Lẫn lộn
phụ âm n và l
Thứ ba, 06 Tháng 8 2013 10:14
Nguyễn Cung
Thông
Số là tôi có đọc trên báo vài nhận xét của GS
Mai Văn Hai về vấn đề lẫn lộn phát âm n và l, tôi rất thích cách nh́n
này và xin được thêm vào vài nhận xét cá nhân:
Mai Văn Hai (viện Xă
Hội Học) về vấn đề lẫn lộn n-l - trích từ trang này
http://chuanoingong.wordpress.com/2012/12/29/muon-hoi-nhap-phai-phat-am-chuan-khong-noi-ngong/
“N” và “L” có quan
trọng ǵ đâu (?!)
Theo tôi, “n” hay “l”
có quan trọng ǵ đâu, cứ để cho người ta nói theo văn hóa ngôn ngữ vùng
miền vốn có của họ. Chẳng hạn, bao đời nay dân Việt Bắc vẫn gọi mẹ là “mế”,
vùng Trung du vẫn gọi là “bầm”, vùng B́nh – Trị – Thiên gọi là “mạ”,
người miền Nam gọi là “má”… th́ mọi người vẫn hiểu đấy thôi. Dân xứ Nghệ
phát âm dấu ngă thành dấu nặng hoặc dấu hỏi th́ vẫn được mọi người chấp
nhận như thường. Thậm chí, đối với tôi, đó c̣n là một cách phát âm rất
riêng mang tính bản địa vùng miền rất rơ. Nó góp phần làm cho vốn ngữ âm
thêm đa dạng và sinh động.
Trong quan điểm của
tôi, quan trọng nhất là trong giảng dạy, giáo viên phải giáo dục cho các
em học sinh nắm vững được khái niệm của từng từ ngữ để các em có được
những h́nh dung nhất định về nghĩa của từ, không bị lẫn lộn về ngữ nghĩa.
Ngoài ra, các thầy cô giáo cũng nên nhắc nhở học sinh phải viết đúng ngữ
pháp, không được đưa cách nói thường ngày của ḿnh vào văn bản viết. Bởi
nói ngọng có thể chấp nhận nhưng viết ngọng là không thể chấp nhận.
Chúng ta cũng chẳng
cần phải đặt ra một chương tŕnh lớn rồi bắt giáo viên phải làm theo hay
g̣ học sinh vào một chuẩn chung cứng nhắc. C̣n nếu làm như vậy chỉ với
chủ ư xây dựng nên một cách phát âm chuẩn của người Thủ đô th́ quả là
hơi khó. Bởi, Thủ đô Hà Nội vốn là nơi hội tụ của người dân ở nhiều vùng
miền, Hà Nội có được sự đa dạng và đặc sắc văn hóa như hiện nay chính là
nhờ sự “hội tụ” đó. Chúng ta nên đi t́m tinh thần riêng của Hà Nội để
làm nét đặc trưng hơn là lấy cách phát âm làm chuẩn.
PGS.TS Mai
Văn Hai
- Viện Xă hội học
Lẫn lộn n và
l khi nh́n từ trục không gian và thời gian, hai phụ âm đầu lưỡi này khá
dễ hoán chuyển cho nhau, hi vọng sẽ thấy vấn đề rơ hơn.
1. Âm cổ là
l nhưng âm tiếng (Hán) Việt là n, cũng như các phương ngữ Nam TQ vẫn có
khuynh hướng đọc l thành n như các thí dụ sau
1.1
Chữ lạm
爁
là chữ hiếm với tần số
dùng là 12 trên 171894734, thanh mẫu lai
來vận
mẫu đàm
談
hay diêm
鹽)
có các cách đọc
盧瞰切,音濫
lô khám thiết, âm lạm (QV,
TV, LT
力驗切,音瀲
lực nghiệm thiết, âm liễm
(TV, LT, TTTH
盧敢切
lô cảm thiết (QV, TV, LT, TVi
力蹔切
lực tạm thiết (NT) chữ
蹔
đồng
暫
(tạm)
盧甘切,音藍
lô cam thiết, âm lam (TV, LT)
...
Gọng BK bây giờ là làn
(theo pinyin) so với giọng QĐ laam4/laam6, giọng Hẹ lam3/lat7 và Triều
Châu/TC nan6 cho thấy khả năng lẫn lộn n và l trong giọng TC; tiếng Việt
c̣n dùng dạng nám (bây giờ) so với thời VBL viết là lám hay nám.
1.2
Chữ noăn
卵
có các cách đọc
盧管切
lô quản thiết (TVGT, ĐV, LT)
魯管切
lỗ quản thiết (TV, VH, CV, TG, TVi,
CTT 鸞上聲
loan thượng thanh
力管切
lực quản thiết (NT, QV)
落管反
lạc quản phản (LKTG)
公渾切
công hồn thiết (TV, LT)
公魂切
công hồn thiết (TVi)
音鯤
âm côn
力卷切
lực quyển thiết (TVi)
音孌
âm luyến
...v.v...
Giọng BK bây giờ là
luǎn (pinyin) so với các giọng QĐ leon2 leon5 lo5, giọng Hẹ lon3 và TC
luang2 hay neng6: giọng TC có khuynh hướng đọc lẫn lộn n và l như tiếng
(Hán) Việt.
1.3
Chữ long
攏
có các cách đọc (thanh mẫu lai
來
vận mẫu đông
東
thượng thanh
上聲)
力董切
lực đổng thiết (ĐV, QV, CV, TVi)
力董反
lực đổng phản (LKTG, CTT)- CTT ghi
thêm
音壟
âm lũng,TĐTAT ghi thêm
音隴
âm lũng
力同切
lực đồng thiết (NT, TTTH)
魯孔切
lỗ khổng thiết (TV, VH, LT)
盧東切,音聾
lỗ đông thiết, âm lung (TV, VH, LT
力東丶
lực đông chủ (TNTTĐTA
精嚴新集大藏音)
力公切
lực công thiết (TVi)
力容切
lực dong/dung thiết (CTT)- CTT ghi
thêm
音龍
âm long (TĐTAT)
...v.v...
Giọng BK bây giờ là lǒng (theo pinyin) so
với các giọng QĐ lung5, giọng Hẹ lung1 lung3 nung1 nung3 cho thấy khả
năng lẫn lộn n và l trọng giọng Hẹ ... Tiếng Việt c̣n dùng dạng nổng chỉ
chỗ đất vung lên (nổng đất) so với lũng
隴
và nống là nâng (đỡ) lên
(VBL/Béhaine).
2. Âm cổ là l, vẫn duy
tŕ trong tiếng (Hán) Việt, nhưng âm Bắc Kinh lại thành n như các thí dụ
sau
2.1 Chữ lộng
弄
có các cách đọc (thanh mẫu lai
來
vận mẫu đông
東
khứ thanh
去聲)
盧貢切
lô cống thiết (ĐV, QV, TV, VH, LT,
TVi, CTT, TĐTAT)
籠去聲
lung/lộng khứ thanh
盧貢反
lô cống phản (LKTG)
力貢切
lực công thiết (TVi)
...
Giọng BK bây giờ là
ṇng (thường hơn là cách đọc ḷng theo pinyin) so với giọng QĐ lung6
nung6, giọng Hẹ lung3 lung 6 nung3 nung6 ... Âm HV (lộng) đọc phù hợp
với phiên thiết tuy các giọng phía Nam TQ có khuynh hướng đọc l thành n.
2.2 Chữ liễn
輦
có các cách đọc (thanh mẫu lai
來
vận mẫu tiên
仙
thượng thanh
上聲)
力展切
lực triển thiết (TVGT, QV, TV, VH,
LT, CV, TVi)
力展反
lực triển phản (LKTG)
力展丶
lực triển chủ (TNTTĐTA
精嚴新集大藏音)
...v.v...
Giọng BK bây giờ là
niǎn (theo pinyin) so với các giọng QĐ lin5, giọng Hẹ lien3 lien6 len3
lian1 và âm HV là liễn.
2.3a Hay có trường hợp ngược lại, âm cổ hơn
là n nhưng trở thành l (chuẩn) trong Hán ngữ - xem trường hợp chữ
*nôm
罱
(nơm/nôm - dụng cụ bắt cá, thành
phần hài thanh là nam
南)
với các cách đọc (thanh mẫu lai
來
vận mẫu đàm
談
thượng thanh
上聲)
魯敢切,音覽
lô cảm thiết, âm lăm (QV, CTT)
女感切
nữ cảm thiết (NT)
乃感切
năi cảm thiết (LT, TVi)
音湳
âm nam
...
Vấn đề trở nên thú vị khi âm lăm (xem)
覽,
dựa vào khả năng hoán chuyển giữa l và n, trở thành dạng
nom
(ngạc cứng hóa thành
ḍm, nḥm
- chữ Nôm
Lẫn lộn n và l?
(phần 2)
Nguyễn Cung Thông (nguyencungthong@yahoo.com)
Phần 1 của bài viết1 "Lẫn lộn n và l?" giới thiệu các cách
nh́n khác nhau về hiện tượng lẫn lộn phụ âm n và l. Phần 2 này tiếp theo
cách nh́n mở rộng của phần 1 và chú trọng đến vốn từ Hán Việt và chữ Nôm,
các dữ kiện ngôn ngữ cho thấy hiện tượng lẫn lộn n và l đă có từ xưa đến
nay cũng như hiện diện trong các cách ghi âm tiếng Việt như chữ Nôm, chữ
quốc ngữ (La Tinh). Ngoài ra, các giọng miền Nam Trung Quốc/TQ như Quảng
Đông, Hẹ, Triều Châu cũng có khuynh hướng lẫn lộn n và l. Các tài liệu
tham khảo chính viết tắt trong bài là TVGT (Thuyết Văn Giải Tự, Hứa Thận
soạn khoảng 100 SCN), TVGT1 (Thuyết Văn Giải Tự 1, bản thời Tống năm
968), TVGT2 (Thuyết Văn Giải Tự chú giải viết bởi học giả nhà Thanh Đoàn
Ngọc Tài), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn
Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập
Vận/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154),
VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670),
HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986) …
VBL (từ điển Việt Bồ La/Annam-Lusitan-Latinh/Alexandre de Rhodes/1651) …
Các chỉ số đứng sau nguyên âm chỉ thanh điệu như lon3 hay số phụ chú (supescript).
1.
Âm cổ là l nhưng âm tiếng (Hán) Việt là n, cũng như các phương ngữ Nam
TQ vẫn có khuynh hướng đọc l thành n như các thí dụ sau
1.1 Chữ lạm
爁
là chữ hiếm với tần số dùng là 12 trên 171894734, thanh mẫu lai
來
vận mẫu đàm
談
hay diêm
鹽)
có các cách đọc
盧瞰切,音濫
lô khám thiết, âm lạm (QV, TV, LT)
力驗切,音瀲
lực nghiệm thiết, âm liễm (TV, LT, TTTH)
盧敢切
lô cảm thiết (QV, TV, LT, TVi)
力蹔切
lực tạm thiết (NT) chữ
蹔
đồng
暫
(tạm)
盧甘切,音藍
lô cam thiết, âm lam (TV, LT)...
Gọng BK bây giờ là làn (theo pinyin) so với giọng QĐ laam4/laam6, giọng
Hẹ lam3/lat7 và Triều Châu/TC nan6 cho thấy khả năng lẫn lộn n và l
trong giọng TC; tiếng Việt c̣n dùng dạng nám (bây giờ) so với thời VBL
viết là lám hay nám.
1.2 Chữ noăn
卵
có các cách đọc (thanh mẫu lai
來
vận mẫu hoàn
桓
thượng thanh
上聲,
hay vận mẫu qua
戈)
盧管切
lô quản thiết (TVGT, ĐV, LT)
魯管切
lỗ quản thiết (TV, VH, CV, TG, TVi, CTT) -
鸞上聲
loan thượng thanh
力管切
lực quản thiết (NT, QV)
落管反
lạc quản phản (LKTG)
公渾切
công hồn thiết (TV, LT)
公魂切
công hồn thiết (TVi)
音鯤
âm côn
力卷切
lực quyển thiết (TVi)
音孌
âm luyến
...v.v...
Giọng BK bây giờ là luǎn (pinyin) so với các giọng QĐ leon2 leon5 lo5,
giọng Hẹ lon3 và TC luang2 hay neng6: giọng TC có khuynh hướng đọc lẫn
lộn n và l như tiếng (Hán) Việt.
1.3 Chữ long
攏
có các cách đọc (thanh mẫu lai
來
vận mẫu đông
東
thượng thanh
上聲)
力董切
lực đổng thiết (ĐV, QV, CV, TVi)
力董反
lực đổng phản (LKTG, CTT)- CTT ghi thêm
音壟
âm lũng,TĐTAT ghi thêm
音隴
âm lũng
力同切
lực đồng thiết (NT, TTTH)
魯孔切
lỗ khổng thiết (TV, VH, LT)
盧東切,音聾
lỗ đông thiết, âm lung (TV, VH, LT)
力東丶
lực đông chủ (TNTTĐTA
精嚴新集大藏音)
力公切
lực công thiết (TVi)
力容切
lực dong/dung thiết (CTT) - CTT ghi thêm
音龍
âm long (TĐTAT)
...v.v...
Giọng BK bây giờ là lǒng (theo pinyin) so với các giọng QĐ lung5, giọng
Hẹ lung1 lung3 nung1 nung3 cho thấy khả năng lẫn lộn n và l trọng giọng
Hẹ ... Tiếng Việt c̣n dùng dạng nổng chỉ chỗ đất vung lên (nổng đất) so
với lũng
隴
và nống là nâng (đỡ) lên (VBL/Béhaine).
1.4 Chữ luy
羸
đọc theo phiên thiết
力爲切
lự vi thiết (QV),
倫爲切
luân vi thiết (TV, CV) nhưng thường đọc là nuy (Thiều Chửu). Một cách
đọc theo phiên thiết là
靈年切,音蓮
linh niên thiết, âm liên (TV), KH ghi là huyện danh ở Giao Chỉ.
2.
Âm cổ là l, vẫn duy tŕ trong tiếng (Hán) Việt, nhưng âm Bắc Kinh lại
thành n như các thí dụ sau
2.1 Chữ lộng
弄
có các cách đọc (thanh mẫu lai
來
vận mẫu đông
東
khứ thanh
去聲)
盧貢切
lô cống thiết (ĐV, QV, TV, VH, LT, TVi, CTT, TĐTAT)
籠去聲
lung/lộng khứ thanh
盧貢反
lô cống phản (LKTG)
力貢切
lực công thiết (TVi)
...
Giọng BK bây giờ là ṇng (thường hơn là cách đọc ḷng theo pinyin) so
với giọng QĐ lung6 nung6, giọng Hẹ lung3 lung 6 nung3 nung6 ... Âm HV (lộng)
đọc phù hợp với phiên thiết tuy các giọng phía Nam TQ có khuynh hướng
đọc l thành n.
2.2 Chữ liễn
輦
có các cách đọc (thanh mẫu lai
來
vận mẫu tiên
仙
thượng thanh
上聲)
力展切
lực triển thiết (TVGT, QV, TV, VH, LT, CV, TVi)
力展反
lực triển phản (LKTG)
力展丶
lực triển chủ (TNTTĐTA
精嚴新集大藏音)
...v.v...
Giọng BK bây giờ là niǎn (theo pinyin) so với các giọng QĐ lin5, giọng
Hẹ lien3 lien6 len3 lian1 và âm HV là liễn.
2.3a
Hay có trường hợp ngược lại, âm cổ hơn là n nhưng trở thành l (chuẩn)
trong Hán ngữ - xem trường hợp chữ *nôm
罱
(nơm/nôm - dụng cụ bắt cá, thành phần hài thanh là nam
南)
với các cách đọc (thanh mẫu lai
來
vận mẫu đàm
談
thượng thanh
上聲)
魯敢切,音覽
lô cảm thiết, âm lăm (QV, CTT)
女感切
nữ cảm thiết (NT)
乃感切
năi cảm thiết (LT, TVi)
音湳
âm nam
...
Vấn đề trở nên thú vị khi âm lăm (xem)
覽,
dựa vào khả năng hoán chuyển giữa l và n, trở thành dạng
nom (ngạc cứng hóa thành
ḍm, nḥm - chữ Nôm
𥈶);
để ư tương quan lăm
攬
và nắm. Tương tự như trên,
nản và lờn
là các biến âm của lăn
懶
(lười, chán, biếng - lăn BK) cũng như giọng Hẹ lan1 lan3 nan1 nan3,
giọng Triều Châu lang2 nang2
Lăn có các cách đọc
落旱切
lạc hạn thiết (QV)
魯旱切
lỗ hạn thiết (TV) - đồng lăn
嬾
(để ư cách dùng bộ nữ)
...落蓋切,音賴
lạc cái thiết, âm lại (TV)
...
Âm lại của lăn c̣n ra dạng lười tiếng
Việt.
2.3b
Trường hợp
tân lang
槟榔
(cây cau): tân có cách viết là
Tân đọc là bīn, bīng (giọng BK bây giờ) so với các giọng QĐ ban1, bin1
và giọng Hẹ bin1 ben1, tiếng Nhật và Hàn vẫn duy tŕ dạng bin - chỉ có
tiếng (Hán) Việt cho ra dạng tân (biến âm b/p thành t là hiện tượng
Trùng Nữu). Tân lang (bīn láng BK) có gốc là tiếng Mă Lai/Inđônêsia
pinang (nghĩa là cây cau) và phụ âm đầu
n- đă trở thành l-, có thể là cây cau nhập qua các vùng biển trước như
Triều Châu/TC nên có sự lẫn lộn giữa n và l; lang giọng Hẹ hay TC có thể
đọc là long2 hay nong2. Pinang c̣n là tên hai hải đảo (tây bắc Mă Lai và
phía đông tỉnh Johor của Mă Lai) v́ là nơi trồng nhiều cau. Đảo
Pinang/Penang từng được ghi là Binh Long đảo theo Génibrel2
(1898)
(Génibrel/1898)
2.4a Chữ lạc
樂
có các cách đọc (thanh mẫu nghi
疑
vận mẫu hào
肴
kh+' thanh
去聲,
hay vận mẫu giác
覺
nhập thanh
入聲,
hay thanh mẫu lai
來
vận mẫu đạc/khai
鐸開)
theo phiên thiết
五角切
ngũ giác thiết (TVGT2, ĐV, QV)
玉角切
ngọc giác thiết (TVGT1, QV, TTTH)
盧各切
lô các thiết (ĐV, QV, LT)
歷各切,音洛
lịch các thiết, âm lạc (TV, VH, CV)
逆角切,音岳
nghịch giác thiết, âm nhạc (TV, VH, CV, TVi)
力照切
lực chiếu thiết (TV)
力召切,音療
lực triệu thiết, âm liệu (CV, CTT)
魚敎切
ngư giáo thiết (TV, VH, CV)
盧谷切,音祿
lô cốc thiết, âm lộc (VB)
魯刀切,音勞
lỗ đao thiết, âm lao (ĐV)
力弔切
lực điếu thiết (TVi)
音料
âm liệu
如角切
như giác thiết (TV)
乙角切
ất giác thiết (TV)
丑照切
sửu chiếu thiết (TV) - có lẽ đây là một vết tích của biến âm l-s (lực-sức,
lăng-sóng, lạp-sáp ...).
...v.v...
Lẫn lộn n (nh) và l đă hiện diện thời Tập Vận (năm 1037/1067). Cũng như
năm/lăm, ṇng/ḷng, nên/lên, nhạc/lạc tuy cùng một gốc nhưng tiếng Việt
dùng phụ âm n và l cho các phạm trù nghĩa khác hơn: lạc để chỉ vui (an
lạc) so với nhạc (âm nhạc).
2.4b
Lẫn lộn n và l c̣n hiện diện trong các cách phiên thiết - chữ liêm/niêm
溓
Chữ
溓
có các cách đọc (thanh mẫu lai
來
vận mẫu thiêm
添
hay diêm
鹽)
勒兼切,音濂
lặc kiêm thiết, âm liêm (QV, TV)
離覽切,音廉
li lăm thiết, âm liêm (TV, TVi)
力鹽切
lực diêm thiết (TVGT)
良冉切
lương nhiễm thiết (QV)
力冉切,音斂
lực nhiễm thiết, âm liễm (TV, LT, TVi)
力忝切
lực thiểm thiết (QV)
盧忝切
lô thiểm thiết (TV)
泥占切,音粘
nê chiêm thiết, âm niêm (TV, CV, LT)
乎監切,音銜
hồ giam thiết, âm hàm (TV, LT)
乎韽切,音陷
hồ am thiết, âm hăm (TV, LT
兩減切,音臉
lưỡng giảm thiết, âm kiểm (TV, LT)
犁針切,音林
lê châm thiết, âm lâm (TV, LT)
勒兼反
lặc kiêm phản (LKTG)
力忝反
lực thiểm phản (LKTG)
里兼切
lí kiêm thiết (NT)
里忝切
lí thiểm thiết (NT)
...v.v...
Giọng BK bây giờ là lián, liǎn, nián, xián, xiàn (HNĐTĐ ghi các âm lián,
liǎn, xián, xiàn, nián, lín) so với giọng QĐ lim4/lim5 và giọng Hẹ
liam2/liam3. Ít nhất là từ thời Tập Vận
(1037/1067) ta thấy đă có ghi sự lẫn lộn n và l qua phiên thiết, và Tập
Vận cũng trích Thuyết Văn (khoảng 100 SCN) và Khang Hi trích âm niêm đă
có từ thời Lễ Kư!
2.4c Chữ hiếm
摎
(Unicode 644E) với tần số dùng là 11 trên 171894734, xưa dùng như nạo
撓
có các cách đọc (thanh mẫu kiến
見
vận mẫu hào
肴
b́nh thanh
平聲,
hay thanh mẫu lai
來
vận mẫu vưu
尤
b́nh thanh
平聲);
giọng BK bây giờ là jiū liáo jiāo nǎo so với giọng QĐ gau1 lau4, giọng
Hẹ liu7 lau1, kieu1 kiu1 ...v.v...
居求切
cư cầu thiết (TVGT, ĐV)
居尤切,音鳩
cư vưu thiết, âm cưu (TV, VH, LT, TVi)
力求切,音留
lực cầu thiết, âm lưu (ĐV, QV, TV, LT)
力周切
lực chu thiết (TVGT2, NT, TTTH)
力交切,音寥
lực giao thiết, âm liêu (TV, LT)
離昭切,音繚
li chiêu thiết, âm liễu (TV)
居虬切,音樛
cư cầu thiết, âm cù (TV, LT)
古肴切
cổ hào thiết (ĐV, QV)
居由切
cư do thiết (NT, TTTH)
居肴切,音交
cư hào thiết, âm giao (TV, LT)
古巧切,音絞
cổ xảo thiết, âm giảo (TV)
女巧切,鐃上聲
nữ xảo thiết, nao thượng thanh (TV, LT)
經由翻
kinh do phiên (BH
佩觿)
là cây cù
樛,
nhưng
摎
đọc là lưu
留
居休切,音鳩
cư hưu thiết, âm cưu (CTT)
...v.v...
Thành phần hài thanh
翏
đọc là *liệu, nhưng thời Tập Vận đă có ghi âm *niêu (nao > nhiễu); đây
là lí do chữ
摎
từng dùng như nạo
撓
- tiếng Việt c̣n duy tŕ các biến âm náo, nao,
nháo (nhốn nháo) và nhao (nhao nhao, lao nhao), năo so với dạng
líu (không dùng một ḿnh, vết tích là từ láy
líu lo). Các tài liệu (Hán cổ) về vận bộ không thấy ghi phụ âm
đầu n- so với phụ âm k- và l-, do đó các dạng âm cổ phục nguyên thường
là *kau hay *liəu, hay dạng tổng hợp *nriu. VBL (1651) c̣n ghi các
cách dùng líu, làm líu díu (gây huyên náo) hay láo dáo;
Béhaine/Taberd (1772/1838) ghi nói lịu (nói lẫn), lịu miệng
... So với các từ láy lao nhao, lao xao
vẫn c̣n hiện diện trong tiếng Việt.
2.4d Uỷ
諉
hay duỵ có các cách đọc (thanh mẫu nương
孃
vận mẫu chi B hợp
支B合
khứ thanh
去聲)
女恚切
nữ khuể thiết (TVGT, NT, QV, ĐV, TV, VH, CV, TVi)- TVi ghi đọc như
音內
âm nội (nèi BK bây giờ), CTT ghi đọc như
音謂
âm vị (wèi BK bây giờ)
女恚反
nữ khuể phản (LKTG)
邕危切,音逶
ung nguy thiết, âm uy (TV)
於爲切
ư vi thiết (TViB)
音威
âm uy
烏貴切
ô quư thiết (CTT)
音謂
âm vị
女慧切
nữ tuệ thiết (CTT)
弋睡切
dặc thuỵ thiết (TV)
而睡切,音汭
nhi thuỵ thiết, âm nhuế (TV)...
Hai dữ kiện đáng chú ư cho âm uỷ (uy) này là các dạng ngạc cứng hoá duỵ
hay nhuế (theo TV) và khả năng từng dùng như chữ luỹ
壘
(theo Đoàn Ngọc Tài). Do đó, khuynh hướng lẫn lộn n và l đă từng hiện
diện trong cổ thư TQ!
3.
Vết tích lẫn lộn n và l c̣n thấy trong tự điển VBL (1651) như
Lám - dùng như nám (hoa tàn)
Nên mười tuổi - bây giờ thường dùng lên mười tuổi- so với cách
dùng nên một, nên hai (Béhaine/Taberd-1772/1838)
Năm - lăm (nhăm/dăm - ngạc cứng hóa) – VBL ghi rơ cách dùng mười lăm,
hai mươi lăm …
Cái ống súng bây giờ thường dùng là ṇng súng (ḷng súng/Trương
Vĩnh Kư/1884 - canon d'un fusil) - xem từ điển Vallot3 bên
dưới
...v.v…
(P.G. Vallot/1898)
4. Lẫn lộn n-l trong chữ Nôm
Lẫn lộn n-l không chỉ hiện diện từ thời chữ La Tinh (quốc ngữ) ra đời,
nhưng thường gặp hơn trong chữ Nôm4 như
Nếu
chữ Nôm viết là
𠮩
(liễu) c̣n đọc là lếu, lẻo, niểu ...
Neo
鐐
(liêu)
Năn
bộ khẩu + chữ lân (lân) 粦
-
năn nỉ
Lăm
南五
(nam)
Lốm
bộ thảo + chữ nam (nốm)
南
- Nguyễn Khuyến
Nặn
bộ thủ + chữ lân
吝
(lận) Hồ Xuân Hương/HXH
Nấp
bộ thổ + chữ lập (lập)
立
HXH
Lội
bộ khẩu + chữ nội
內
(nội) HXH
Nương
bộ nhật/thủ + chữ lương
良
(lương)
Nén
bộ thủ + chữ liễn
輦
(liễn)
Lom
bộ thân + chữ nam
南
(nam) - lom khom ...
Lầm
chữ ngộ + chữ nhâm
任
(nhầm, lầm) - ngạc cứng hoá l > nh.
...v.v...
Nguyễn Khuyến, HXH ... đều từng ở các vùng Hà Bắc, Hà Nam.
Các phụ âm đầu lưỡi l,r và mặt lưỡi sh (s giọng Nam VN), ch thường xuất
hiện sau nhất trong quá tŕnh đắc thụ tiếng mẹ đẻ (language acquisition)
- so với các âm môi m, p (mẹ mợ mụ mê má mẫu ... ba bố bu ...) xuất hiện
rất sớm. Điều này dễ hiểu v́ các phụ âm l,r hay th ... đ̣i hỏi các kết
hợp phức tạp hơn của môi, lưỡi và họng. Phụ âm l có nhiều cách đọc
(allophones) và do đó là một trong những âm phân biệt rất rơ nét giữa
các ngôn ngữ hay phương ngữ: thí dụ như long (rồng) khi nhập vào tiếng
Hàn trở thành yong (ngạc cứng hoá), cũng như lục (số sáu) trở thành yuk
... Phụ âm l tiếng Hán lại có thể trở thành phụ âm r tiếng Nhật như lục
(số sáu) trở thành roku (riku). Hiện tượng lẫn lộn l-n hiện diện ở các
vùng Nam TQ và Bắc VN cũng không làm cho ta ngạc nhiên: tiếng (giọng)
Mường5 (Bi) c̣n dùng nồng là ḷng, hay lơn là
non
Thăng đói p̣ pao nồng măng nă
(thằng bé ḅ vào ḷng mẹ)
Lơn ối
(quả ổi non) - so với tiếng HV nộn
媆
hay
嫩,
giọng Hẹ vẫn c̣n các dạng nun3 và lun3……
Không phải ngẫu nhiên mà ngôn ngữ tiếng Anh là language, langue (Pháp)
... đều có gốc là tiếng La Tinh lingua (cái lưỡi, lời nói - tiếng Thái
lín
ลิ้น)
so với tiếng Việt lời (nhời - ngạc cứng hoá) nói, lưỡi ... Tiếng Quảng
Đông c̣n dùng chữ
脷
(Unicode 8137, ĺ BK lei6 QĐ) để chỉ cái lưỡi. Hi vọng các dữ kiện trên
cho ta cơ hội suy nghĩ thêm về hiện tượng lẫn lộn n và l, và cứ nhất
định cho rằng đọc l thành n hay ngược lại là SAI th́ e rằng ta có thể
mất đi một số thông tin quan trọng trong quá tŕnh h́nh thành tiếng Việt.
5. Phụ chú và phê b́nh thêm
Người đọc
có thể tra cứu thêm về vấn đề lẫn lộn n và l trên báo chí gần đây, như
các trang
http://giadinh.net.vn/xa-hoi/cac-chuyen-gia-dau-nganh-hien-ke-sua-tat-noi-ngong-muon-hoi-nhap-phai-phat-am-chuan-20111117094830788.htm
hay
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/49846/tranh-luan-sua-noi-ngong-l-va-n-o-viet-nam.html
...v.v... Có nhiều ư kiến rất khác nhau về hiện tượng lẫn lộn n và
l, từ đề nghị cần phải tích cực chữa sai nói ngọng n/l ngay trước khi
trở thành một loại bệnh dịch, cho đến ư của các GS Mai Văn Hai hay
Nguyễn Văn Hiệp trích từ các trang
http://chuanoingong.wordpress.com/2012/12/29/muon-hoi-nhap-phai-phat-am-chuan-khong-noi-ngong/
hay
http://bachhuong2.blogtiengviet.net/2011/11/30/a_na_van_a_la_cas_quan_trar_ng_gan_khaan
“N” và
“L” có quan trọng ǵ đâu (?!)
Theo
tôi, “n” hay “l” có quan trọng ǵ đâu, cứ để cho người ta nói theo văn
hóa ngôn ngữ vùng miền vốn có của họ. Chẳng hạn, bao đời nay dân Việt
Bắc vẫn gọi mẹ là “mế”, vùng Trung du vẫn gọi là “bầm”, vùng B́nh – Trị
– Thiên gọi là “mạ”, người miền Nam gọi là “má”… th́ mọi người vẫn hiểu
đấy thôi. Dân xứ Nghệ phát âm dấu ngă thành dấu nặng hoặc dấu hỏi th́
vẫn được mọi người chấp nhận như thường. Thậm chí, đối với tôi, đó c̣n
là một cách phát âm rất riêng mang tính bản địa vùng miền rất rơ. Nó góp
phần làm cho vốn ngữ âm thêm đa dạng và sinh động.
Trong
quan điểm của tôi, quan trọng nhất là trong giảng dạy, giáo viên phải
giáo dục cho các em học sinh nắm vững được khái niệm của từng từ ngữ để
các em có được những h́nh dung nhất định về nghĩa của từ, không bị lẫn
lộn về ngữ nghĩa. Ngoài ra, các thầy cô giáo cũng nên nhắc nhở học sinh
phải viết đúng ngữ pháp, không được đưa cách nói thường ngày của ḿnh
vào văn bản viết. Bởi nói ngọng có thể chấp nhận nhưng viết ngọng là
không thể chấp nhận.
Chúng
ta cũng chẳng cần phải đặt ra một chương tŕnh lớn rồi bắt giáo viên
phải làm theo hay g̣ học sinh vào một chuẩn chung cứng nhắc. C̣n nếu làm
như vậy chỉ với chủ ư xây dựng nên một cách phát âm chuẩn của người Thủ
đô th́ quả là hơi khó. Bởi, Thủ đô Hà Nội vốn là nơi hội tụ của người
dân ở nhiều vùng miền, Hà Nội có được sự đa dạng và đặc sắc văn hóa như
hiện nay chính là nhờ sự “hội tụ” đó. Chúng ta nên đi t́m tinh thần
riêng của Hà Nội để làm nét đặc trưng hơn là lấy cách phát âm làm chuẩn.
PGS.TS Mai Văn Hai – Viện Xă hội học
(hết trích)
"Về khái niệm chuẩn, như thế nào là chuẩn? Mà ngôn ngữ lại không ngừng
phát triển. Như “n” và “l”, trong tương lai, hai âm này nhập làm một,
không có sự phân biệt th́ sao? Nói "ngọng" l/n thực chất là cách người
ta vu vạ cho một đặc điểm phương ngữ của một số vùng nào đó mà thôi.
Tôi nghĩ, viết là chính tả, th́ phải đúng, c̣n nói th́ kệ người ta. Bây
giờ chả nhẽ bắt người Huế phát âm đúng dấu hỏi, dấu ngă? Bây giờ hết Hà
Nội n,l rồi triển khai trong Huế bắt giáo viên phải phân biệt “nghĩ ngợi”
với “nghỉ ngơi” th́ làm sao người ta làm được? Bây giờ bắt người Hà Nội
phát âm từ “uống rượu” với từ “hưu trí” và từ “hiểu biết” xem, họ sẽ
phát âm “-ươu”, “-ưu” và “-iểu” giống nhau, làm sao mà coi là chuẩn được.
Tóm lại, viết th́ phải đúng, c̣n nói mà bắt sửa th́ là chuyện tào lao …"
- GS Nguyễn Văn Hiệp, trích từ trang
http://www.baomoi.com/Chua-ngong-ln-la-chuyen-tao-lao/59/7348419.epi
1) Nguyễn Cung Thông/Trần Thị Lan, 2011 "Lẫn lộn n và l" - có thể xem
toàn bài trang này
http://khoahocnet.com/2012/01/04/nguy%E1%BB%85n-cung-thong-tr%E1%BA%A7n-th%E1%BB%8B-lan-l%E1%BA%ABn-l%E1%BB%99n-n-va-l/
hay
http://www.trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=8020&catid=7
…v.v… hoặc
(Xem bài đọc thêm dưới đây)
2) Génibrel J. F. M. "Dictionnaire annamite francais" Saigon: Imprimerie
de la Mission à Tân Dinh, 987 pp. (Saigon, 1898)
3) Vallot P. G. "Dictionnaire Franco-tonkinois Illustré" F. H. Schneider
Impremeur-Editeur (Ha Noi, 1898)
4) Nguyễn Quang Hồng (Chủ biên) "Tự điển chữ Nôm" NXB Giáo Dục (Hà Nội,
2006). Các chữ Nôm khác trích từ "Đại Tự Điển chữ Nôm" - Nguyễn Văn Kính
(NXB Văn Nghệ, Thành phố HCM, 2005).
5) Nguyễn Văn Khang (Chủ biên) "Từ điển Mường-Việt" NXB Văn Hoá Dân Tộc
(Hà Nội, 2002). Người viết (NCT) xin thành thật cám ơn bác Nguyễn Hữu
Tưởng (Viện Hán Nôm) đă hướng dẫn lên Hoà B́nh (Kim Bôi, tháng 12/2008)
và gặp một số gia đ́nh người Mường để bàn luận thêm chi tiết.
Nguyễn
Cung Thông & Trần Thị Lan – Lẫn lộn n và l?
04.01.2012
Bài này tóm tắt vài trao đổi (qua email)
gần đây về hiện tượng lẫn lộn hai phụ âm đầu n và l trong tiếng Việt.
Hi vọng sẽ cho thấy vài cách nh́n khác nhau về đề tài thú vị này, cũng
như bạn đọc có cơ hội suy nghĩ thêm về những đặc tính của tiếng Việt –
như bài viết mới đây của anh Nguyễn Xuân Quang
http://vanhac.org/12/xoa-ngong-nl.html hay anh Nguyễn Hữu Đạt trang
http://huudat.vn/ShowArticle.aspx?ID=973 …v.v… Cần phân biệt số chỉ
thanh điệu (như số 2 trong lung2 nung2) và số phụ chú ghi ngay sau một
chữ (như nhận2). Người viết tin rằng càng nhiều người viết và
nghiên cứu về ngôn ngữ chúng ta th́ càng t́m ra được nhiều vấn đề thú vị
hơn nữa.
22/11/2011 from Tran Thi, Lan
Thưa các thầy cô,
Hôm trước tôi có đọc bài phỏng vấn của Vietnamnet khi nói tới chuyện
ngọng l/n, trong đó GS Hiệp và GS Dơi nói rằng l/n là phương ngữ, không
thể sửa, và không cần phải sửa.
Nếu báo chí đưa tin là chính xác th́ tôi xin phép được hỏi các thầy cô,
các thầy cô có đồng t́nh với nhận định trên của hai vị GS không ạ.
Theo tôi, lẫn lộn l – n là ngọng, Nhầm lẫn l / n là lỗi phát âm. Đă là
lỗi th́ cần được chỉnh sửa tại trường học chính thống.
Các lỗi này di sang tiếng Anh. Tại các lớp tiếng Anh tôi đă chỉnh sửa
cho học sinh và thường lâu nhất là 1 tuần th́ sửa được. Cá biệt có những
trường hợp lâu hơn, nhưng có sự cảm nhận tiến bộ rơ rệt (sửa như thế nào
th́ về cơ bản tôi chưa nhận thấy hướng đi đúng trong các phát biểu về
sửa lỗi này của những người đă được hỏi ư kiến).
Chúng ta cần phân biệt môi trường học đường khác với môi trường ngoài xă
hội. L/N trong xă hội (phi chính thống) th́ có thể không ai để ư, nhưng
trong các cảnh huống giao tiếp trang trọng hoặc qui thức chuẩn mực th́
ngọng l/n luôn gây ấn tượng tiêu cực cho chủ thể ngôn ngữ.
Hiện tượng này không thể đánh đồng với các trường hợp tiếng địa phương
như q-g, v- dz như phương ngữ Nam bộ, hay các trường hợp nhầm lẫn dấu.
Tuy nhiên, các dấu khi nói th́ có thể chấp nhận, nhưng khi viết th́ tối
kị bởi luôn được coi là lỗi chính tả.
Hàm cái ǵ được coi là LỖI th́ cần phải được nhà trường chỉnh sửa.
Cảm ơn các thầy cô đă đọc và mong nhận được phản hồi của các thầy cô về
vấn đề này.
Chúc các thầy cô khỏe.
PS. Tôi đang tranh thủ đọc các phần đă in trong kỉ yếu của một số báo
cáo viên. Có thể trong tương lai tôi xin tiếp tục được hỏi một số vấn đề
trong đó. Rất cám ơn các thầy cô.
Lan
22/11/2011 from Tom Nguyen/Nguyễn Cung Thông
Chị Lan kính,
Vấn đề phụ âm đầu lưỡi mà chị nói đến như l/r (A) là những phụ âm đ̣i
hỏi khả năng liên hợp lưỡi, môi, họng … và là những phụ âm cuối cùng
trong quá tŕnh đắc thụ ngôn ngữ1 (language acquisition).
Cũng v́ thế mà sản sinh một số phương ngữ: như tiếng Mỹ khác tiếng Anh,
Úc, Tô Cách Lan … Và dĩ nhiên người Trung Hoa, Nhật, Hàn và Việt cũng có
một số vấn đề khi đọc các phụ âm trên (rơ nét nhất là khi đọc tiếng Anh).
Sống bên Úc qua 4 thập niên và phải dùng tiếng Anh để mưu sinh hàng ngày,
tôi rất đồng ư với chị – có điều tôi có một đề nghị nhỏ là không gọi đọc
l thành n là LỖI, mà là cách đọc KHÁC hơn (nhiều khi người đọc không ư
thức được) so với lúc viết chúng (phạm vi qui ước lớn hơn) . Thành ra,
cần phải giải thích sự KHÁC biệt này có thể dẫn đến hiệu năng truyền
thông nghèo nàn khi dùng ngoại ngữ2 (td. tiếng Anh), cũng như
các yếu tố phát âm khác (thanh điệu, cách dùng chữ …). Tôi cảm thông
phần nào với GS Dơi ở ngoài Bắc nên quen với sự lẫn lộn n-l hơn là trong
Nam hay ở nước ngoài …
Vài ư mọn rất vắn tắt thân gởi
Nguyễn Cung Thông/NCT
(A) giọng Hẹ (Hakka, ở vùng biển Đông TQ, thuộc Mân Việt cổ đại) cũng có
khuynh hướng đọc long – nong, lang – nang …v.v…
Vùng Kiên Giang (Rạch Giá) đọc phụ âm r thành g (cuối lưỡi)
24/11/2011
Thưa thầy Nguyễn Cung Thông,
Cảm ơn thầy ạ.
Cảm phiền thầy giải thích giùm tại sao lại không được gọi l/n là lỗi ạ?
Cũng bởi người nói không nhận thức được, không phân biệt được nên tôi tự
động gọi vấn đề này, như đă nói ở thư trước là họ bị chứng mù từ. Thầy
có đồng ư họ bi mắc một chứng gọi là dyslexia không ạ?
Tất nhiên, một dạng dyslexia đặc biệt, nếu xét từ góc độ vô thức và
không có khả năng phân biệt hai âm đó ạ.
Cảm ơn thầy
Lan
24/11/2011
from Tom Nguyen/Nguyễn Cung Thông
Chị Lan kính,
1. Chị hỏi ‘Cảm phiền thầy giải thích giùm tại sao lại không được
gọi l/n là lỗi ạ?’
Thật ra tôi không có ư bắt buộc ai cả – chỉ muốn gợi ư (đề nghị, từ một
ư mọn nhất thời) mà thôi. Nếu lời văn tôi viết có ư đó th́ thành thật
xin lỗi trước … Đây là những lúc hiếm hoi dùng tiếng Việt trong các hoạt
động hàng ngày …
2. Có lẽ vấn đề sẽ rơ hơn khi nh́n rộng ra chăng? Như kéo dài các trục
không gian và thời gian ra – tạm thời giữ yên các vấn đề chánh tả, chánh
âm, qui ước …
2.1 Không gian: lẫn lộn l/n hiện diện trong các giọng Quảng Đông, Hẹ
(Triều Châu) … Như nông (nông nghiệp) c̣n đọc là
nung4 lung4 (giọng Quảng Đông), lung2 nung2 (Hẹ), long5 (Mân Nam/Đài
Loan) … So với nóng (nong2 – giọng Bắc Kinh) …
…v.v…
Giọng Hẹ (phần tô đậm trên bản đồ, ở tỉnh Phúc Kiến TQ, bờ biển Quảng
Đông … thuộc Mân Việt cổ đại) có khuynh hướng lẫn lộn l/n rơ nét nhất
trong các phương ngữ TQ hiện nay. Thành ra hiện tượng lẫn lộn l/n không
chỉ giới hạn ở Bắc Bộ VN.
2.2 Thời gian: thí dụ như liên hệ lên-nên chẳng hạn, tự điển Việt Bồ La
(1651) từng ghi nhận3 cách dùng ‘nên mười tuổi’ (bây
giờ th́ hầu như ai cũng nói là lên mười tuổi). Các cách dùng
lăm, năm và nhăm cũng đáng chú ư, so với ḷng ṇng …v.v…
Lúc c̣n bé, tôi nghe giọng Quảng (Nam …) như lồm (làm), nôm (nam)(A) như
ngọng vậy, nhưng từ ngày học hỏi thêm Hán Nôm (cho đến bây giờ), tôi đă
thay đổi quan niệm hồi nhỏ đó … Mẹ tôi (chúng tôi gốc làng Kim Lũ, Hà
Đông trước đây) vẫn đọc giăng, tôi th́ lại đọc là chăng nhưng viết là
trăng, đấy là tôi đă theo qui ước của các trường học từ nhỏ.
3. Với đề nghị là nh́n hiện tượng lẫn lộn l/n như là một cách đọc KHÁC
thay v́ LỖI, tôi nghĩ là có thể ta nh́n vấn đề tích cực hơn (dẫn đến các
cách sửa hay thêm kỹ năng phát âm để tăng hiệu năng truyền thông, nhất
là khi học và dùng một ngoại ngữ như tiếng Anh chẳng hạn) mà tránh tạo
một mặc cảm thua kém hay thiếu khả năng (hay tiêu cực, lỗi th́ phải cần
dứt bỏ) cho người học … Ngoài ra, khi chối bỏ hiện tượng l/n trong tiếng
Việt, tôi sợ rằng ḿnh mất đi một số thông tin quư giá của ngôn ngữ
(lịch đại) chăng?
Vài ư mọn thân gởi,
NCT
(A) theo thiển ư, cách đọc Nôm thay v́ Nam (chữ Nôm) từ Nam ra Bắc … từ
Kiên Giang đến Thừa Thiên …, là một dấu ấn thời-không gian (time-space
impression) của thời kỳ chữ Nôm cực thịnh (thế kỷ XII, XIII) và cũng là
lúc dân Việt ổn định ở vùng Bắc Trung Bộ (giọng Quảng).
Thay lời kết luận
Các trao đổi trên phản ánh bản chất phức tạp của vấn đề lẫn lộn n/l: từ
thổ ngữ, phương ngữ cho đến đặc tính vùng (areal feature – đồng đại)
theo trục không gian; và vết tích của sự lẫn lộn n/l trong quá tŕnh
h́nh thành tiếng Việt theo trục thời gian (lịch đại). Ngoài ra, hiện
tượng lẫn lộn n/l có phải là một hội chứng4 (bệnh) từ lăng
kính y khoa hay không? Hi vọng bạn đọc sẽ thấy thích thú và t́m ṭi thêm
về các đặc tính của tiếng Việt.
Phụ chú và phê b́nh thêm
Bạn đọc có thể tham khảo thêm các trao đổi trên diễn đàn Viện Việt Học
trang
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?20,56261 hay trên báo chí,
các blogs…v.v…
1) Quá tŕnh đắc thụ ngôn ngữ (language acquisition)
Các phụ âm đầu lưỡi l,r và mặt lưỡi sh (s giọng Nam VN), ch thường xuất
hiện sau nhất trong quá tŕnh đắc thụ tiếng mẹ đẻ – so với các âm môi m,
p (mẹ mợ mụ mê má mẫu … ba bố bu …) xuất hiện rất sớm. Điều này dễ hiểu
v́ các phụ âm l,r hay th … đ̣i hỏi các kết hợp phức tạp hơn của môi,
lưỡi và họng.
2) Có nhiều trường hợp người Quảng Đông TQ khi học tiếng Anh thường lẫn
lộn phụ âm đầu (initial consonant) n và l, người Nhật lẫn lộn l và r …
Trường hợp người Việt học tiếng Anh th́ có tác giả* nêu lên sự lẫn lộn
của phụ âm cuối (final consonant) l và n mà không thấy nói đến sự lẫn
lộn của phụ âm đầu n và l. * Hwa-Froelich, Hodson & Edwards (2003:269)
3) Tự điển Việt Bồ La ghi ‘nên mười tuổi’ (bây giờ th́ ai cũng
viết là lên mười tuổi), Tự điển Taberd (1838/1772) ghi ‘nên một, nên
hai’ … Cho đến thời Hùinh Tịnh Của vẫn c̣n ghi là ‘nên một, nên
hai’ (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, 1895).
Chữ Nôm
南五
trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập/HĐQATT (thế kỷ XV) ghi lăm bằng chữ nam
南
(biểu âm) hợp với chữ ngũ
五
(biếu ư) cũng cho thấy sự lẫn lộn n/l của âm năm và lăm. Một dạng chữ
Nôm neo (cái neo) dùng thành phần hài thanh liêu …v.v…
‘lưng mềm yểu
diệu mười *năm tuổi’
(HĐQATT)
Một dạng chữ Nôm lăm c̣n ghi băng chữ ngũ ghép với chữ lâm
林
‘mười bốn mười
lăm’
(Truyền Kỳ Mạn Lục, thế kỷ XVI) . Điều đáng chú ư là giọng Triều (Tiều)
Châu đọc lâm là lim5 hay ning5
4) Người viết có đọc qua vài trường hợp mà người nói khi c̣n bé phân
biệt được n và l, nhưng khi trưởng thành lại nói lẫn lộn giữa n và l (ảnh
hưởng môi trường chung quanh, nghề nghiệp …).
nguyencungthong@yahoo.com
|