|
Một Vài Suy Nghĩ Về Hán Tự Kể từ năm 1998 đến nay, tôi đă về Việt Nam vài lần. Tại Úc, tôi cũng có cơ
hội được tiếp xúc với nhiều sinh viên Việt Nam du học. Trong những dịp về nước
và giao lưu nầy tôi tiếp thu được nhiều tiếng Việt “mới” bao gồm cả tiếng Nôm và
tiếng Hán Việt. Những tiếng “mới” mà tôi được biết có nhiều từ rất hay, xúc tích
và chính xác nhất là những thuật ngữ khoa học. Tuy nhiên, cũng có những từ nghe
không thuận tai và ngượng ngịu làm sao. Việc "thoát ly Hán tự" cũng đă xảy ra tại Hàn Quốc, một nước chịu ảnh hưởng tiếng Hán. Chính phủ Hàn Quốc hô hào dân chúng dùng hangul (như hiragana, katagana cuả tiếng Nhật) thay cho Hán tự. Việc nầy đưa đến một thế hệ mù Hán tự, lẫn lộn những chữ đồng âm dị nghĩa. Trước nguy cơ nầy, chính phủ lại khuyến khích dùng Hán tự trở lại bằng cách chua tiếng Hán bên cạnh hangul cho những từ chính trị, triết học, khoa học v.v…Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc/Triều Tiên nằm trong hệ văn hoá Hán tự, nhưng điều nầy không có nghĩa những nước "ngoại vi" phải rập khuôn Hán tự Trung Hoa. Người Nhật đă "phát minh" một số chữ Hán riêng cho họ gọi là "kokuji" (quốc tự). Nhiều từ ngữ đă được địa phương hóa, chẳng hạn như tiếng Hán Nhật "benkyo" (học hành, study) dịch ra âm Hán là "miễn cưỡng" (có lẽ việc học hành là một việc miễn cưỡng hay chăng?!) hay là "hiniku" (mỉa mai, sarcastic) có âm Hán là "b́ nhục" (b́ = da, nhục = thịt), hoàn toàn không có ư nghĩa nguyên thủy của tiếng Hán. Trong tiếng Trung Quốc "hoan lạc, khoái lạc" nói đến sự vui vẻ về mặt tinh thần nhưng khi chuyển sang tiếng Việt th́ trở thành một chuyện "vui vẻ" về mặt …. nhục thể. Khu Footscray cuả thành phố Melbourne là nơi có nhiều cư dân Việt Nam . Ở đây có một tiệm bán bàn ghế giường chiếu. Ông chủ tiệm có lẽ là người Hoa. Bảng hiệu cửa tiệm có đề một ḍng chữ Hán "Hoan Lạc Gia Cụ Điếm" đọc theo tiếng Trung Quốc th́ không có ǵ phải thảng thốt cả. Ông chủ lại viết thêm một ḍng tiếng Việt "Tiệm giường Hoan Lạc" mà mỗi lần tôi lái xe đi ngang cũng phải vừa gật gù vừa buộc miệng ph́ cười…… Câu "Kim ngọc măn đường" (vàng ngọc đầy nhà) là một câu chúc tụng cực kỳ phong nhă nhưng mà đem tặng cho người Nhật Bản th́ quả là không nên! Ai học tiếng Nhật cũng biết rằng phát âm cuả chữ "kim ngọc" là "kintama" (tinh hoàn, testicle)! Mặc dù có vài phân biệt trong ư nghĩa Hán tự ở mỗi nước, nhưng sự giao lưu văn hóa cuả các nước "đồng văn" cũng đưa đến nhiều mặt tích cực trong việc phát triển ngôn ngữ. Trong hệ văn hoá Hán tự, Nhật Bản là nước đầu tiên canh tân theo Âu Tây. Họ đă dịch những từ khoa học sang Hán tự như: vật lư, hóa học, lượng tử, qủi đạo, cố thể, lưu thể, nguyên tử, phân tử, vi tích phân v.v… hoặc những từ chính trị như: diễn thuyết, kinh tế, dân chủ chủ nghĩa, xă hội chủ nghĩa…. [2]. Những từ nầy được người Trung Quốc "mượn" trở lại dùng thoải mái và lưu truyền đến Việt Nam. Gần đây, tôi học lại Hán tự qua những bài Đường Thi. Tôi bỗng "khám phá" rất nhiều từ mà từ xưa tôi vẫn nghĩ là tiếng Nôm mà thật ra là Hán Việt. Chẳng hạn như: triền miên, yểu điệu, đảm đang, xán lạn, bàng hoàng, quần áo, hiểu (understand), lan can (ex: cái lan can cầu thang)…. "La tinh" hoá tiếng Việt thành chữ Quốc ngữ thay cho chữ Nôm rườm rà là một cuộc cách mạng trong ngôn ngữ Việt Nam. Nhưng chữ Quốc ngữ càng ngày càng làm người Việt Nam xa rời cái ư nghĩa cuả tiếng Hán Việt cũng như người Hàn Quốc đă hấp tấp chủ trương chỉ dùng hangul vài năm trước đây. Nhiều người không phân biệt được "măi" (= mua) và "mại" (= bán) nên cứ lẫn lộn "khuyến măi" và "khuyến mại". Cũng có người đặt tên cho con cháu hoặc tự đặt bút hiệu bằng những từ Hán Việt đọc rất "kêu" nhưng ư nghĩa th́ rỗng tuếch buồn cười, đôi lúc vô t́nh lại có nghĩa xấu mà không hay biết! Trong một bài viết năm 1975 [3], ông Nghiêm Toản phân tích sự lầm lẫn và hiểu sai trầm trọng ư nghĩa một số chữ Hán Việt, thí dụ như có nên dùng chữ "tân giai nhân" để chỉ cô dâu trong tiệc cưới hay không, "tỵ hiềm" và "hiềm khích" khác nhau như thế nào. Các ông Cao Xuân Hạo và Lê Anh Minh đă viết nhiều bài biên khảo có giá trị về Hán tự và ảnh hưởng của nó đến ngôn ngữ Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam [1,4]. Ba mươi năm trước đây ông Nghiêm Toản đă nhiều lần hô hào học tiếng Hán để
làm giàu tiếng Việt v́ ông biết "người học chữ Việt mà không biết ǵ về chữ Hán
th́ sẽ đưa đến một kết quả tai hại vô cùng" [3]. Cái sai cứ dùng măi sẽ trở
thành cái "đúng", v́ vậy cần phải có những tiêu chuẩn đặt ra để làm dồi dào và
trong sáng tiếng Việt. Một trong những tiêu chuẩn đó là Hán tự. Tôi nghe Bộ Giáo
Dục Việt Nam cho phép dạy tiếng Nhật như là một sinh ngữ trong các giáo tŕnh
cấp hai cấp ba. Đọc và viết tiếng Nhật đ̣i hỏi sự hiểu biết trên dưới 2000 chữ
Hán. Như vậy, nếu có chương tŕnh Hán tự được thực hiện chung cho môn tiếng Việt
lẫn tiếng Nhật th́ thật là "nhất cử tam tứ tiện" và đây cũng là một phương pháp
hữu hiệu để tránh những ḍng chữ khập khễnh đọc chướng tai ở những nơi công cộng:
"Ga đi quốc tế" "Cảng Hàng Không" hay là "Phi Trường" "Không Cảng"?!
|
Xin vui ḷng liên lạc với
haphuonghoai@gmail.com về tất cả
những ǵ liên quan đến trang web nầy
|