|
Ḍng Tên,
Alexandre Rhodes và Chữ Quốc Ngữ
Cơ hội canh tân đất nước bị bỏ lỡ cách đây 400 năm
LTCG (30/11/2010)
Nhiều học giả coi cuốn tự điển Annamiticum
Lutsitanum et Latinum (Việt-Bồ-La), công tŕnh của
giáo sĩ ḍng Tên Alexandre de Rhodes được xuất bản tại Rome năm 1651,
như bản khai sinh của chữ quốc ngữ. Như vậy chỉ c̣n 1 tháng nữa đến năm
2011 là chữ quốc ngữ được tṛn 360 tuổi. Nhân dịp này tôi xin kể qua
lịch sử ḍng Tên và những hoạt động nổi bật nhất của nó ở nhiều nơi trên
thế giới từ khi Ḍng được thành lập cách đây gần 5 trăm năm cho đến ngày
nay. Tôi cũng sẽ xin nói thêm là chữ Quốc ngữ là di sản quư báu nhất mà
ḍng Tên đă để lại. Tiếc là các vua chúa thời đó đă bỏ lỡ cơ hội không
biết dùng nó thay chữ Hán để thoát khỏi lệ thuộc Trung Quốc về tư duy và
canh tân đất nước.
Tóm tắt lịch sử Ḍng Tên
Sinh trong một gia đ́nh quí tộc người Basque Y Pha Nho, vị sáng lập Ḍng
Tên Ignace
de Loyola (1491-1556)
hồi trẻ chỉ lo ăn chơi trác táng. Mới nhập ngũ được 8 ngày đă bị thương
trong trận vây đánh thành Pampelune. Trong thời gian 1 năm nằm chờ vết
thương lành, ông suy nghĩ về sự huyền bí của tạo vật và đột nhiên cảm
thấy có ơn Chúa gọi nên ông đợi đến khi lành lặn hẳn đi hành hương ở
thánh địa Jerusalem trước khi trở về học các trường Đại học Alcalá,
Salamanque Y Pha Nho và sau đó tới Paris học Đại học Sorbonne. Năm 1534
cùng mấy đồng bạn lên g̣ Montmartre ở Paris thề nguyền từ bỏ nhục dục,
sống nghèo khổ. Được thụ phong linh mục tại Venise năm1537 và 3 năm sau
(1540) chính thức sáng lập Ḍng Tên.
Tên tiếng Pháp của ḍng là La
Compagnie des Jésuites. Tiếng Việt gọi là Ḍng
Tên (tránh gọi
tên Jésus sợ phạm húy). Compagnie có nhiều nghĩa: ngoài nghĩa hội, đoàn
(tiếng Anh gọi là The Society of Jesus), c̣n có nghĩa “Đội quân”.
Ông Loyola dùng những từ ngữ quân sự để muốn nói ḍng ḿnh là một đội
quân của Chúa Giê Su và mỗi giáo sĩ là một người lính của Chúa. Vị lănh
đạo Ḍng (được chọn sau một cuộc bầu cử) mang danh hiệu là “ông
Tướng” (le Général). Tiêu
chuẩn đầu tiên của ḍng là phải có óc phục ṭng như người lính phục ṭng
ông tướng. Tiêu chuẩn thứ 2 là kiến thức: Mỗi chủng sinh phải qua 1 thời
gian đào tạo rất lâu dài, ít nhất là 10 năm: 2 năm tiểu chủng viện. 3
năm học triết và các ngành nhân văn, khoa học. Thực tập ngoài đời từ 3
đến 5 năm. Trở lại đại chủng viện học thêm 4 năm thần học. Nhờ
được đào tạo kỹ lưỡng như vậy nên giáo sĩ Jésuite nào cũng có đủ kiến
thức, đức tính và khả năng để có thể trong bất cứ trường hợp nào cũng có
thể thích ứng với môi trường nơi ḿnh truyền đạo, cải tạo xă hội theo
hướng của Ḍng. Đồng thời đức tính phục ṭng bề trên và thói quen nhẫn
nại cũng giúp người giáo sĩ ḍng Tên sống một cuộc đời mẫu mực để làm
gương và giáo huấn tín đồ. Nói tóm lại, người sáng lập Hội đoàn Jésuite
muốn ḍng của ḿnh là một ḍng ưu việt, một “đội quân” dũng mănh về mặt
giáo lư và kiến thức để có thể hoàn thành tất cả mọi nhiệm vụ được giao
phó.
Hồi đầu Ignace
de Loloya muốn
ḍng Tên chỉ có mục tiêu đem kiến thức thuyết phục những người theo đạo
Phản thệ hay người ngoại đạo trở về với Giáo hội La Mă. Nhưng cũng chính
lúc đó các thân hào ở tỉnh Messine (thuộc đảo Sicile Ư) yêu cầu ông
Loyola mở trường cho tỉnh (1548). Trường được nổi tiếng và kể từ đó ở Âu
châu Ḍng Tên thấy cần thay đổi mục tiêu là đào luyện một tầng lớp trí
thức có khả năng canh tân xă hội theo đường lối Công giáo. Ḍng Tên từ
đó mở ra những trung tâm đại học danh tiếng cho tới ngày nay. Khi ông
Loyola mất năm 1556 ḍng có 1000 giáo sĩ. Một trăm năm sau số giáo sĩ
lên đến 15,000 với 580 trường học ở Âu, Á, Mỹ.
Những hoạt động nổi bật nhất của ḍng Tên từ khi mới được thành
lập
1. Hoạt
động mang nhiều màu sắc chính trị ở Âu châu
Ở Âu châu ḍng Tên hoạt động đúng vào thời kỳ có những xung đột tôn giáo
hoà lẫn với chính trị nên gặp nhiều sự chống đối của giới cầm quyền vua
chúa cũng như giáo hoàng. Ḍng bị xua đuổi, giải tán, cả thảy 30 lần: Ở
Pháp, năm 1563 ḍng Tên mở Collège de Clermont cạnh tranh với Đại Học
Sorbonne lấy hết sinh viên của Đại học này v́ không những dạy giỏi mà
c̣n dạy miễn phí. Những người ghen ghét ḍng Tên t́m cơ hội để triệt hạ
Ḍng: Năm 1594 Jean Chatel một cựu học sinh trường Clermont lấy dao đâm
vua Henri IV. Lập tức trường bị đóng cửa, các thày dạy bị đi đày, ông
thày dạy Chatel thần học bị treo cổ xác bị vất ngoài băi. Măi đến năm
1618 trường mới được vua Louis XIV cho phép mở lại với tên là Louis Le
Grand (bây giờ là trường Trung học sửa soạn thi Đại học danh tiếng nhất
nh́ nước Pháp). Năm 1762 Trường lại bị đóng cửa v́ 1 người làm công cho
trường tên là Damien tính ám sát vua Louis XV.
Năm 1750 khi Y Pha Nho và Bồ Đào Nha kư hiệp uớc chia nhau khu tự trị
Paraguay Nam Mỹ ḍng Tên huy động dân bản xứ lập quân đội chống lại liên
quân 2 nước này. Bồ Đào Nha trả đũa cấm ḍng Tên được hoạt động ở Bồ Đào
Nha và ở mọi lănh thổ Bồ Đào Nha trên thế giới. Năm 1767, vua Y Pha Nho
Charles III ra lệnh bắt 5,000 giáo sĩ ḍng Tên và đóng cửa 240 cơ sở của
Ḍng, không những ở chính quốc mà c̣n ở khắp mọi nơi trên thế giới thuộc
thẩm quyền Y Pha Nho.
Năm 1773, cũng v́ quá thành công ở Trung Quốc nên những kẻ ghen ghét dèm
pha với Giáo hoàng là ḍng Tên chấp nhận tục thờ cúng tổ tiên trái với
giáo lư Công giáo. Giáo hoàng ra lệnh giải tán Ḍng. Măi đến năm 1814
Giáo Hoàng Pie VII mới cho lập lại.
2.
Những hoạt động “cách mạng” chống thực dân ở Mỹ châu
Ở Mỹ Châu hoạt động nổi bật nhất của Ḍng là đă đứng về phía người Da đỏ
Guarani ở Paraguay (Nam Mỹ) chống lại thực dân Y Pha nho và những tập
đoàn bắt người làm nô lệ. Ḍng thành lập những thị xă trong cả thảy 38
“tiểu vực” (reductions) để tạo ra một nước tự trị gồm 110,000 dân da đỏ
trên một lănh thổ rộng bằng nửa nước Pháp, đóng thuế thẳng cho vua Y pha
nho. Mỗi thị xă đều có khu nhà dân cư, khu công cộng gồm nhà thờ, toà
hành chính, trường học... cai trị bởi một hội đồng quản trị gồm người
bản xứ và qua một cuộc bầu cử trực tiếp. Tiếng bản xứ được dạy ở trường.
Học sinh được tập thể dục và có những hoạt động văn hóa như diễn kịch,
ca hát.... Trong xă hội mọi người đều b́nh đẳng không có kẻ giầu người
nghèo. Không có án tử h́nh. Nhà nước lập quân đội gồm người bản xứ để
chống ruồng bắt nô lệ. Voltaire, Montesquieu, và sau này Lafargue rể của
K.Marx đều ngợi khen nước Cộng Ḥa Ki Tô này. Thời gian tồn tại của nước
này cũng được 181 năm, từ 1588 cho tới khi ḍng Tên bị vua Y Pha Nho
đuổi năm 1769.
3. Ở
Viễn Đông ḍng Tên chinh phục các vua chúa bằng kiến thức khoa học và kỹ
thuật:
Ở những nước Viễn Đông theo truyền thống Khổng Mạnh như Nhật Bản, Trung
Hoa, và Đại
Việt (Việt Nam), ḍng Tên gặp phải sự chống đối của
giới quan lại v́ bị coi là muốn phổ biến những ư tưởng trái ngược với
quan niệm Quân phu phụ của Khổng Tử khiến trật tự xă hội có thể bị đảo
lộn. Để qua mặt giới này các giáo sĩ ḍng Tên t́m cách đến gần các vua
chúa, đem những mưu kế và những kiến thức khoa học và kỹ thuật cống hiến
các vua chúa để được tin dùng. Một khi đă được sự bảo trợ của các vua
chúa, các giáo sĩ cũng dễ dàng xin được phép truyền đạo trong dân chúng.
Vấn đề là tuy cùng một văn hoá, hoàn cảnh chính trị 3 nước Nhật Bản,
Trung Hoa, và Đại Việt hoàn toàn khác nhau nên điều quan trọng nhất là
phải biết tùy nghi mà hành động. Vị lănh đạo ḍng Tên biết vậy nên đă
chọn lựa và cử qua các nước này những vị giáo sĩ ưu tú nhất: François
Xavier (Nhật Bản), Matteo Ricci (Trung Hoa), Alexandre
de Rhodes (Đại Việt).
Tôi xin kể những hoạt động của 3 vị này:
Nhật Bản
François Xavier (y
Javier) (1506-1552) sinh ở Navarre xứ Basque sau bị Y Pha Nho chiếm. Thù
ghét Y pha Nho nên năm 18 tuổi qua Pháp học Đại học Sorbonne. Cùng
Ignace de Loloya sáng lập Ḍng Tên. Được Loyola cử đi truyền giáo ở Goa
thuộc địa Bồ Đào Nha ở Ấn độ năm 1542. Trong những lần đi Malacca (Mă
lai) gặp nhiều người Nhật nên nuôi ư định đi truyền giáo ở Nhật. Ngày
15-8-1549 ông lên một chiếc thuyền Trung Quốc đi tới tỉnh Kagoshima bên
Nhật. Ở tỉnh này ông thường trao đổi ư kiến và bàn luận với một vị cao
tăng Nhật. Sau đó ông đi Kyoto tiếp xúc với các nho sĩ Nhật trước khi đi
đến vùng Yamayuchi lập nhà Thờ và tới Funai trên đảo Kyushu ở. Năm 1552
nghe lời khuyên của các nhà nho Nhật là muốn cảm hóa được nhiều người
Nhật theo đạo th́ trước hết phải thuyết phục được người Trung Quốc, ông
lên 1 chiếc thuyền đi Quảng Châu và bị mất trước khi tới.
Trong thời gian ngắn ngủi ở Nhật ông Xavier cảm hóa được nhiều người
theo đạo trong số các quan chức như Shogun (Tướng quân, Mạc chúa) Otomo
và nhiều daimyos (đại danh)). Cũng nhờ vậy mà đạo Thiên chúa trong thời
gian này được truyền bá rất mau chóng nhất là ở tỉnh Nagasaki, nơi mà
Ḍng Tên c̣n được phép độc quyền mua bán tơ lụa. Trớ trêu thay Nagasaki
nơi có nhiều người theo đạo Công giáo nhất cũng là nơi chịu trái bom
nguyên tử 400 năm sau.
Đọc kỹ lịch sử truyền giáo ở Nhật mới thấy các mạc chúa Nhật không thiển
cận như các vua chúa Việt Nam thời ấy: Các mạc chúa và các nhà truyền
giáo ḍng Tên đặt quan hệ trên nguyên tắc trao đi đổi lại: cho quyền
giảng đạo miễn là đừng lấn tới chính trị và các giáo sĩ phải giúp các
Mạc chúa súng ống, cách đóng thuyền, trang bị các tàu thuyền của Nhật
dụng cụ đi biển. Nhờ vậy mà thương thuyền Nhật bản có mặt ở cùng Đông
Nam Á: Đài Loan, Phi Luật Tân, Nam Dương và nhất là Việt Nam (Hải Pḥng,
Phố hiến, Hội An, Đà Nẳng....) Mạc chúa Mobunaga (1534-1582) lại c̣n lợi
dụng đạo mới Tây phương để khuynh đảo những giáo phái Phật giáo mà ông
ghét. Mạc chúa Hideyoshi (1536-1598), tuy ra lệnh giết 26 người Kitô
giáo Nhật nhưng vẫn sủng ái ḍng Tên nên cho phép các thương thuyền Bồ
Đào Nha dựa vào thế lực ḍng này được buôn bán ờ Nagasaki (coi phim
Shogun). Sự đố kỵ và tranh giành thị trường giữa người Ḥa Lan theo Thệ
phản và người Bồ Đào Nha theo Công giáo cũng được các mạc chúa khai thác
để chia rẽ những người Tây phương với nhau. Chỉ bắt đầu từ Mạc chúa
Tokugama Leyasu (1543-1616), khi thấy có thể giao thiệp thẳng với các
vua chúa và các nhà cầm quyền vùng Đông Nam Á (kể cả Phi Luật Tân thuộc
Y Pha Nho) không cần sự môi giới của các nhà truyền giáo, đồng thời
những kỹ thuật đóng tàu, đi biển không c̣n ǵ là bí mật nữa, mới cấm đạo
trở lại. Chính sách lợi dụng những hiểu biết của Tây phương rồi vắt
chanh bỏ vỏ có từ thời các mạc chúa mấy trăm năm trước Minh Trị và vẫn
tiếp tục cho tới ngày nay.
Trung Hoa
Matteo Ricci: Gốc
người Ư. Sinh năm 1552. Chủng sinh Ḍng Tên năm 1571. Sau khi được thụ
phong linh mục Matteo Ricci theo vết chân của François Xavier qua Trung
Quốc, coi Trung Quốc là nơi truyền giáo lư tưởng v́ không có những đạo
giáo như đạo Hồi, cần phải đấu tranh một mất một c̣n, và là nơi 2 nền
văn minh văn hoá Trung Quốc và Âu Tây có thể hoà hợp bổ sung nhau. Ngay
khi mới tới Macao tháng 8 năm 1582, ông đă lo học tiếng Tàu và khi được
ở Triệu Thanh Phủ gần Quảng châu cùng với mấy nhà truyền giáo khác, ông
mời Tổng Đốc Lưỡng Quảng và các quan chức tới Triệu Thanh Phủ để tŕnh
bày rất nhiều dụng cụ như đồng hồ, máy móc, địa bàn địa cầu, ống kính
thiên văn v.v. đem từ Macao qua và sau đó dùng làm quà biếu xén để lấy
ḷng các vị đó. Ở Triệu Thanh phủ, ngoài th́ giờ nghiên cứu và chế tạo
máy móc Ricci c̣n lo học Tứ Thư Ngũ Kinh để bàn căi với các nho sĩ về
những điểm tương đồng giữa Ki Tô giáo và Nho giáo. Ông nghe lời khuyên
của các vị này tự bỏ áo thày tu mặc áo nho sĩ. Năm 1593 ông dịch Tứ thư
Ngũ Kinh ra tiếng La tinh rồi kiếm cách đi Bắc Kinh xin vào triều kiến
Vua. Muốn tới Bắc Kinh phải qua nhiều người dẫn tiến và phải đi Nam kinh
trước. Ông tới Nam Kinh ngày 31 tháng 5 1595 nán lại nhà một thân hữu là
ông quan họ Hoàng (Wang Zongming) cho tới tháng 9 mới đi Bắc Kinh. Nhưng
ở Bắc Kinh ông không t́m được một vị triều thần nào thân cận vua để tiến
dẫn ông vào triều kiến. Ông đành trở lại Nam Kinh mua nhà tọa lạc tại
nghiên cứu dạy học cho tới năm 1601 đời Vạn Lịch mới được trở lại Bắc
Kinh và sống ở đó cho tới khi chết (1610). Ông được nhà vua cho đất táng
và cho một cái chùa để các cha ḍng Tên ở.
Ông Matteo Ricci lấy tên Hán là Lư Mă Đẩu trở thành một nhà nho không
khác ǵ một nho sĩ Trung Quốc, viết rất nhiều sách khoa học bằng chữ Hán
dâng Vua như cuốn Những nguyên lư Euclide, cuốn Bản đồ – địa chí cuốn
Luận về T́nh bằng hữu v.v.. Dưới triều đại nhà Thanh các giáo sĩ ḍng
Tên vẫn được lưu dụng và được sủng ái, nhất là dưới triều thịnh trị
Khang Hi: Các giáo sĩ ḍng Tên giúp Vua trong sự giao thiệp giữa Trung
Quốc và nước Nga, giúp về kiến trúc, thiên văn, nghệ thuật (t́m ra men
màu hồng famille rose cho đồ sứ), vẽ bản đồ Trung Quốc v.v.. Ḍng Tên
chỉ bị thất sủng dưới Triều Ung Chính và Càn Long. Sau đó, từ 1842 đến
1949 được dùng lại và được phép mở trường ở Thượng Hải (1842) mà trường
Đại học nổi tiếng nhất là trường Aurore (Rạng Đông) nơi rất nhiều trí
thức Trung Hoa được đào tạo. Tới năm 1850 Trung Quốc đă có 4 trường Đại
học ḍng Tên không kể những đài thiên văn, những trung tâm kỹ thuật....
Có sự ngược đời là chính óc thiển cận của giáo hội La Mă thời đấy như
ngăn cấm sự thờ cúng tổ tiên, đă làm khựng lại hoạt động truyền giáo của
ḍng Tên trong dân gian Trung Quốc chứ không phải là v́ có sự ngăn cấm
từ triều đ́nh.
Đại Việt
Alexandre de Rhodes. Gốc Do Thái tỉnh Aragon Y pha
Nho. Ông thân sinh tên là Rueda chạy trốn Toà án dị giáo qua ẩn trú ở
Avignon đất của Giáo Hoàng đổi tên là Rhodes sau khi cải đạo theo Công
giáo. Alexandre de Rhodes sinh ở đất Giáo hoàng năm 1591 nên là thuộc
dân của Giáo Hoàng chứ không phải là dân Pháp (chỉ sau Cách mạng 1789
Avignon mới thuộc về Pháp). Học ḍng Tên ở Rome năm 18 tuổi cho tới năm
1618. Sau khi được thụ phong được cử đi Goa truyền đạo. Học tiếng Bồ Đào
Nha ở Goa trước khi đi đến Macao cuối năm 1619. Được dự định cử qua Nhật
nên học tiếng Nhật ở Macao. Cho tới tháng Tư năm 1622 tính qua Nhật, th́
đúng vào lúc lệnh trục xuất các giáo sĩ của Mạc chúa Tokagama được thi
hành triệt để nên bề trên bảo ông phải đổi hướng đi Tourane (Đà Nẵng)
nước Đại Việt v́ ở đó đă có sẵn cơ sở ḍng Tên từ năm 1615 của 2 cha
Francisco Buzomi và Diego Carvalho. Cuối năm 1624 cùng 5 giáo sĩ ḍng
Tên khác ông tới Faifo (Hải phố) nay gọi là Hội An thuộc Đàng Trong dưới
triều chúa Săi (Nguyễn Phúc Nguyên). Chỉ trong vài tháng, A.
de Rhodes đă thông thạo tiếng Việt, lấy tên Việt là Đắc
Lộ và
bắt đầu giảng đạo bằng tiếng này. Ông cũng bắt đầu lấy lại những công
tŕnh của Francisco de Pina (1585-1625) để t́m cách phiên âm tiếng Việt
bằng chữ La tinh.
Chúa Săi không chú ư nhiều về đạo giáo mà chỉ quan tâm nhiều về quan hệ
thương mại, đặc biệt là với những nước ngoài. Nhờ vậy dưới triều chúa
Săi Faifo trở thành một hải cảng quốc tế. Măi tới năm 1626 ḍng Tên mới
cử một giáo sĩ người Ư tên là Giuliano Belditoni đi giảng đạo ở Đàng
ngoài (Đông kinh, Tonkin). Ông này than văn tiếng Việt khó quá nên Ḍng
cử Đắc Lộ đi Đông Kinh, thay thế Belditoni. Năm 1627 dưới triều chúa
Trịnh Tráng, Đắc Lộ tới Hà Nội đem theo 2 món quà để biếu Chúa là một
đồng hồ và một cuốn sách của Euclide nói về h́nh cầu. Được ḷng Chúa nên
Đắc Lộ có cơ hội tới gần phủ Chúa và rửa tội cho một người em gái của
Chúa với tên là Catherine. Nhà Thờ đầu tiên ở Đàng Ngoài được Đắc Lộ xây
dựng nằm ở địa phận Thanh Hoá. Nhưng cũng lúc đó các quan lại hầu cận
vua đưa ra tin đồn Đắc Lộ là gián điệp nên ông bị quản thúc ở Hà Nội cho
đến năm 1630 th́ bị trục xuất ra khỏi Đàng Ngoài. Trong thời gian 3 năm
ở Đàng Ngoài Đắc Lộ rửa tội được chừng 7,000 người.
Đắc Lộ trở về Macao dạy học từ 1630 tới 1640 và bắt đầu từ 1640 đến
1645, đi đi lại lại Đàng Trong 4 lần, phần nhiều được những gia đ́nh có
đạo bao che hay ẩn trú ở Faifo trong khu Nhật Bản. Lần thứ hai, nhờ sự
môi giới của các thương gia Nhật Bản và của bà công chúa Minh Đức cô của
Chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) có đạo tên là Marie, Đắc Lộ đem cả một tàu
đồ biếu quan đầu tỉnh là Ông Nghè Bộ nên được ở từ tháng 1-1642 đến
tháng 9-1643. Nhưng lần cuối cùng khi trở lại Đàng Trong tháng 1-1644
th́ bị bắt ở biên giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài và bị nghi ngờ là
gián điệp nên bị kết tội xử tử. Sau nhờ sự can thiệp của bà công chúa
Marie Minh Đức,án tử h́nh được đổi thành chung thân biệt xứ và bị đuổi
ra khỏi Đàng Trong tháng 7-1645.
Sau khi trở về Macao ông đi nhiều vùng quanh Ấn độ Dương và Trung Đông
trước khi tới Rome tháng 6-1649 để hoàn thiện cuốn tự điển Việt-Bồ-La và
cho xuất bản. Ông mất ở Ba Tư năm 1660.
So với François Xavier (sau được phong thánh) và Lư Mă Đẩu (Matteo
Ricci), cuộc đời của Đắc Lộ gian khổ hơn nhiều v́ phải sống chui lủi
trong đám người chài lưới cùng khổ chứ không được các vua chúa, các giới
quyền quí sủng ái như 2 vị trên. Nhưng cũng v́ sống 20 năm hoà ḿnh
trong quần chúng ở cả 3 miền đất nước, Trung, Nam, Bắc, nên tiếng Việt
của ông là tiếng Việt của người dân, tiếng nôm na chứ không phải tiếng
Hán Việt thơ phú của giới nho sĩ. Cuốn Từ điển Việt-Bồ-La của ông phải
được kể là một công tŕnh vĩ đại trong lịch sử văn hoá thế giới v́ nhờ
nó mà các nhà ngữ học biết được những từ ngữ tiếng Việt cổ cách đây 400
năm. Ông cũng là người độc nhất dùng 5 dấu, sắc, huyền, hỏi, ngă, nặng,
để ghi thanh điệu tiếng Việt khiến một khi biết đọc chữ quốc ngữ là biết
đọc đúng tiếng Việt và nhờ vậy thanh điệu tiếng Việt ở 3 miền Trung Nam
Bắc mỗi ngày một thống nhất.
4. Ḍng
Tên ngày nay
Với hơn 20,000 giáo sĩ, ḍng Tên đứng thứ nh́ trong số những ḍng thuộc
đạo Công giáo. Nhưng nếu kể số trường Đại học Cao đẳng và Trung học mà
Ḍng Tên thiết lập ở 112 nước trên thế giới, ḍng này phải được kể là
lớn nhất trong địa hạt giáo dục. Những trường do ḍng Tên thiết lập đều
có danh tiếng quốc tế: Thí dụ như Đại Học Georgetown Mỹ nơi mà Clinton
và 2 bà bộ trưởng ngoại giao, Madeleine Allbright của Clinton và Condo.
Rice của Bush theo học. Số những nhân vật nổi tiếng trên thế giới trên
đủ mọi địa hạt chính trị cũng như văn hóa trong lịch sử cũng như hiện
đại được đào tạo ở những trường ḍng Tên không sao kể hết được: Chỉ cần
kể trong lịch sử Pháp có nhà cách mạng Robespierre và thời đại này có
Fidel Castro.
Ngoài địa hạt giáo dục, mấy ông cha ḍng Tên cũng có tiếng trong nhiều
lănh vực kể cả chính trị như ở Trung Nam Mỹ với lư thuyết thần đạo giải
phóng, đă có hồi bị coi là lư thuyết cộng sản trá h́nh. Nhân vật nổi
tiếng hiện giờ ở Trung Quốc là một ông cha ḍng Tên 93 tuổi đưọc Chính
phủ Trung Quốc phong làm giám mục Thượng Hải trái với ư của Ṭa thánh
Vatican.
Kết
luận
Nhờ chúa Săi có óc tương đối rộng răi cho phép các giáo sĩ ḍng Tên được
lập cơ sở ở Hội An mà chữ quốc ngữ được ra đời ở đàng Trong. Tiếc là sau
đó các vua chúa Việt Nam, nhất là chúa Trịnh đàng Ngoài, v́ quá phụ
thuộc tư duy Tàu, văn hoá Tàu, nên đă bỏ lỡ nhiều cơ hội tận dụng những
kiến thức về khoa học và kỹ thuật của các giáo sĩ ḍng Tên như các vua
chúa Nhật và Trung Quốc. Nhưng cơ hội lớn nhất đă bị bỏ lỡ là đă không
nghĩ dùng chữ quốc ngữ, chỉ có 24 chữ cái, để thay thế chữ Hán, một thứ
chữ tượng ư gồm 80 ngàn chữ, khó mà có thể học và nhớ hết được. Chữ Hán
chỉ hợp với Trung Quốc, một nước mà mỗi miền nói một thứ tiếng khác nhau
chỉ có thể hiểu nhau bằng bút đàm. Nếu biết dùng chữ quốc ngữ ngay từ
cách đây gần 400 năm để mọi người dễ dàng biết đọc biết viết, để phổ
biến những tư tưởng và những kỹ thuật mới mẻ của Tây phương, th́ 2 miền
đàng Trong và đàng Ngoài đă trở thành một quốc gia rộng lớn, nói cùng
một tiếng Việt thuần nhất, và đất nước được canh tân trước Nhật Bản của
thời Minh Trị 250 năm. Việt Nam đă là một nước hùng mạnh nhất nh́ Đông
Nam Á chứ không như bây giờ vẫn nằm trong ṿng cương toả của Tàu về tư
duy, kinh tế cũng như chính trị.
Phong Uyên
Nguồn: Điện thư Internet
H́nh ảnh: Ban Kỹ thuật K10A-72/SQTB/ĐĐ sưu tầm
Tóm tắt thêm vài chi tiết về "D̉NG TÊN" hiện nay:
Ḍng Tên viết tắt (Abbreviation): SJ,
Jesuits
Khẩu Hiệu (Motto): Ad Maiorem Dei Gloriam
Ngày thành lập (Formation): Ngày 15 tháng 8, năm 1534
(cách đây 476 years)
Tổ chức (Type): Là một "Ḍng" của Giáo hội Công giáo
La-mă
Tổng Hành Dinh (Headquarters): Nhà Thờ Mẹ Chúa Giê Su
(Church of the Gesu (Mother Church), Văn pḥng chính đặt tại Giáo triều
Rôma (General Curia (administration))
Địa chỉ (Location): La mă, Ư Đại Lợi (Rome, Italy)
Bề trên ḍng (Superior General): Adolfo Nicolás
Nhân sự ṇng cốt (Key people): Linh
mục Ignatius of Loyola —
Sáng lập viên của Ḍng Tên (founder)
Nhân viên tùng sự/Ban tham mưu (Staff): 4,018 người
Website: http://www.sjweb.info
Nguồn:
http://lhccshtd.org
Post ngày:
10/19/17
|