Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

MỘT SỐ TỪ BIẾN ÂM TRONG TIẾNG VIỆT MIỀN NAM

Nguyễn Viết Sơn

Vào thế kỷ XVII, do việc chúa Nguyễn Phước Nguyên (1613 - 1635) gả công nữ Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp Chư Chetta II năm 1620 và gả công nữ Ngọc Khoa cho vua Chiêm Thành Pô Romê năm 1631 (1) mà lănh thổ Việt Nam thời bấy giờ mở rộng đến vùng Bà Rịa, Đất Đỏ và người Việt Nam từ Đàng Trong đă vào đây sinh sống, buôn bán, làm nghề thủ công kể hàng mấy ngàn người, định cư đến Bến Cá, Cù Lao Phố, Mĩ Tho, Hà Tiên v.v... (2) Rồi từ năm 1698, dưới thời chúa Nguyễn Phước Chu (1691 - 1725), Nguyễn Hữu Cảnh vào miền Nam kinh lí, tổ chức hành chánh, lập dinh trấn, mở rộng bờ cơi th́ đoàn người từ các tỉnh miền Trung vào Nam ngày càng đông đảo, đă mang theo ngôn ngữ của họ, phối hợp với từ ngữ, cách phát âm của người địa phương và trải qua một thời gian dài giữ lại, biến đổi hoặc bỏ đi để h́nh thành một hệ thống ngôn ngữ Nam Bộ. Do đó „phương ngữ Nam Bộ là kết quả của một quá tŕnh biến đổi liên tục và mạnh mẽ về mặt phát âm cũng như từ ngữ trong suốt thời kỳ lịch sử tạo dựng ra nó. (3)“

Ở đây, chỉ nói riêng về mặt phát âm, một số vần trong tiếng Việt Miền Nam đă có nhiều biến đổi so với âm chính của tiếng Đàng Trong, Đàng Ngoài. Sự biến đổi này có nhiều lí do, đó là có thể do thói quen kiêng cử tên các bậc vua chúa, quan lại, những người có thân thế, hoặc do xă giao, lịch sự, hay một lư do nào khác mà thay đổi đi. Điều đó có thể thấy trong các vần theo các bảng đối chiếu sau đây:

Bảng 1

(1)

(2)

(3)

Âm chính

Âm biến đổi

Ví dụ

[I]

[ơi]

th́ > thời (thời gian, lỡ thời, tức thời)  quí > quới (phú quới, nguyệt quới, quới nhơn)

[u]

[o]

du > do (Châu Do) vũ > vơ (vơ trang, vơ bị, thượng vơ) phù > pḥ (pḥ tá, pḥ hộ, pḥ trợ)

[âu]

chu > châu (châu vi, châu về hiệp phố);  thu > thâu (thâu thanh, thâu ngân)

[ư]

[ơ]

thư > thơ (tiểu thơ, thơ lại, thơ từ)

 

Bảng 2

(1)

(2)

(3)

Âm chính

Âm biến đổi

Ví dụ

[ai]

[ơi]

thái > thới (thới b́nh; bĩ cực thới lai); giái > giới (khí giới, giới luật). Ở từ này, có khi không kiêng cử: Trư Bát Giái

[am]

[ơm]

đảm > đởm (đởm lược) đàm > đờm (ho có đờm)

[an]

[ôn]

bản > bổn (bổn sao, Nhựt Bổn)

[ơn]

đàn > đờn (đờn bà, đờn ca tài tư)

[ương]

đan > đương (đương đệm, đương đó đặt lờ)

[yên]

an > yên (b́nh yên, cúng ḱ yên (cầu an)

[ang]

[ương]

đàng>đường; tràng>trường;  cang> cương; đang > đương (đảm đương)

[anh]

[iêng]

cảnh > kiểng (một kiểng hai quê (huê); thành > thiềng (thị thiềng): „Muốn lên non t́m con chim lạ Ở chốn thị thiềng chim chạ thiếu chi“  (Ca dao)

[ao]

[iêu]

dao > diêu (tiêu diêu cực lạc)   

[at]

[iêt]

cát > kiết (an cư kiết hạ)

Bảng 3

(1)

(2)

(3)

Âm chính

Âm biến đổi

Ví dụ

[âc]

[ưc]

bậc > bực (bực thềm, thứ bực)

[ân]

[ơn]

chân > chơn (chơn mày, lộng giả thành chơn)

[ưn]

chân > chưn (đố ai con rít mấy chưn)

[ât]

[iêt]

thật > thiệt (thiệt thà)

[âu]

[I]

cầu > ḱ (cúng ḱ yên)  

 Bảng 4

(1)

(2)

(3)

Âm chính

Âm biến đổi

Ví dụ

[ênh]

[ang]

mênh > mang (tánh mạng, số mạng)

[inh]

kênh > kinh; bệnh > bịnh; lệnh > lịnh; lênh láng > linh láng; lênh đênh > linh đinh

 Bảng 5

(1)

(2)

(3)

Âm chính

Âm biến đổi

Ví dụ

[ia]

[ai]

nghĩa > ngăi (nhơn ngăi, Quảng Ngăi)

[inh]

[anh]

tính > tánh; chính > chánh; sinh > sanh; lĩnh > lănh

 

[ăng]

b́nh > bằng (công bằng)

 

[iêng]

minh > miêng (thơ cậu Hai Miêng)

 Bảng 6

(1)

(2)

(3)

Âm chính

Âm biến đổi

Ví dụ

[ong]

[ung]

tông > tung (tung tích)

[uông]

long > luông (Hàm Luông, Yên Luông Tây

[ôn]

[un]

rốn > rún (nhau rún)     

[ông]

[ương]

hồng > hường (hường nhan, má hường, bông hường (trồng hường thời phải che hường)

[ơp]

[ap]

hợp > hạp (hạp nhăn, thích hạp)

[iêp]

hợp > hiệp (hảo hiệp, Liên Hiệp Quốc)

 Bảng 7

(1)

(2)

(3)

Âm chính

Âm biến đổi

Ví dụ

[uc]

[uôc]

cục > cuộc (bưu cuộc, chi cuộc, cuộc thuế)

[ước]

phúc > phước (phước đức, làm phước, có phước) trúc > trước

[ung]

[ong]

dung > dong (h́nh dong: trông mặt mà bắt h́nh dong; h́nh dong chải chuốt) tùng > ṭng (ṭng bá, ṭng phụ)

[ương]

phụng > phượng (phượng hoàng, thờ phượng)

[ưi]

[ơi]

gửi > gởi (kí gởi, thưa gởi, gởi thơ)

[ươi]

[ơi]

cưỡi > cỡi (cỡi ngựa)

 Bảng 8

(1)

(2)

(3)

Âm chính

Âm biến đổi

Ví dụ

[oa]

[uê]

huê (huê kiểng, huê tĩnh) ḥa > huề (hai đội banh huề nhau, huề thượng)

[oan]

[uơn]

hoàn > huờn (cao đơn huờn tân) hoăn > huỡn (tŕ huỡn, huỡn đăi)

[oang]

[uynh]

hoàng > huỳnh (huỳnh đế, họ Huỳnh)

[oat]

[uơt]

hoạt > huợt (huợt bát; ăn đu đủ cho dễ huợt)

 Bảng 9

(1)

(2)

(3)

Âm chính

Âm biến đổi

Ví dụ

[oai]

[uy]

oai (oai phong, oai dũng) thụy > thoại (Nguyễn Văn Thoại)

[uyên]

[oan]

duyên > doan (duơn): làm doan làm phước thuyền > thoàn (thủy phi thoàn) tuyền > toàn (Cam Toàn)

[uơn]

nguyên > nguơn (Tết nguơn đán, thượng nguơn) quyền > quờn (quờn thế, cầm roi đi quờn)

[uyêt]

[uơt]

duyệt > duợt (duợt binh, tập duợt)

 

[oat]

nguyệt > ngoạt (tứ ngoạt tam vương)

Sự biến âm trong một số từ của Tiếng Việt miền Nam nói trên thường diễn ra mạnh mẽ, liên tục và thường thấy nhiều nhất trong khẩu ngữ. Về sau, trong văn học viết, nhất là khi phương tiện truyền thông (như báo chí) phổ biến rộng răi, sự giao lưu của miền này với miền kia đă tác động, ảnh hưởng với nhau th́ sự biến âm không c̣n sâu sắc như trước. Người ta có thể nói „thời gian“, „th́ giờ“; „b́nh an“, „b́nh yên“; „đang lúc, đương lúc“; „số mệnh, số mạng“; „lănh lương, lĩnh lương“ v.v...

Mặt khác, do việc biên soạn, sử dụng sách giáo khoa, việc sáng tác văn chương, nghiên cứu văn học, dần dần tiếng Việt được chuẩn hóa, nhất là đă bớt dần sự biến âm trong tiếng Việt miền Nam. Người miền Nam bớt dần cách nói „huờn thuốc, ḥa huỡn, nguơn đán“ v.v... Có lẽ các từ ngữ này phát âm hơi khó chăng? Nhưng có một tiếng cần nói ở đây là „duợt“ (có lẽ kiêng tên Lê Văn Duyệt), nhiều người nói sai thành „dượt“, rồi „dợt“ (tập dợt)

Mặt khác, nhờ hiểu được cách biến âm ấy mà ta biết được âm gốc để viết đúng chính tả, và để có thể hiểu được hơn cách nói của người miền Nam khi đọc các sách báo xuất bản những năm đầu thế kỷ XX, ở miền Nam.

 

Nguyễn Viết Sơn

 

(1)               Nguyễn Khắc Xuân: „Chín đời chúa mười ba đời vua Nguyễn“, NXB Thuận Hóa, Huế, 1996.

(2)               Nguyễn Đ́nh Đầu: „Trước năm 1698 đă có người Việt Nam tới buôn bán và định cư rải rác trong đồng bằng sông Mêkông và sông Mênam Chao Phraya“, tạp chí Xưa Nay số 37, tháng 3, 1997.

(3)               Nguyễn Văn Ái: „Tiếng Việt vùng đồng bằng sông Cửu Long“ trong „Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long“ Viện văn hóa xuất bản, năm 1981, tr.157.

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17