phải ḷng thằng
khác, nó chỉ nhong nhóng suốt ngày, cơm bưng nước rót đến tận mồm,
nó lẳng lơ và nhẹ dạ, hai con rồi mà vẫn c̣n trẻ mau máu, trai làng
hay chớt nhả và bẻm mép, cô gái mỏng mày ngày xưa bây giờ là đàn bà
sồ sề, cô ấy chúa đời là khỏe.Thiệt là khổ.
Khổ đầu, khổ đuôi, khổ trên , khổ dưới, càng dưới càng khổ.
Phần II
Tôi muốn đứng ra, nghểnh cao cổ, ḥ hét bênh đàn bà cũng không được. V́
t́m đến nửa ngày cũng không kiếm đâu ra chữ để chửi bọn đàn ông. Thử xem
nào : đồ đàn ông đĩ ngựa. Nghe không ổn . Đồ lẳng lơ. Cũng
không nghe ra tai. Cuối cùng t́m ra được vài chữ đáng đời : Đồ súc
sinh và một chữ dấm da dấm dớ : Đồ cha căng chú kiết. Thật
đến là tức, tự nhiên xổ ra được một lô chữ cho hạ hoả : đồ du côn du
kề, đồ ăn mày ăn xin, đồ ǵ nữa nào.. đồ lính tráng. Cái may của phụ
nữ miền Bắc là vào đến trong Nam, họ đă không bao giờ c̣n bị ai diếc móc
như thế nữa.
Than văn hay dọa nạt :
Đă nói th́ phải nói hết. Bên cạnh đó, ở mức độ
chừng mực vừa phải dễ dung nhận được là các lối nói than văn, hăm đe.
Trong lối nói này, người ta tỏ ra một oai quyền, một sự khôn ngoan
già dặn, một sự từng trải, sự hiểu đời, cái hơn
người. Chẳng hạn : Các người đừng có vội tí ta tí toét, cứ ỉm đi, cứ
im thin thít, thời buổi nhiễu nhương, trắng đen lẫn lộn, hơi đâu mà, có
dỗi hơi, kêu giời kêu đất, tôi vội vàng mát mẻ nói, đừng có bắt bí nhau,
liệu cái thần hồn, bà truyền đời cho mà biết, cứ tẩn cho nó một trận đến
ḷi tù và ra, vả vào miệng cho tôi, cái giống nhà mày, không có tao th́
cả họ mày ăn bùn, nó bôi tro trát
trấu vào mặt, mấy đứa kia th́ đáng vật một nhát
cho chết, nó lo xanh mắt và thức suốt đêm, hừ ngỡ là ǵ, hóa ra hắn nằm
vạ, (10) giận cá chém thớt, bà truyền đời báo danh cho mày biết, tôi
biết tỏng ṭng tong trong bụng ông nghĩ ǵ, chớ nói gở nó vận vào ḿnh,
e xúi quẩy đấy.
Người miền Nam nghe những câu trên là sùng rồi :
rắc rối tổ mẹ, cái ǵ mà ví von qua không hiểu. Qua nói thiệt, qua có
sao nói dzậy. C̣n mấy cha nội, nói dzậy mà không phải dzậy. Có ngon ra
đây, kiểu ǵ qua cũng chơi ráo trọi. Kiểu ǵ nó cũng chơi th́ né đi cho
được việc, giở sách thánh hiền ra đă có câu thánh
dậy : tránh voi chẳng xấu mặt nào.
Phong kiến qua lối xưng hô bị dẹp bỏ.
Có lẽ không ở đâu, không ở nước nào cách xưng hô lại phức tạp lầy nhầy
như miền Bắc. Mới đây, trong một chương tŕnh Vidéo, người viết thấy một
cô ca sĩ trẻ được người điều khiển chương tŕnh phỏng vấn.. Lúc phải trả
lời, cô lúng ba, lúng búng, v́ không biết phải xưng bằng anh, chú, bác
hay nhà văn với người điều khiển chương tŕnh. Bác có vẻ già quá, anh
th́ có vẻ hơi sỗ sàng. Ông
th́ xa lạ. Cậu tớ th́ xấc quá. Trong cái cách học ăn, học nói của người
Bắc th́ bài học vỡ ḷng là học cách xưng hô. Trẻ con nào mà không được
bố mẹ dạy phải xưng hô tùy theo tuổi đă đành, theo quan hệ họ hàng, theo
chức vụ và theo xă giao nữa.
------------------------------------------------------------
(10) Tục nằm vạ là một tục lệ đặc biệt của miền Bắc. Bùi Hiển đă viết
một cuốn chuyện về vấn đề Nằm vạ này. Chí Phèo của Nam Cao cũng đă ăn vạ
để bắt bí nhà giầu.
------------------------------------------------------------
Những tiếng thầy bu, thầy u, thầy đẻ, thầy me, cậu mợ, đằng ấy, cậu
tớ, người nhớn, con nọ, con kia, huynh, đệ, quan bác, thằng cu, con đĩ,
mẹ đĩ nhà tôi, nhà con, ông mănh, thằng trời đánh thánh vật, thằng chết
băm chết bằm tùy trường hợp mà dùng. Nhưng bắt chước người Tầu, ta
c̣n có chữ Gia phụ, Gia Mẫu, Gia Huynh, chỉ bực bề trên hay xá
đệ, xá muội chỉ bực dưới. Bấy nhiêu lối xưng hô vào đến miền đất mới
như lạc lơng , thi nhau bị "cáp duồn" hết. Không ai nói nữa. Do sức ép
hay do tự ḿnh cảm thấy lỗi thời, thấy dởm, thấy cầu kỳ, thấy rắc rối,
thấy "không giống ai" thấy cần phải bỏ. Có lẽ thấy cái không giống ai là
lư do của sự ra đi không trở lại của các cách xưng hô trên.
Các chữ dùng để gọi, xưng danh quan tước chức sắc cũng nhiều lắm. Cũng
phiền lắm. Nhiêu khê lắm. Không xưng đúng danh phận, có thể bị trách, bị
giận, bị trù ếm nữa(11). Nhiều không đếm xuể. Hầu hết, việc hài chức vụ
có dụng ư, tâng bốc nịnh nọt. Nó đă dần biến mất khi vào đến trong Nam.
Nó biểu tỏ một xă hội phong kiến, đẳng cấp, trên dưới không thích hợp ở
miền Nam. Người dân miền Nam cũng là di dân, có cái may mắn không thừa
hưởng di sản của một xă hội phong kiến, hủ lậu. Xă hội đó lo kiếm miếng
ăn, làm giầu, không nghĩ đến chữ nghĩa thánh hiền, cũng chẳng bận tâm
đến kẻ trên người dưới.. Xă hội vừa ổn định, chưa mọc ra những mầm mống
của thứ ổn định kiểu trên đè dưới, quan lại, thứ dân, giai cấp thống
trị. Làng xă mở toang, không hàng rào vây kín.. Xă hội cũng mở toang mọi
phía mà dân là chính, dân là chủ. Sự xưng hô v́ thế giản tiện và tuỳ
tiện, đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Ba má th́ là ba má. Khi cần gọi
chung là ông già bà già. Nội việc xưng hô cũng thấy miền Nam đuợc
cởi trói nhiều theo tinh thần tự do, dân chủ. Người Bắc từ xa tới, lẽ
nào không thấy cái hay đó. Lẽ nào không theo, tự ư theo. Để gọi một
người ở, người trong Nam chỉ gọi chung chung là người làm, vừa
giản dị, vừa không có khinh miệt, rẻ rúng. V́
thế, nếu c̣n ai gọi cụ đốc th́ thay v́ là một trân trọng, nó đă
biến thành tṛ cười, mai mỉa. Hóa cho nên, chữ nghĩa có cái thời của nó,
thời để sống và thời để chết.(12)
------------------------------------------------------------
(11) . Người Hànội có một thói quen khá kiêu sa
(Theo Vũ ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại) là thay v́ gọi tên một người,
họ lại hài chức vị người đó ra mà gọi. Gọi như thế vừa là cách vinh danh
người được gọi. Phần người gọi cảm thấy hănh tiến v́ có quan hệ quen
biết với người được gọi. Chẳng hạn : ấy quan đốc nhà tôi, hay
ngon hơn nữa : ấy anh Huyện X. Chữ nhà tôi, tự bầy tỏ cái
huyênh hoang , hănh tiến, thấy sang bắt quàng làm họ. Thật đáng ghét..
(12) Đă là đốc học, đốc tở mà c̣n kèm theo chữ cụ hoặc chữ quan nữa th́
rơ ràng là xu nịnh : quan đốc tờ, quan đốc học, cụ Nghị, cụ Hàn, cụ
cử, cụ kư, cụ Thượng, cụ Tú, thầy đội xếp, thầy cai, cụ lang ta, cụ bang
tá, thầy quản, anh Khóa, anh cung văn ( thư kư riêng của các gia đ́nh
giầu có), thầy đồ, sinh đồ hay cống sĩ, quan hiệu, quan châu, quan phủ
doăn, hiến ty, dề điệu, quan thừa sứ, ông Hiến binh, ông Trùm, ông Chánh
trương, ông hậu, ông Hàn, ông cửu, cụ Thượng, ông Lư, cụ Chánh.
------------------------------------------------------------
Cách làm ăn có khác, chữ nghĩa cũng đổi khác
Cũng là xứ nông nghiệp, nhưng cách làm ruộng, cách sinh sống cũng khác
miền Bắc nhiều lắm. Chữ nghĩa cũng v́ thế cũng đổi theo. Rất nhiều chữ,
từ miền Bắc , vào Nam không ai dùng nữa, v́ đời sống kinh tế, xă hội đă
thay đổi. Nghề hàng xáo ( xay giă gạo. Trong Nam không có nghề
này ), Ruộng chân nhất đẳng, nhị đẳng, ruộng mật điền (Ruộng tốt
nhất ) gian buồng, khóa dăy, rau muống lợn, đi đong gạo, dậm lại mái
nhà, ḥm gian ( Ḥm to để đựng đồ trong nhà ), nhà pha (nhà
tù), nhà giây thép, xe ḥm ( Xe hơi sang trọng ) ngày con
nước, đi lưới, cái niêu, nồi đất, chỉnh dầu, rổ rá, dao quay, dao nhựa,
một bồ, vuông thóc, giây lạt, dùi đục, cái cũi, đóng cũi, cái cưa xẻ,
cái gáo, cái chum, cái lọ độc b́nh, cái phên nứa, bát chiết yêu, đi bể (
biển), tậu 3 mẫu ruộng, vác thúng, đèn măng xông, cái lồng ấp,
cái hỏa ḷ than. Chữ sau đây cũng xưa lắm rồi, nhưng đến là hay :
nhà xí. Nay thi nguời ta văn minh hơn gọi là nhà vệ sinh, trong Nam
gọi là nhà cầu, siêu đun nước, cái áo quan, cái nhị tẩu ( tẩu hút
thuốc phiện), khay đèn, quạt lông, tràng biên (thân thế một
người), đèn ló, cái sập, cái phản, quần nái (quần dệt bằng một
thứ hàng tơ tầm sợi thô, nhuộm đen), cái b́nh phong, con tḥ ḷ, đỉa
phải vôi, giọng kẻ bể, cái trơng che, cót lúa, một bồ, vuông thóc, gạch
bát tràng, gạch lát bổ cau (Lát xiên và dựng nghiêng viên gạch )
gạch vồ, cái mả , rồi có cải mả, đề lao, cái lọ. Tỉ dụ :
xách hai cái lọ đi kín
nước. Chữ kín nước nghe thật hay, nhưng cũng ít được ai dùng
tới nữa. Cái màn (mùng).
Rồi từ đó thay v́ nói đi ngủ, người ta c̣n nói vào màn . Thợ
ngơa.
------------------------------------------------------------
Những chữ dùng để chỉ kẻ hầu người hạ đă tùy hoàn cảnh mà thay đổi.
Trong nhà đạo, khi dùng chữ Kẻ tôi tớ chỉ là lối nói khiêm tốn
của kẻ bậc dưới với kẻ bậc trên như cuối lá thư thường viết *kẻ tôi
tớ hèn mọn *. Chữ con nhài, nàng hầu tương đối lâu đời nhất được
dùng trong các nhà quan. Sang đến thời Pháp thuộc có chữ con sen, chị
vú, anh phu xe, rồi anh tài xế.. Những chữ để
chỉ việc gái chời bời như : đi nhà thổ (me dông de te ), nhà chứa, me
tây, làm đĩ..Trong Nam giản dị gọi chung là Gái điếm. Những
chữ chỉ nhà nó ( chỉ vợ hoặc chồng). Chữ người (chê bai).
Nguời khó tính lắm ạ đ̣i phải mua rau lấy Người
mới xơi được ( trích trong Chiểu Chiểu của Tô Hoài ). Quan anh (
ư nịnh bợ) có tắm không, mở bôn chục trai nước suối Viten đổ vào
thùng rồi pha nửa chai cô lôn để cụ giội lại, dọn cái buồng Thổ Nhĩ Kỳ
để chớp bóng đấy nhé (Trích Giông Tố của Vũ trọng Phụng ). Thêm một
chữ cô ả cũng mất tiêu không ai dùng nữa.
Một số chữ của nhà đạo cũng không được dùng nữa : Thầy cả, cụ, cố,
thầy kẻ giảng, ông bơ. Nam Cao đă viết riêng một chuyện nhan đề :
tư cách mơ. Nhà văn cho biết tại sao gọi là mơ, rồi lềnh,
rồi Săi. Chữ ông Trùm, ông Chánh Trương cũng không ai dùng nữa.
Một số chữ bên Phật giáo như ông Bụt, ông sư, ông văi, bà văi,
chú tiểu cũng ít ai dùng nữa. Có nhiều người muốn phục hoạt lại chữ
Bụt, ông Sư như chủ trương của thầy Nhất Hạnh.
------------------------------------------------------------
Người miền Bắc chân lấm tay bùn, làm ăn vất vả. Miền Nam, ruộng thẳng
cánh c̣ bay, làm chơi ăn thật. Đi mút mùa lệ thủy không thấy nhà
thấy cửa, nhất là không thấy tháp chuông nhà thờ, không thấy đ́nh, thấy
chùa. Cái nh́n về con người, về đời sống, về cách sinh hoạt làm ăn của
người Bắc đă đổi khác. Chẳng mấy chốc cái ngậm ngùi lúc ra đi nay quên
hết. Cứ ǵ chữ nghĩa bỏ quên, đất lề quê thói, phong tục, tập quán, đạo
nghĩa cứ thế mà rơi rụng dần dần. Thay v́ so đo, khép kín, bảo thủ, giữ
lời ăn tiếng nói, giữ phép nhà bắt đầu buông thả. Thay v́ chiếu trên ,
chiếu dưới, có phép có tắc.. nay ăn nói thả giàn,
chả kiêng nể ǵ nữa. Con gái, con đứa nay tụm năm
tụm ba đàn đúm, hát xướng, thích th́ ra rặng trâm bầu tán tỉnh, mọi
chuyện hạ hồi phân giải.
Thành tŕ cuối cùng :
văn minh miệt vườn đối đấu với văn hóa miền Bắc.
Người miền Nam,
chữ nghĩa chỉ vừa đủ dùng, nếu không nói là c̣n sơ sài lắm so với miền
Bắc. Nó là thứ văn minh miệt vườn không đủ để ba hoa trên trường văn
trận bút. Cái điều đó đă được nhà học giả Phạm Quỳnh nhận xét một cách
khá bất công trong cuốn Một Tháng ở Nam Kỳ :
"Chữ Quốc ngữ th́ đă thông dụng lắm rồi, đàn bà con trẻ thường biết
đọc, biết viết cả.. Nhưng đến văn Quốc Ngữ th́ xem ra cái tŕnh độ Quốc
Văn đại để hăy c̣n kém"
Nhận xét đó, có lẽ người trong Nam chả bao giờ quên và thành kiến đó
người Bắc cũng chả bao giờ thay đổi. Cho đến giờ phút này, cái văn minh
miệt vườn đó, cộng với 20 năm văn học miền Nam đến sau 75 vẫn chưa được
nh́n nhận.(13) Thành ngữ hay lối nói miền Bắc là vốn liếng ngôn ngữ của
một dân tộc. Nó tích lũy, thải loại kết tinh những đặc thù, những sắc
cạnh của ngôn ngữ, của vốn liếng hiểu biết truyền thừa. Nó không thừa,
không thiếu, nó vừa đủ. Nó được sử dụng trong đời sống hằng ngày như kim
chỉ Nam, nó đưa ra những tiêu chỉ đời sống, phán xét, nhận định phải
trái tốt xấu. Nó là thứ ngôn ngữ đă được đăi lọc, được truyền thừa của
sự khôn ngoan, thu gọn lại. Phải là người địa phương, nhuần nhuyễn sắc
thái văn hóa bản địa mới có thể sử dụng đúng cách, đúng trường hợp.
Người ngoại cuộc, nhất là người ngoại quốc, dù có ở lâu năm tại đất nước
đó,
------------------------------------------------------------
(13)Trong cuốn Chân dung và tác phẩm của Trần đăng Khoa, cuốn sách
phê b́nh Văn học . Không một chữ đả động đến các nhà văn miền Nam. Mới
đây nhất, qua giới thiệu của T.S Lê văn hảo, có bộ Tổng tập Văn học VN,
dày cả vài chục ngàn trang. Đă có phần dành 4000 trang cho VH Cách Mạng
rồi, chỗ đâu cho những mảnh VH khác.. Bao giờ cái mảng VH miền Nam mới
được nh́n nhận trong cái khung của một thời kỳ đi khai phá, có những nét
đặc thù, bất chấp những tiêu chuẩn khách quan của Văn học. Vấn đề là nó
có mặt, ở một thời kỳ nhất định, có những sắc thái cá biệt. Vậy đủ rồi
------------------------------------------------------------
chưa dễ giầu ǵ nắm bắt được t́nh ư, nội dung hàm ẩn của những thành ngữ
đó. Miền Bắc, cái nôi văn hóa lâu đời cả nước giầu dân tộc tính nhờ
những lối nói, lối viết đó. Nó chuyên chở cả thời kỳ 1000 năm thủ đô
Hànội, văn hoá Thăng Long, văn hóa cho cả nước với không biết bao tên
tuổi lẫy lừng. Nó không phải tự cao rao, quảng cáo vô bằng. Người và
chứng tích văn học c̣n đầy ra đấy. Viết ngàn trang giấy cũng chưa đủ.
Vậy mà lên khỏi tầu há mồm, cập bến Nhà rồng.. Tất cả những thứ đó đổ
xuống sông hết. Bài chiếu Lư công Uẩn dời đô không lẽ mang ra dọa .. Lư
Thường Kiệt, bà huyện Thanh Quan cất đi cho rồi v́ chóa mắt với xe cộ
chạy hà rầm.. đường phố rộng thênh thang, tấp
nập người qua lại, xe gắn máy ba bánh nổ bành bạch điếc con ráy.
Xe thổ mộ lách cách vui tai thong thả dời chợ Bến Thành đi Ngă Ba ông
Tạ, hay đi chợ Bà Chiểu. Chú lái xe thổ mộ ngồi nghiêng bên thành
cán xe ngựa tḥ chân xuống đất, mồm kêu toóc toóc như dục chú ngựa
ráng tư nữa, ráng tư nữa đi cưng. Hoa trái bầy la liệt mua một chục
ê hề đủ loại. Bà bán hàng ra giá mua một chục có đầu.,
nghĩa là chục có thể 11, 12 đến 13, 14 trái tùy
theo thỏa thuận. Nội thế thôi, mua bán kiểu kỳ cục Nam Kỳ cũng thấy đủ
sướng rồi.
Thật đến là kỳ lạ cái xứ Nam Kỳ. Chẳng ai bảo ai, ngay cả đám sĩ phu Bắc
Hà, đám trí thức thành thị cũng rứa. Quên hết chơn, hết chọi..
Câu chuyện văn hóa ngàn năm chẳng chống đỡ nổi một ngày.
Người Hà nội, người di cư có văn hóa cao, hoặc các nhà văn thường sử
dụng chúng một cách nhuẩn nhuyễn trong lúc giao tiếp, viết lách. Nói văn
hay chữ tốt, nói có văn hóa đương nhiên phải biết sử dụng thành ngữ đó,
lối viết đó như một thuật ngử, nói ít hiểu nhiều. Miền Bắc có những nhà
văn tiêu biểu sử dụng vốn liếng các thuật ngữ này như Trần Tiêu, Vũ
trọng Phụng, Tô Hoài, Vũ Thư Hiên, Nguyễn khắc Trường. Đọc họ cũng lư
thú lắm.
Vậy mà chữ nghĩa đó vào đến trong Nam đă bị gạt , thải loại không chừa
một chữ nào. Không muốn nghe, nghe th́ gạt đi, muốn nói cũng không
được.. Nói ra th́ nó đớ đờ đờ. Có duyên, được kính nể ở ngoài Bắc, trong
Nam trở thành vô duyên, không ngửi được. Đă thế, chữ nghĩa để
có cơ tồn tại, nếu nó được các nhà văn dùng..th́ đỡ biết mấy. Chính các
nhà văn di cư vào Nam như nhóm Sáng Tạo cũng quăng thùng rác không
thương tiếc. Chúng bơ vơ , lạc lơng , đầu đường , góc nhà, góc phố, nơi
từng nhóm người rồi biến dạng. Không có đám ma. Không kèn không trống.
Cái này không phải hoàn toàn lỗi người bản địa mà chính tại người dân du
nhập không muốn giữ. H́nh như có một thói quen xấu, có mới nới cũ.. Ít
ai muốn nhắc nhở, bàn , viết về những chói sáng văn học miền Bắc.
Có lẽ cái mất lớn nhất của dân di cư là mất lối nói, lối viết, nếp sống
văn hoá thành ngữ đă bị biến dạng. Nếu c̣n một thứ văn hoá ǵ là thứ
"Văn hóa chảy" Chảy tuốt luốt. Với cái độ nóng trung b́nh 35 độ, cái ǵ
cũng có thể chảy được. Bù vào chỗ đó, họ phải đi t́m một hướng viết mới,
mới có nghĩa là khác với tiền chiến, khác với Tự lực Văn đoàn. Mới thực
sự th́ chưa biết là thế nào, chưa biết h́nh thù nó ra sao, nhưng điều rơ
rệt là dứt bỏ truyền thống, cái cũ, trong đó có các thuật ngữ cũ của
miền Bắc.. Họ không thích ngồi lau đồ đồng, đánh bóng chữ cũ mà đùa cợt
mầu mè, son phấn với chữ nghĩa cho là mới, kêu rổn rảng, lặp đi lặp lại
đến lập dịơ. Chữ nghĩa đó mà phần đông họ nói để họ nghe hoặc dành cho
một thiểu số trí thức thành thị vốn chẳng đại diện cho cái ǵ, ngay cả
cho chính họ. Chữ nghĩa đó gặp lần đầu thấy lạ th́ muốn làm quen. Quen
rồi th́ chán ngấy muốn lỉnh , v́ chẳng nói được điều ǵ. Chính ở chỗ đó,
chữ nghĩa văn minh miệt vườn trở thành nhu cầu tinh thần của đa số dân
miền Nam. Cả cái văn hoá miền Bắc đưa vào bị cháy rụi chỉ c̣n trơ lại ít
cột kèo đen thui. Không ai đếm xỉa đến nữa.
Phần người viết, bắt gặp lại nó thấy gần gũi như người bạn cố tri lâu
ngày gặp lại. Tự nhiên chẳng khác ǵ thấy người bạn đầy những tính tốt
mà trước đây đă không lưu ư tới. Phải nói nó hay lắm, đượm mầu sắc dân
tộc, quê hương, xứ sở
------------------------------------------------------------
(14). Chẳng hạn : Nó tẽn ṭ, sợ văi đái, nhịn như nhịn cơm sống.
Mấy từ này lâu lâu gặp một bà Bắc kỳ đặc dùng lại nghe cũng sướng
cái lỗ tai. Ăn uống vốn là lẽ sinh tồn của nguời
dân Bắc nên được sử dụng tràn lan như : ăn phải đũa, ăn cơm khoán, ăm
cơm tứ chiếng, ăn chực, ăn ba vực như trong câu : ăn chẳng bao nhiêu, ăn
vạ hay nằm vạ. Tuyền là thứ đặc sản cả. Quư lắm đấy. Thứ thiệt, thứ ṛng
chính hiệu con nai. Nào là bữa lưng bữa vực, rồi bà thổ ra, chả mấy khi,
thế mà cấm khinh người, ông ta chúa pha tṛ, ông bỏ lỗi cho tôi, tôi nói
khí không phải, khắc xong. Mấy từ này dùng đến là đắc ư. Nó đứng một
ḿnh th́ chả có ǵ đáng nói, nhưng nó đứng trong toàn cảnh một câu nói
th́ thật hay. Khí không phải vừa có vẻ nhún nhường, nhưng đầy thách đố
và sẵn sàng đối đầu không thương nhượng. Này, lại tiếp một lô chữ nữa
ghi lại kẻo quên : Con đàn cháu đống, ốm thập tử nhất sinh, cứ chơ
mồm vào, le te chạy vào, bà đă mà cả mà cập, rơ mồn một, việc lớn ta
tính theo việc lớn, c̣n việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong (
trích trong Những đứa con trong gia đ́nh, Nguyễn Thi ) Về muộn mấy, vào
chơi cái đă nào, người chết như ngả rạ, quái nhỉ, quái nó đi đâu, tối
bức như ḷ than, người con gái trắng lôm lốp, ra sự rằng ḿnh dỗi, giăy
lên như đỉa phải vôi, ngă lộn tùng phèo, lớn phổng phao, con đi đằng
này, đằng này là đằng nào, trả lời mà như không trả lời ( Không cho biết
là đi đâu, có ư dấu, có thể là nói dỗi) u hỏi làm ǵ những việc ấy, mặc
con, không đủ mặc thây, cái đám ma cũng đường trường lắm, con đẻ rứt
ruột ra c̣n thế, lời chửi rủa th́ bao giờ cũng thừa bứa tứa tát, thở rít
lên như tiếng bễ, gà gà mắt lên như người say thuốc lào, nhà cũng hoàn
cảnh lắm ( Chữ này có thể là chỉ được dùng sau 54), khối anh, ông đă
diện oách, một tay bốc trời, nói khe khẽ, cô suưt bật cười, nào bác cả
ra đây, đàn ông đàn ang có biết ǵ đâu, giặt giũ cơm nước chợ búa, trêu
ngươi ai, cài toang xong ( đóng cửa truồng trâu ), ngă xiểng liểng, nó
khó bảo, đi đong chịu, khi cần tiền vẫn giựt nóng, cái ngữ đó, cái cơ
ngơi, Nói đến hơi hướng cái danh ông Dề, tao úp được con chó rồi, đi húi
tóc, ra sự rằng ḿnh dỗi, đi ở trọ, mẹ hờ con ( ru con, chữ cũng hay lắm
đấy chứ ) suốt đêm, giă đám (ră),
tuổi mụ, cầm bằng ông ta mà giận không che chở cho nhà ta để nhà binh
Nhật xung công tất cả th́ cứ xung công ( trích trong Cửa Biển của
Nguyên Hồng ), nhưng nay mới tường mặt ( rơ mặt ), hàng bồ
chuyện, bồ chữ, kíp thợ, đi đóng đáng, (
Trích những đứa con trong gia đ́nh, Nguyễn Thi ), xách ná thun đi bắn
nó, làng vào đám, thổi ṃi rơm, trâu làng tôi mót đâu ỉa đó, chú Lựu
quẩy hai gánh đi mót cứt trâu trên đường. Hai chữ mót dùng
trong một câu mang hai nghĩa khác nhau. ( Chuyện ở tỉnh lỵ của Vũ thư
Hiên). Châm đóm, thông điếu, xe đíếu, nơ điếu, quán đỏ đèn suốt sáng,
bắt rận, bắt chấy, cứ bỏ rẻ, ra ao tắm, ta nhắm vài miếng, mâm
cỗ, bà ấy hay ốm lửng ( Giả vờ ốm ), chẳng biết đâu mà lần, bật hồng là
ǵ nào, đốt đuốc đấy, tôi chạy ù xuống bếp, chú nghiêng đầu ḍm ông , có
như vậy, nhược bằng không, ǵ chứ cái ấy không được, cô Gái là người vắt
mảnh sành ra nước, nhưng cái khoản rượu bao giờ cũng biện đủ, tháng chạp
c̣n gọi là tháng củ mật ( tháng trộm cướp như rươi ), phóng * bút ch́ *.
Không phải cái bút ch́ để viết đâu ( ùng cái
mai buộc vào một sợi thừng dài dùng để phóng vào đối thủ), có ăn phải
có trả, sợ cô quở, đi biệt tăm tích, mời ông xơi, con mắt cùi nhăn, chơi
đánh chắt, những chùm quả lúc lỉu trên cành, chơi đố lá, đời thủa nhà
ai, nhựa sung được dùng vào vô khối việc, sạch như ly như lau, mời ông
đưa cay, những ngày rau lụi ( hiếm rau), tôm he giă lấy nước đánh
ḷng đỏ trứng gà giả làm yến ( Trích Thời xa vắng, Lê Lựu ), lại
gắp vài miếng , từng rủa không thiếu một lời, giỗ sống rồi, nói không
ngoa, được mấy nả, không có cái chân đảng trong làng, ông đứng chân chủ
họ, ông Phúc đă đánh trúng huyệt, trong việc làng, phần đầu gà má lợn ,
hôn nhân điền thổ, vạn cố chi thù, đă có người lân la hỏi chuyện gia
cảnh, thế là cạch không ai dám hỏi, cạch đến già, có những tiếng thật
hay như : có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt ra, thế mới biết sông có
khúc, người có lúc, trống đánh đến hỏng dùi, đă trót phải
trét, tôi đă trót đẻ ra ông, chữ trót đi liền với
đẻ ra ông mới diễn tả được nỗi thất vọng như thế nào của ông bố ( Tả
trong một trận đấu tố), rửa qua quít, rán cá, thịt nạc kho rim, ăn
uống húp háp x́ xoạp, chửa xong, đánh chén, cơm đèn, cơm đóm, cơm sáng
trăng, có khi ăn cơm khan chỉ chan nước mưa, nước vối, động thớt, hễ bên
đó đụng đũa, động bát là biết ngay, muốn ăn th́ lăn vào bếp, lên ăn
boóng được nhiều bữa nhờn môi . Thật hay. Ăn giả
miệng, không dè, cái đói giáp hạt, nấu cháo độn rau tập tàng, không dư
dật, mấy ông uống nước cả cặn, ăn tợm lắm, con t́ con vị được đánh thức,
cứ nhao nhao lên như chào mào ăn dom, con nào cũng lành chanh, lành
chói, mồm năm miệng mười, Biện là tên cúng cơm , chỉ có hai bữa cơm đèn,
làm ăn giật gấu vá vai, nó vác rá đến xin ăn trước cũng túng, bóc ngắn
cắn dài, rách như tổ đĩa, người từ dưới xuôi,
người trên mạn ngược, ăn hại đái nát, họ lùa ra sân, lùa bát cơm vào
mồm. Hai chữ lùa đều có nghĩa khác nhau. Khóc như mưa như
gió, sắc như tiếng dao cạo vào tinh nứa, nghe đến ghê cả ḿnh. Có
chữ nghe đến lạ : dù có mùa đông rét chết chim, hay * máu gái đẻ * nó
bất thường lắm hay vợ dậy lau lưỡi ( lần đầu tiên người viết thấy dùng
như vậy ) và xi con đái ( cũng đắt lắm ) phải lai
( đèo sau xe ) vợ đến sở, anh của Tuyên đă đánh xe đi đón, những cái hắn
sợ là hăo cả, thế nào là mềm nắn rắn buông, ngồi chắp chân bằng tṛn,
chỉ nhớ ang áng, người đă thất cơ lỡ vận, th́ ra già néo đứt giây, những
thằng tứ cố vô thân giết đi th́ dễ, anh bứa lắm, mỡ gầu lực xực, không
chanh cốm, một thời đă xa lắc xa lơ, con có nói gian th́ trời
tru đất diệt, chúng cháu không dám chắc lép,
nhưng quả là ít vốn, Bá Tứ ngồi rười rượi nhảy xuống trẫm ḿnh, anh với
Châu cọc cạch ( độc thân, ám chỉ như ế vợ
) quá, bà bón cơm cho cháu, bà ăn cả thể nhá, sao im ắp đến thế, cái máy
ảnh cà khổ, xin dành cho chị tất, cái ô tô phanh đến két một cái, bộ
rui mè, có ǵ không nên không phải bảo nhau, sợ
thọt dái lên cổ, thôi ta ăn khan một cái, thế hệ chém to kho nhừ (
lấy ăn no làm vui rồi ), có ông chồng hâm, chị vẫn gọn gàng như người
son rỗi, gạo vừa đỏ vừa dớn, dáng chừng chị cả mấy lần nhấp nhỏm định
nói, cái cạp sổ ruột, quanh năm hết dật tạm lại vay nóng, làm lắm th́
chầy vẩy ra chứ ăn thua ǵ, những thứ ấy chẳng kiếm được mấy nả tiền,
bác Tú Mỡ ngày ngày chăm chút lau xe đạp rồi buộc thừng treo lên, ngồi
xuống chiếu, xếp bằng tṛn, không để bánh xe chịn đất, quay đi quay lại,
làm chân điếu đóm điếu
------------------------------------------------------------
Thay lời kết luận :
Nhà văn trước hết là người sử dụng ngôn ngữ như một người đầu bếp dùng
rau cỏ, thịt thà, gia vị nấu món ăn. Làm văn không nhất thiết là sáng
tạo từ mới, chữ mới. Chùi đồ đồng, đồ cổ không nhất thiết là nhai lại.
Bởi v́, cùng một từ, một chữ được dùng đúng trong từng cảnh huống, nó
vẫn có chỗ đắc địa. Rất tiếc là trong tất cả các nhà văn miền Bắc di cư
vào Nam đă tự ḿnh cắt cái đuôi quá khứ mở ra một lối viết mới. Hay cũng
có, mà dở cũng không thiếu. Tuy không vay mượn vốn cũ, vay mượn cái cũ
của người làm cái mới của ḿnh th́ tự nó vẫn là vay mượn, vẫn là cái cũ,
vẫn là đi chùi đồ cũ. Cho đến nay, những suy tư, những trăn trở hiện
sinh về sự tồn tại, về ư nghĩa đời sống của các nhà văn ấy, sau 54, xét
ra cũng chẳng có đất sống nữa. Chẳng nói đâu xa, lối viết, lối suy nghĩ
của trí thức thành thị, trưởng giả vay mượn, đượm không khí pḥng trà
với cà phê, thuốc lá, ánh đèn mầu, tiếng nhạc xập x́nh tự nó đă không có
đất đứng nữa sau biến cố Phật giáo 63. Từ đó, chiến cuộc leo thang, lối
viết hưởng thụ, suy tư trưởng giả về ư nghĩa đời người, về cái đáng sống
hay dư thừa nhường chỗ cho lối viết nhập cuộc, dấn thân. Các nhà văn
thời buổi 54-55 một lần nữa trượt dốc, bơ vơ, lạc lơng trong cuộc đu
dây chữ nghĩa. Cuộc di cư năm 1954 đáng nhẽ là
một cuộc hành tŕnh chữ nghĩa, tiếp nối cái sợi giây văn hoá nối dài hai
miền, tự nó đánh mất đi khúc ruột liền sản sinh ra một thứ văn chương
không gốc. Lẽ dĩ nhiên, cạnh đó, nhiều trào lưu tư tưởng, văn học cũng
góp vào các ḍng chảy chung đó. Người viết gợi lại những chữ nghĩa của
thời xa xưa miền bắc, có những chữ tự nó cũng không c̣n được dùng nữa ở
miền Bắc. Điều đó thật tự nhiên và dễ hiểu. Nhưng phần đông, chúng vẫn
là cái vốn liếng văn hóa của đất nước, của dân tộc nói chung vượt lên
trên những đối lực chính trị vốn lúc nào cũng là kẻ thù của văn hóa.
Nghĩ như thế mới thấy vai tṛ và sứ mệnh nhà văn quan trọng đến bực nào.
Bài viết này, đă hẳn chưa đầy đủ, v́ c̣n rất nhiều chữ bị bỏ quên chưa
được nhắc tới, lại chưa hệ thống hóa đúng mực, nhưng trong chừng mực của
một bài báo, thiết tưởng cũng là một hoài niệm của những người di cư nay
di tản ra xứ người để có dịp nhâm nhi, dịp nhớ lại và hồi tưởng về một
dĩ văng đă qua. Và có lẽ đó là mục đích chính của bài nầy theo cái nghĩa
: Vang bóng một thời của chữ nghĩa.
©
http://vietsciences.net
và
http://vietsciences.free.fr Nguyễn
Văn Lục |