Đôi Điều
Về Chữ Nôm và Giọng Quảng Nam
Nguyễn Cung Thông
Nguyễn
Cung Thông* (Melbourne, Úc), Vân Hạc** (Hà Nội, Việt Nam)
Chữ Hán dịch
ra chữ Nôm
Vừa nghe
lại các bài ca Mưa Chiều Kỷ Niệm, Nỗi Buồn Hoa Phượng, T́nh Bơ
Vơ ... bằng giọng Quảng (Nam), xem trang YouTube này [www.youtube.com]
hay
http://www.youtube.com/watch?v=IM6dzrmTx8w
... càng nghe càng thấy thấm thía, nhân đây cũng ghi lại vài
nhận xét và các dữ kiện liên hệ.
1. Tại sao đọc là Nôm thay v́ Nam
喃
Nhắc đến giọng Quảng (Nam) chúng tôi lại nghĩ đến
(cách đọc) chữ Nôm 字喃
- tại sao lại đọc là Nôm từ Nam ra Bắc, từ Thừa Thiên đến Rạch Giá ....
Đây cũng là giọng Quảng khi phát âm làm thành lồm, Nam thành Nôm ...
Không những thế, thời vua Trần Nhân Tôn (khi chữ Nôm khởi sắc như qua Cư
Trần Lạc Đạo phú ...) được Chế Mân nhượng cho Châu Ô và Châu Rí thuộc
địa bàn Quảng Nam: cũng là khi người Việt định cư ở các khu này (trong
tiến tŕnh Nam Tiến). Do đó, cách đọc chữ Nôm (thay v́ chữ Nam) là một
dấu ấn thời-không-gian (time-space impression) của ngôn ngữ: thời
gian là khi chữ Nôm khởi sắc và cho ra các tác phẩm giá trị (cần thiết
cho văn học độc lập cũng như truyền thông ở biên giới phía Nam) hay là
vào khoảng thế kỷ XII, XIII ; không gian là địa bàn tỉnh Quảng Nam nơi
mà phương ngữ vẫn c̣n đọc Nam là Nôm.
Xem bản đồ Nam Tiến của dân tộc Việt (trích từ trang [vi.wikipedia.org]
)
Khi c̣n nhỏ, lớn lên trong một gia đ́nh di cư từ
Bắc vào Sài G̣n – chúng tôi nghe giọng Quảng (Nam) thấy rất lạ và thường
nhái theo ... Nhưng sau này, học hỏi và t́m ṭi thêm, ḿnh mới nhận ra
các giọng 'quê mùa ấy' lại bảo quản một số âm cổ (Việt) và có nhiều dữ
kiện rất quư báu cho sự hiểu về quá tŕnh h́nh thành tiếng Việt1
. Cũng đáng nhắc ở đây là Nồm (gió Nồm) chữ Nôm đều dùng
chữ Nam 南 hay chữ
Nam hợp với bộ vũ (tự điển Taberd)
𩄑
. Cái nơm (đơm2 bắt cá) chữ Nôm cũng dùng chữ Nam hợp
với bộ trúc 䈒 . Nom
(chăm nom, nom dơi) có một dạng ngạc cứng hóa (palatalised) là nḥm
(ống nḥm, ống ḍm) và một dạng chữ Nôm là
𥈶 ...v.v...
箔䈒
bạc nơm
筌䈒
thuyên nơm (Ngũ Thiên Tự - trang 80, 82, 90)
...
筌䈒
thuyên nơm (Tam Thiên Tự - trang 16)
Thả thả chăn chăn ít lại nom
𥈶
(Hồng Đức quốc âm thi tập)
Gă mục dè châm đă tới nom
𥈶
(Hồng Đức quốc âm thi tập)
…
Phần sau sẽ đi sâu hơn vào vốn từ Hán cổ cho thấy
các dạng nơm/nôm và núm/nắm đă từng được các tài liệu Trung Quốc xưa ghi
nhận.
2. Nơm/ nôm và nắm/núm
2.1 Nơm, có nơi ghi là nôm3 , là
dụng cụ bắt cá từ phương Nam, Nơm c̣n có thể viết bằng bộ vơng hợp với
chữ Nam 罱 hiện
diện trong vốn từ Hán cổ từ thời Ngọc Thiên
玉篇 (năm 543 SCN)
đọc là nữ cảm thiết/năi cảm thiết/nô cảm thiết hay *nơm/nam; cho
đến thời Quảng Vận lại đọc là lỗ cảm thiết 魯敢切 (lăm, lẫn lộn n/l khi đọc *nam thành
*lam) và trở thành cách đọc chuẩn!
H́nh ảnh xưa đi ‘nơm’ ở Đông Kinh (Tonkin) -
trích từ chùm ảnh xưa về các nghề mưu sinh ở Đông Dương
http://www.indochine-souvenir.com/metiers/
< Xách nơm qua đoạn nước sâu. - hiện nay ở Quảng
Nam vẫn c̣n ‘đi nơm;
"Nghề" nơm không phân biệt già trẻ, nam nữ. - trích từ bài báo
(22/8/2012)
http://dulich.blognhanh.com/2012/08/nom-ca-mua-he.html hay bài báo
(11/12/2012) viết về cả làng đi nơm cá ở Quảng Nam
http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/7/24/24/219860/Default.aspx
...v.v...
2.2 Nắm/núm/nuốm: cũng từ cách dùng chữ nam
南 để kư âm như
trên mà ta có thể thấy cấu trúc chữ hiếm *nớm/nắm
揇 - hiện diện ít nhất vào thời
Ngọc Thiên với các dữ kiện sau (xem h́nh chụp bên dưới)
奴感切
nô cảm thiết 搦也 nạch dă
Chữ 揇 đọc là *nớm/nắm nghĩa là nắm lấy (tiếng Việt c̣n dùng
dạng cổ hơn là núm lấy) - một dạng ngạc cứng hóa là nhắm
(Việt Bồ La/1651). Các dạng nắm núm nuốm - lúm (má lúm đồng tiền) và
nhóm (nhúm), tóm (túm) so với cḥm (chùm, xóm - cḥm c̣n là một đơn vị
mường nhỏ), lờm (lùm) cho thấy khả năng nguồn gốc phương Nam (tiếng Việt
cổ) của nắm/núm. Do đó chữ 揇 có
thể là kư âm của *nớm (núm)/nắm của tiếng Việt nhập vào và làm vốn từ
Hán (cổ) trở nên rất phong phú, cùng với chữ *nơm
罱
Các dữ kiện trên khiến ta phải suy nghĩ lại về giai
đoạn h́nh thành chữ Nôm4 (hay đóng góp của Quốc Âm vào vốn từ
Hán): có thể trước đời Đường (618-907) phù hợp với đề nghị của Phạm Huy
Hổ (chữ Nôm có từ thời Hùng Vương) hay Văn Đa Cư Sĩ Nguyễn Văn San (chữ
Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp). Đây là một đề tài rất thú vị nhưng không nằm
trong phạm vi bài này.
*Nguyễn Cung Thông: Công Ty Cố Vấn Giáo Dục (Education
Consultant) - email address
nguyencungthong@yahoo.com
**Vân Hạc: nhà văn, tác giả - email address
vanhac.yenbai@gmail.com
3. Phụ chú và phê b́nh thêm
3.1 Phụ chú
Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo
APA hay MLA v́ bao gồm các phê b́nh thêm về đề tài, tài liệu và tác giả
để người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác.
1) ngoài tương quan Nôm Nam như trên, một
số biến âm (địa phương) đă thành chuẩn như con *hàm (chữ Nôm
𤞻
: bộ khuyển + chữ hàm 含)
bây giờ ai cũng đọc là hùm (hồm - thời tự điển Việt Bồ La/1651). Tương
tự ta có cách đọc ḥm so với hàm
函 … Một chữ trong
truyện Kiều mà chúng tôi rất thích đọc và t́m hiểu thêm là
Một vùng cỏ áy bóng tà (câu 97) - áy viết (chữ Nôm) là ái
愛 (từ Hán Việt là
yêu, mến ...) - theo thiển ư nên đọc là úa (một đặc tính của
giọng Quảng - quê chua/choa ...) .
Ăn chữ Nôm là
咹 với thanh phù
là an 安, tuy
nhiên c̣n có thể đọc là yên (so với giọng Quảng Nam en); yên
(ngựa) 鞍 với cách
đọc yên đă trở thành chuẩn (không nghe ai đọc là *an ngựa). Khuynh hướng
chuyển nguyên âm về phía trước (a thành e, front vowel) là một đặc tính
khác của giọng Quảng Nam mà yên là một dạng gần với âm en hơn so với âm
an; các trường hợp tương tự là từ Hán Việt yến (yên)
燕 én, yêu
腰 eo ...v.v...
Không nên xem các giọng địa phương như giọng Quảng
Nam, Nghệ An ... là sai chính tả - như hàm ư của một bài báo mới đây của
đài VOV trang này http://vov.vn/Van-hoa/Ngo-ngang-nghe-Anh-Tuyet-hat-giong-Quang-Nam/225996.vov
... Những giọng địa phương (quê mùa) nhiều khi c̣n mang 'nhiều chất
Việt' hơn nơi nào hết! Xem thêm chi tiết về album mới ra của Ánh
Tuyết
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130114/anh-tuyet-ra-mat-album-bang-giong-quang-nam.aspx
2) *nởm 䈒
tiếng Hán là 弱竹 nhược trúc (tre non) , không liên hệ ǵ đến nơm
(dụng cụ bắt cá làm bằng tre) tiếng Việt; thành ra chữ Nôm nơm
䈒 có khả năng rất lớn là loại chữ tự tạo:
Chánh Tự Thông
正字通
3) nơm ghi là nôm như trong bài viết
về các nông cụ Việt Nam vang bóng một thời - xem trang này
http://www.phatgiaodaichung.com/Bai2011_04/NPTnongcuvn.pdf
4) cần phân biệt các giai đoạn h́nh thành chữ Nôm
so với giai đoạn chữ Nôm cực thịnh (phản ánh qua các tác phẩm văn chương
và thi phú).
3.2 Phê b́nh thêm
3.2.1 Từ năm 1932, học giả Phan Khôi (gốc
Quảng Nam) đă đề nghị tương quan Nôm và nam cũng như (gió) Nồm - trích
trang này
http://lainguyenan.free.fr/pk1932/TenGio.html
‘TÊN GIÓ BỐN HƯỚNG
Gần đây tôi có được thơ một vị độc giả hỏi một
điều hơi cắc cớ mà cũng có ư vị. Vậy sau khi trả lời bằng thơ riêng cho
người hỏi, tôi đăng luôn cả cuộc vấn đáp lên báo, v́ tưởng là không đến
nỗi vô ích vậy.
Bức thơ hỏi như vầy:
« Bạc Liêu, le 8 Novembre 1932
Ông Phan Khôi,
Kính ông,
Từ ngày báo Phụ nữ tân văn thêm mục Hán văn độc
tu, th́ mỗi tuần tôi đều đọc kỹ. Nhờ vậy học thêm nhiều tiếng, phân biệt
được nhiều nghĩa rơ ràng, nên tôi cảm bội vô cùng.
Bấy lâu nay chưa được nghe ai cắt nghĩa chuyện
nầy, tuy là không ăn nhập vào những bài dạy của ông, nhưng nhờ ông là
người đa văn quảng kiến, xin chỉ giùm câu chuyện sau đây, mà tôi đem hỏi
ông, v́ có thấy trong báo Phụ nữ số 175 ngày 3.11.1932, bốn chữ đông,
tây, nam, bắc.
Tại sao gió hướng tây thổi đến, người ta lại
gọi là gió nam? C̣n gió hướng nam lại gọi là gió nồm?
Gió chướng bên phía đông thổi qua là tiếng đă
thường nghe. Duy có hai tên gió nói trên đây không trùng với tên hướng,
bởi vậy mỗi khi nghĩ đến mà cắt nghĩa không xuôi th́ trí chẳng toại chút
nào.
Muốn hiểu nghĩa cho cùng, vậy xin ông vui ḷng
giải giùm minh bạch, đặng giúp kiến văn cho người ít học...
Trần Văn T́a
Conseiller provincial
Canton de Thạnh Hưng Bạc Liêu"
Bức thơ trả lời:
Saigon, le 11 Novembre 1932
Ông Trần Văn T́a,
Tiếp được thơ ông hỏi tôi về mấy điều, vậy tôi
xin trả lời cho ông như sau đây. Điều tôi nói đây chẳng do sách vở nào
hết, chỉ đoán phỏng mà nói. Vậy xin ông coi như là một lời giảng giải
chưa định, chớ khá tin trọn ở đó mà có khi sai chăng.
Ông hỏi tại sao gió hướng tây thổi đến lại gọi
là gió nam, c̣n gió hướng nam lại gọi là gió nồm?
Xứ ta (nhứt là Trung kỳ) kêu bằng gió nam đó
không phải là gió hướng tây như ông nói đâu, mà thật ra là gió tây nam.
Từ tây nam sang cho nên nó đem hơi nóng sang, thành ra gió nam xứ ta th́
nóng. Phía tây nam của xứ ta là một giải lục địa lớn (un grand
continent), trong đó có mấy cái sa mạc (désert), cho nên gió đem khí
nóng sang là phải; sách địa dư cũng nói gió lục địa là gió nóng. Tây nam
mà tục ta lại quen kêu là gió nam, có lẽ là tại lúc đầu người ḿnh không
biện biệt phương hướng cho thật rơ, tưởng là gió chánh nam cho nên nói
nam mà bỏ tây đi đó thôi.
C̣n gió nồm là từ đông nam thổi sang chớ không
phải chánh nam như ông nói. Đông nam của xứ ta là biển. Gió biển cho nên
hễ nồm th́ mát. Kêu bằng "nồm", có lẽ chữ "nồm" ấy do chữ "nam" mà ra.
Gió nồm tức là gió nam vậy.
Chữ "nồm" do chữ "nam" ra, tôi lấy chứng cớ ở
đây, có điều cái chứng cớ nầy hơi mong manh một chút:
"Tiếng Nam" hay là "chữ Nam", nghĩa là tiếng
hoặc chữ của nước Nam, th́ tục ta quen kêu bằng "tiếng nôm" hay "chữ
nôm". Do chữ "nôm" ấy mà chuyển ra "nồm". Gió hướng nam th́ gọi là "gió
nồm".
Ai hiểu cái luật "chuyển âm" trong tiếng ta th́
có thể tin cái thuyết ấy của tôi được một vài phần. Tiếng ta có nhiều
tiếng chuyển như vậy. Như "miệng" (A) là cái miệng th́ chuyển ra
"miếng", nghĩa là vật ǵ vừa một miếng bỏ vô miệng. Lại như "mang" vật
ǵ là verbe neutre, chuyển ra "máng" là verbe actif, nghĩa là bắt cái ǵ
mang vật ǵ, như máng ách cho ḅ, máng áo trên móc, v.v... C̣n nhiều chữ
như vậy không kể hết.
Vậy th́ "nam" chuyển ra "nôm", chuyển một lần
nữa ra "nồm", cũng có lẽ lắm, mà đều nghĩa là cái ǵ thuộc về phương nam
cả.
Gió "chướng" tức là gió đông, song tại sao lại
kêu bằng "chướng"? Là v́ mỗi khi gió ấy thổi tới (gió nầy từ Trung Bắc
kỳ nhằm vào mùa mưa lụt), làm cho nước các sông bị cản lại, bị chướng
tắc (nghĩa là ngăn lấp) lại, mà lâu rót ra biển (tục gọi là hàn cửa
biển), nên gọi là gió chướng.
Lại gió bắc th́ gọi là gió bấc, gió tây th́ gọi
là gió may, cũng có gọi là gió tây may. Bấc hẳn bởi chữ "bắc" mà ra. C̣n
tây sao gọi là may th́ tôi chưa hiểu. Trong Truyện Kiều có câu "mưa vạy
gió may" tức là gió tây.
Tôi nhớ như có người đă dùng chữ "gió vàng" để
chỉ gió tây. Ấy là dịch chữ
金
風 (kim phong) ra.
Theo thuyết ngũ hành, phương tây thuộc "kim", cho nên gọi
西
風 (tây phong) là
金
風 (kim phong).
Chữ 金 (kim)
nầy là métal chớ không phải or, thế mà người ta cũng nói bướng là "vàng"
đi để cho đẹp lời.
Có mấy điều sau ông không hỏi, song tôi cũng
nói luôn thể.
PHAN KHÔI
Phụ nữ tân văn, Sài G̣n, s. 178 (24. 11. 1932)’
hết trích.
(A) lời chú thêm (Nguyễn Cung Thông): để ư miệng
và miếng đều có một dạng chữ Nôm là mănh
皿 , mănh là âm
Hán Việt (母梗切,音猛
mẫu ngạnh thiết, âm mănh - Tập Vận) so với âm Hán cổ là *miêng (武永切
vũ vĩnh thiết - Đường Vận). Tiếng Mường (Bi) c̣n dùng đác mẽnh
(nước miếng, đác là nác/nước, mẽnh là miệng) so với các
ngôn ngữ khác như Nyah Kur (Chao Bon, liên hệ đến Môn) ta thấy cách dùng
dáak páang (nước miếng, dáak là nước, páang là
miệng); tiếng Khme có tức mót (nước miếng, tức là nước,
mót là miệng); tiếng Chăm c̣n dùng ia pabah (nước miếng,
ia là nước pabah là miệng) ...v.v... Các dữ kiện này cho ta
cơ sỡ vững chắc để liên hệ miếng và miệng.
3.2.2 Một bài viết quan trọng và liên hệ
trực tiếp đến đề tài bài viết này là "Một giả thuyết về từ nguyên của
từ 'Nôm' " của Trần Xuân Ngọc Lan/TXNL đăng trong Tạp Chí Hán Nôm số
1 trang 95-98 (1988). Cho rằng Nôm là âm Nam không đủ thuyết phục, TXNL
đề nghị (âm) Nôm có nguồn gốc từ đôm/dom (nghĩa là nói) gần như chung
cho các ngôn ngữ Môn Khmer và Mă Lai đa đảo lục địa. Tương quan đôm-nôm
có thể giải thích khi so sánh các tiếng Mường và Việt như đak-nác
(nước)… Dựa vào giai đoạn xuất hiện của phụ âm mũi đầu lưỡi tắc n trong
tiếng Việt (và dựa theo H. Maspéro/1912), TXNL đề nghị từ ‘Nôm’ phải
xuất hiện từ giai đoạn Tiền Việt sang giai đoạn Việt Cổ hay vào thế kỷ
X.
3.2.3 Vấn đề trở nên thú vị khi ta ngẫm
nghĩ thêm về nguồn gốc giọng Quảng Nam. Trích từ Chương Dẫn Nhập của
cuốn "Có 500 năm như thế" tác giả Hồ Trung Tú/HTT (Nhà Sách
Phương Nam, 2011)
'... Nhiều người không hiểu cái giọng nói của
người Quảng Nam nó xuất phát từ đâu trong khi tất cả các gia phả của các
ḍng họ đều ghi rơ rằng thủy tổ của họ là người Nghệ An, Thanh Hóa, Hải
Dương... vào đây. Giáo Sư Trần Quốc Vượng bảo: “Th́ các cụ vào đây đâu
có đem vợ con đi được nên lấy vợ Chàm rồi sinh con đẻ cái là cái chuyện
hết sức b́nh thường. Vấn đề là các bà mẹ Chàm nói tiếng Việt ấy đă
truyền lại cho con cái ḿnh cái giọng của người Chàm nói tiếng Việt. Cái
giọng đó chính là giọng Quảng Nôm nhà cậu” ...' (hết trích). Tác giả
HTT c̣n đề nghị là '... người Quảng Nam nói tiếng Việt bằng giọng
Chăm ...'. Đây không nằm trong phạm vi bài viết nhỏ này nhưng cần
được khai triển trong tương lai, để cho thấy những đóng góp không nhỏ
của phương ngữ trong quá tŕnh h́nh thành tiếng Việt.
3.2.4 Thêm vài chi tiết về âm Hán cổ
của Nam 南 là nôm.
Nam giọng Bắc Kinh (theo pinyin) bây giờ đọc là nán, so với nam4 (giọng
Quảng Đông) hay nam2 hay lam2 (giọng Triều Châu).
Phục nguyên âm thượng cổ của chữ Nam
南 theo:
Karlgren: nu ̆m
Lí Phương Quế: nəm
Vương Lực: niuəm
Baxter: nom
Trịnh Trương Thượng Phương: nuum
Phan Ngộ Vân: noom
Âm cổ của nam 南
theo Axel Schuessler là *nôm (chúng tôi đă ghi gần đúng theo cách đọc
tiếng Việt thay v́ theo IPA) trang 396, trong cuốn "ABC Etymological
Dictionary of Old Chinese" NXB University of Hawai'i Press (Honolulu,
2007). Học giả Lê Ngọc Trụ cũng liên hệ Nôm, Nồm đến Nam
南 - trang 356
trong cuốn "Tầm Nguyên Tự Điển Việt Nam" (NXB Thành Phố HCM, 1993). Học
giả Paul Schneider cũng ghi Nôm là âm cổ của Nam trong cuốn Dictionnaire
Historique Des Idéogrammes Vietnamiens / (licencié en droit Nice, France
: Université de Nice-Sophia Antipolis, R.I.A.S.E.M.) - trang 553; Học
giả Bernhard Karlgren trong cuốn "Grammata serica recensa" (số thứ tự là
GSR 650a, 1957, Stockholm) cũng ghi quá tŕnh biến âm của
南 là nôm > nậm >
nán (theo pinyin, nán là âm Bắc Kinh hiện đại, để ư phụ âm cuối -m trở
thành -n). Học giả E. G. Pulleyblank cũng ghi nhận dạng nôm là âm cổ của
nam 南 trong cuốn "Lexicon of reconstructed
pronunciation in Early Middle Chinese, Late MC and Early Mandarin"
(1991, Vancouver B. C.) trang 221.
Đây là vài dữ kiện từ một từ điển trên mạng Trung Quốc về âm cổ của
南 - xem trang này
[ytenx.org]
Lại một mạng tự điển Trung Quốc cũng cho thấy dạng âm cổ của Nam là nơm
- trích lại từ trang này [tool.httpcn.com]
[ 上古音 ]:侵部泥母,n?m
[ 广 韵 ]:那含切,下平22覃,nán,咸開一平覃泥
[ 平水韵 ]:下平十三覃
[ 唐 音 ]:*nom
[ 国 语
]:nán,nā
[ 粤 语
]:naam4
[ 闽南语 ]:lam5
Post ngày:
10/19/17
Post ngày:
10/19/17
|