Khái
niệm âm vị học
(phần
đầu)
Ngành
nghiên cứu âm thanh cho một ngôn ngữ được gọi là âm vị học. Ngữ âm học là
một ngành khoa học nghiên cứu các đặc điểm âm thanh của tiếng nói con
người. Ngữ âm học nghiên cứu các phổ quát âm thanh. Ví dụ: Nhờ vào bộ máy
cấu âm, con người có thể phát ra các chuỗi âm thanh khác nhau. Ngữ âm học
chia các loại âm thanh này thành các phạm trù ngữ âm khác nhau: nguyên âm,
phụ âm, tắc, xát… C̣n âm vị học th́ không nghiên cứu rộng như vậy. Âm vị
học nghiên cứu xem trong một ngôn ngữ có bao nhiêu đơn vị âm thanh là có
chức năng khu biệt nghĩa. Hoặc, trong ngôn ngữ, những nét ngữ âm
nào trở thành những nét khu biệt và có ư nghĩa. Chính v́ vậy, ngữ
âm học có số đơn vị là vô hạn, quen gọi là các âm tố (sounds). C̣n âm vị
học, có số đơn vị hữu hạn, đếm được. Đơn vị của âm vị học là âm vị
(phonemes).
Ví dụ:
[p]
= |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
+ Vô thanh
- Mũi
+ Mạnh (cường độ) |
[b]
= |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
- Vô thanh
- Mũi
- Mạnh (cường độ) |
[m]
= |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
- Vô thanh
+ Mũi
- Mạnh (cường độ)
+ Dài |
|
|
|
|
|
|
|
|
nét
ngữ âm |
|
nét
ngữ âm |
|
nét
ngữ âm |
PAT: Phụ âm tính (Consonantal)
(+): Present
(-): Absent
Về mặt ngữ
âm học, 3 nguyên âm này đều có nội dung ngữ âm là như nhau ở tất cả các
ngôn ngữ trên thế giới. Ví dụ như [m] phân biệt với [p] và [b] ở đặc tính
[mũi/không mũi]. [p] phân biệt với [m] và [b] ở đặc tính [+ vô thanh]: +vô
thanh/ +hữu thanh. Những đối lập kiểu như vậy th́ ở bất cứ ngôn ngữ nào
cũng giống nhau. V́ vậy, đó chỉ là các thuộc tính ngữ âm học thuần tuư.
Tuy nhiên, dưới con mắt âm vị học, tài nguyên ngữ âm của các âm vị phải
được lựa chọn dưới con mắt của người bản ngữ (native), được tận dụng và
chọn lựa, được khai thác sao cho có lợi và hợp với hệ thống (cái tạng của
ngôn ngữ) của ḿnh nhất. Nói tóm lại, các nét ngữ âm đă biến thành các nét
âm vị học; từ cái chung, cái phổ quát trở thành cái riêng, cái đặc thù. Cả
một tiến tŕnh lịch sử phát triển của một hệ thống ngữ âm, từ lúc xa xưa
cho đến ngày nay, suy cho cùng, là sự chọn lựa và khai thác tài nguyên
nhân loại ấy cho tộc người ḿnh, cho cộng đồng nói năng cụ thể. Quá tŕnh
chọn lựa đó cũng chật vật, và có thể nói là “đầy máu và nước mắt”. Chính
v́ vậy, các nhà âm vị học hiện đại không quay lưng lại với lịch sử của một
ngôn ngữ mà t́m ở đó ra những hệ thống cứ liệu chắc chắn cho việc chứng
minh những chức năng của hệ âm thanh một ngôn ngữ. Phương pháp luận này
khác hoàn toàn với âm vị học cấu trúc luận xưa kia. V́ vậy, có thể nói, âm
vị học hiện đại là h́nh ảnh thu nhỏ một cách logic và có tính h́nh thức
hoá cao con đường phát triển của một hệ thống âm thanh một ngôn ngữ.
Đọc thêm:
Phân biệt ngữ âm học và âm vị học
Trở lại:
ví dụ trên đây, đối với âm vị học tiếng Việt, 3 âm môi đó được xử lí như
sau:
+ Âm [p] là âm bị thiếu bởi v́ âm vị này không
xuất hiện trong các từ thông thường của người Việt. Nó chỉ có trong các từ
vay mượn chủ yếu Ấn-Âu hoặc từ các ngôn ngữ khác. Ví dụ: pin, patê, pía
(tên một loại bánh)… Chính v́ vậy, rất nhiều người không nói là “đèn pin”
mà là “đèn bin”, hay “pa tê”
→
“ba
tê”…
+ Sự đối lập giữa vô thanh và hữu thanh trong tiếng Việt không hoàn toàn
rơ nét như trong các ngôn ngữ Ấn-Âu.
+ Các đặc điểm ngữ âm như: [mạnh/yếu], [dài/ngắn]… trong tiếng Việt không
được bộc lộ rơ ràng.
Nói tóm
lại, hàng loạt các đặc điểm ngữ âm đă được đặt sẵn cho 3 âm này trở nên dư
thừa và không có tác dụng ǵ đối với hệ thống âm thanh của tiếng Việt.
Ví dụ như:
Sự đối lập giữa [p] và [b] ở trong tiếng Anh đă tạo nên các biến thể khác
nhau, hay các biến thể của cùng một âm vị. Chẳng hạn như, khi /p/ đứng
trước (phụ âm đầu): pie [p'ai] => /p/
→
[p'] (Aspirated);
Nhưng
khi đứng ở sau âm tiết (phụ âm cuối) như: type [taip]
=> /p/
→
[p] (Plain).
Để có được
sự biến đổi như vậy của âm /p/, bên cạnh đặc tính vô thanh của c̣n một
thuộc tính thứ hai là đặc tính về cường độ và đặc tính về trường độ của âm
/p/. Những đặc tính này, khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ cấu tạo nên các
thuộc tính âm thanh làm nội dung âm vị học của âm /p/. Chúng ta có:
Nội dung
âm vị học của 3 âm môi trong tiếng Anh
[p]
= |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
+ Vô thanh
+ Mạnh (cường độ)
+ Ngắn |
[b]
= |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
- Vô thanh
- Mạnh (cường độ)
± Ngắn |
[m]
= |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
± Vô thanh
- Mạnh (cường độ)
- Ngắn |
Chính v́
tổ hợp của 4 thuộc tính [tắc, vô thanh, mạnh, ngắn] mà âm /p/ có thể trở
thành bật hơi hoặc không, theo những điều kiện xuất hiện của nó trong
những trường hợp cụ thể của tiếng Anh. Khi âm này xuất hiện ở đầu từ th́
nguồn năng lượng vẫn c̣n sung túc nên thuộc tính [mạnh] và [ngắn] đă kết
hợp với nhau tạo nên một âm bật hơi bao gồm một yếu tố tắc (/p/) và một
đoạn bật hơi sau khi đă hoàn thành cấu âm tắc.
Khi âm này
xuất hiện ở cuối từ, v́ năng lượng đă yếu đi do phải dải khắp từ đầu đến
cuối từ, nên âm /p/ chỉ c̣n giữ lại được giai đoạn tắc nhằm khu biệt các
từ mà thôi.
Chính v́ vậy, trong tiếng Anh, ngoài âm /p/,
các âm tắc khác cũng có sự biến đổi tương tự như vậy. Chúng ta có:
tea →
[t'i:]
key →
[k'i:]
Ta có, trong tiếng Anh, các âm:
a. [+tắc]
→
[+bật hơi] //đầu âm tiết
b. [+tắc]
→
[-bật hơi] //cuối âm tiết
/p/
= |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
+ Vô thanh
- Mũi |
/t/
= |
|
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Tắc
+ Vô thanh
- Mũi |
/k/
= |
|
+ PAT
+ Ngạc
+ Tắc
+ Vô thanh
- Mũi |
Khái niệm âm vị học
(phần hai)
C̣n đối
với tiếng Việt, việc chọn lựa tài nguyên này lại theo một cách hoàn toàn
khác. Giữa /b/ và /m/ có một "mối liên hệ chị em" với nhau. Ví dụ, đă từng
có mối liên hệ Việt-Mường giữa:
[-mũi]
[-vô thanh] |
|
bói |
↔
|
muối |
|
[+mũi] |
bó |
↔
|
mỏ (nước) |
c̣n đặc
tính [bật hơi] th́ lại không có liên quan ǵ giữa /p/ và /b/ mà lại liên
quan tới đặc tính [+tắc] và [+xát]. Hay, nói một cách khác, giữa [+bật
hơi] và [+xát] trong
tiếng Việt cổ
có một mối quan hệ.
[t']
[t']
[p']
[k'] |
[+bật hơi] |
|
thúng
thái
phúng
vụng |
↔
↔
↔
↔ |
sái
xái
vụng
gà |
|
[+xát] |
[s]
[s]
[v]
[γ] |
Như vậy,
luật âm vị học của tiếng Việt sẽ là:
a. | + tắc | | + tắc |
| - mũi | --> | + mũi | (bói <--> muối)
| + hữu thanh | | + hữu thanh |
b. | + xát | | + bật hơi |
| - vô thanh | --> | + vô thanh | (súng <--> thúng)
V́ hai
luật này chỉ nói đến phương thức tắc và xát mà không nói các đặc điểm bộ
vị (vị trí phát âm) nên nó có phạm vi hoạt động rất lớn, chẳng những cho
bộ vị môi mà c̣n cho cả các bộ vị khác nữa.
Ta có:
a.
/b/ = |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
- mũi
+ Hữu thanh |
|
/d/ = |
|
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Tắc
- mũi
+ Hữu thanh |
|
/g*/ = |
|
+ PAT
+ Ngạc
+ Tắc
- mũi
+ Hữu thanh |
|
bói
→
↓ |
|
muối |
|
đác
→
↓ |
|
nước |
|
?
→
↓ |
|
? |
|
/m/ = |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
+ mũi
+ Hữu thanh |
|
/m/ = |
|
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Tắc
+ mũi
+ Hữu thanh |
|
/ŋ/ = |
|
+ PAT
+ Ngạc
+ Tắc
+ mũi
+ Hữu thanh |
|
b.
/v/ = |
|
+ PAT
+ Môi
+ Xát
- Vô thanh |
|
/v/ = |
|
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Xát
- Vô thanh |
|
/γ/ = |
|
+ PAT
+ Ngạc
+ Xát
+
Vô thanh |
|
phúng
→
↓ |
|
vụng |
|
thái
→
↓ |
|
xái |
|
?
→
↓ |
|
? |
|
/p'/ = |
|
+ PAT
+ Môi
+ Bật hơi
+ Vô thanh |
|
/t'/ = |
|
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Bật hơi
+ Vô thanh |
|
/k'/ = |
|
+ PAT
+ Ngạc
+ Bật hơi
+ Vô thanh |
|
Quan sát
luật <b>, chúng ta nhận thấy: bên cạnh việc nhất loạt thuộc tính [+xát] có
liên quan tới thuộc tính [+bật hơi] nhưng thuộc tính về tính thanh th́ lại
không thống nhất. Khi th́ [-vô thanh] biến thành [+vô thanh] (ví dụ:
"vụng"
↔
"phúng", "gà"
↔
"kha") th́ lại có "thái" liên quan tới "xái" (từ [-vô thanh] lại
biến thành [-vô thanh]).
[-vô thanh]
→
[+vô thanh]
[-vô thanh]
→
[-vô thanh]
Thực tế
lịch sử ngôn ngữ cho thấy, đă có một thời ḱ tiếng Việt có những nhầm lẫn
nhất định giữa đặc tính [+vô thanh] và [+hữu thanh]. Có thể điều đó liên
quan đến
sự xuất hiện của thanh
điệu chăng? Các luật từ [-mũi]
→
[+mũi] hoặc là [-bật
hơi] →
[+xát] cho thấy tiếng Việt thuộc về cơ chế Mon-Khmer (các ngôn ngữ
Mon-Khmer sử dụng luật này). Nhưng, sự xuất hiện của các yếu tố này ở đầu
âm tiết (phụ âm đầu) cùng với sự không nhất quán về tính thanh trong các
luật (nhất là ở luật <b>) cho thấy nó bị ảnh hưởng bởi tiếng Hán cổ, tiếng
Thái rất nặng.
Do vậy,
khi biểu diễn âm vị học (phonological representation) đối với tiếng Việt,
người ta phải t́m đến những đặc điểm âm vị học của riêng tiếng Việt trong
tài nguyên phong phú và bao la của các thuộc tính ngữ âm đối với từng âm
mà ngữ âm học đă đề nghị. Căn cứ vào hai luật âm vị này, chúng ta thấy rơ
rằng, cấu trúc nét âm vị học của tiếng Việt là có tính tôn ti hoặc lớp
lang. Nghĩa là, có những thuộc tính ngữ âm chỉ là đi kèm và không quan
trọng. Và có những đặc tính ngữ âm là vô cùng quan trọng, quyết định đến
các tạng (status) ngữ âm của tiếng Việt, quyết định đến cả tiến tŕnh phát
triển lịch sử của hệ thống ngữ âm tiếng Việt trong suốt mấy ngàn năm qua.
V́ những
lí do này, các biểu diễn âm vị học của tiếng Việt là khác so với tiếng
Anh. Ví dụ, đối với loạt [+tắc], ta có:
Tiếng Anh:
/p/ = |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
+ Vô thanh
- Mũi |
/t/ = |
|
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Tắc
+ Vô thanh
- Mũi |
/k/ = |
|
+ PAT
+ Ngạc
+ Tắc
+ Vô thanh
- Mũi |
Tiếng
Việt:
/p/ = |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
- Mũi
(- Hữu thanh) |
/t/ = |
|
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Tắc
- Mũi
(- Hữu thanh) |
/k/ = |
|
+ PAT
+ Ngạc
+ Tắc
- Mũi
(- Hữu thanh) |
|
(-Hữu thanh)
[-vang] |
|
|
|
/b/ = |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
- Mũi
(+ Hữu thanh) |
/d/ = |
|
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Tắc
- Mũi
(+ Hữu thanh) |
/γ/ = |
|
+ ??? |
|
(+ Hữu thanh)
[+vang] |
|
|
|
/m/ = |
|
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
+ Mũi
(+ Hữu thanh) |
/n/ = |
|
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Tắc
+ Mũi
(+ Hữu thanh) |
/γ/ = |
|
+ PAT
+ Ngạc
+ Tắc
+ Mũi
(+ Hữu thanh) |
|
(+ Hữu thanh)
[+vang] |
→
Từ đó suy ra:
Phụ âm tiếng Anh Phụ âm tiếng Việt
_______|_______ _________|_______
| ________|________ ______|_____ |
| | | | | |
1. [+tắc] [+tắc] [+tắc xát] [+xát] [+bật hơi] [+tắc]
_____|_____ | ____|____
| | | | |
2. [-môi] [+môi] | [-HT] [+HT]
___|___ | ___|___ ____|____
| | | | | | |
3. [+VT] [-VT] [-VT] [+VT] [-VT] [+mũi] [-mũi]
Tóm lại,
các âm mà con người sinh ra, về mặt h́nh thức, đều có thể được biểu diễn
theo các ma trận ngữ âm học. Trong các ma trận này, người ta có thể liệt
kê tất cả những đặc điểm âm thanh có chứa trong luật âm. Những đặc điểm âm
thanh này có thể là các đặc điểm cấu âm, các đặc điểm âm học, các đặc điểm
thẩm nhận âm. Chúng tạo nên một vốn dự trữ về mặt tiềm năng cho việc thể
hiện một âm thanh cụ thể của con người. Những đặc điểm này là vô hạn, do
chỗ số lượng âm thanh là vô hạn và do các cách tiếp cận, xét về mặt lí
thuyết, với âm thanh con người là vô hạn (khoa học càng phát triển, trang
bị máy móc càng hiện đại, tối tân, các sắc thái tinh tế của một âm thanh
cũng dễ được phát hiện hơn). Đó chính là tài nguyên âm thanh của ngôn ngữ
loài người.
Nhưng con
người phải được quy tụ thành các cộng đồng nói năng khác nhau. Do các đặc
điểm về lịch sử và văn hoá khác nhau, các điều kiện sống khác nhau mà
phương tiện giao tiếp cũng khác nhau. H́nh thức âm thanh của mỗi một
phương tiện giao tiếp đó, suy cho cùng chính là một h́nh thức chiếm lĩnh
hợp pháp tài nguyên âm thanh của loài người. Cách sở hữu đó trở thành văn
hoá của một dân tộc, tạo nên cái tạng âm thanh của một ngôn ngữ.
Nếu ngữ âm
học là một ngành khoa học nghiên cứu về âm thanh theo nghĩa tài nguyên âm
thanh của nhân loại, th́ âm vị học lại được tạo ra cho một dân tộc, một
cộng đồng. Âm vị học là ngành nghiên cứu âm thanh của một cộng đồng ngôn
ngữ cụ thể, chính v́ vậy, nó có số lượng đơn vị hữu hạn, có cách thức
riêng để cấu trúc các âm vị lại thành một vỏ từ theo cách riêng của nó (Quy
luật kết hợp âm vị). Cuối cùng, các đặc điểm ngữ âm đă được biến thành các
nét khu biệt nhằm phác hoạ và nhận dạng theo một cách riêng đối với từng
âm vị của một cộng đồng. Ngữ âm học nghiên cứu cái chung, cái phổ quát (mang
tính nhân loại) c̣n âm vị học nghiên cứu cái riêng, cái đặc thù (mang tính
dân tộc, cộng đồng).
|