|
Thử Đi t́m Cái tương đương Trong Phiên dịch
Góp ư với giáo sư Trịnh Nhật
Diệu Tần
Trên liên mạng, trang ViệtNgữ2020, ông Trịnh Nhật, nguyên giảng sư Đại
học Miền Tây Sydney (University of Western Sydney, Australia) có bài
viết bàn về phiên dịch"Thử đi t́m cái tương đương trong phiên dịch".
Bài biên khảo liên hệ đến ngôn ngữ của tác giả rất có giá trị, công phu
và khá đầy đủ. Bài viết đă được đăng liên tiếp ba kỳ trên tạp chí Thế Kỷ
21, năm 1999.
Qua công tŕnh biên khảo này, người đọc sẽ thấy rơ hơn những khó khăn
trở ngại của người biên dịch và thông dịch. Mặt khác, bài viết cũng là
một bài học dành cho những ai ưa thích nghề dịch thuật. Tác giả c̣n cho
người đọc hiểu thêm một số Anh ngữ hiện đang sử dụng ơ ûU¨c, cũng như
với một văn phong dí dỏm, đôi khi hài hước, khiến người đọc không bị
nhàm chán, v́ biên khảo thường khô khan.
Với kinh nghiệm giảng dạy ngôn ngữ và làm việc tại đài phát thanh B.B.C.
Luân Đôn, ông đă có nhiều năm từng trải, vật lộn với chữ nghĩa cả Việt
lẫn Anh. Tôi xin bày tỏ ḷng quư trọng và cám ơn ông. Tiện đây tôi cũng
mạn phép góp đôi lời thô thiển, mong tác giả và độc giả góp thêm ư kiến.
3.1 Ư niệm màu sắc
Từ xưa Việt Nam chúng ta có ư niệm chỉ có màu xanh, không phân biệt rơ
blue hay green. Nhưng khỏang từ 7,8 chục năm nay tôi nghĩ chúng ta đă có
ư niệm phân biệt rơ blue và green. Nhất là ở miền Trung, đồng bào nói
màu lục (diệp lục tố); xanh dương, lam. C̣n màu vàng yellow cũng đă có ư
niệm gọi màu vàng tươi sẫm là hoàng yến, nghệ và cam. Màu vàng ngả về
màu xanh gọi là vàng chanh. Thực ra theo thuật ngữ hội họa chúng ta
không có màu trắng và màu đen, hai thứ đó không được gọi là màu.
3.3 Ư niệm về "anh chị em"
Tác giả viết: Người Việt ḿnh xem chừng không coi trọng, không quan tâm
nhiều đến kẻ dưới bằng người phương Tây, và điều này có thể thấy rơ hơn
khi người Việt Nam giới thiệu nhau trong lúc gặp gỡ. Lúc đó ta thường
không giới thiệu "trẻ em". Điều này không đúng với thực tế. Hiện nay
chúng ta biết ở hải ngoại và ở trong nước nữa, chúng ta chú ư đến trẻ em
nhiều lắm. Ở cả hai phương trời các bà mẹ đều không dám sinh con nhiều,
nên trẻ em được cưng chiều nhiều hơn (trong gia đ́nh đủ sống và giàu có).
- Tôi nghĩ từ "tiết hạnh" dịch là chastity tạm được. Ngoài ra ư niệm
tiết hạnh đă xưa rồi, trên thực tế, ở trong và ngoài nước. Từ nửa thế kỷ
nay, đă có câu than văn
Văn minh Đông Á trời thu sạch
Này lúc cương thường đảo ngược ru?
Hiếm chuyện thủ tiết, hầu như không có cảnh quạt nồng ấp lạnh nữa. Phải
nh́n thẳng vào thực trạng xă hội và gia đ́nh để đau đớn thấy rơ trước
mắt. Do đó khi dịch tiết hạnh và hiếu, tam ṭng. Chỉ nên thêm cho đó là
cổ ngữ (archaic) tiện bề phiên dịch.
4.2 Trong trường hợp cá biệt, trước sự hiện diện của những người
giải thích luật và thi hành luật pháp, tôi nghĩ từ gentleman và lady có
thể dịch tạm là "người vô tội". Gọi họ là người lịch sự, đàng hoàng e
không đúng chỗ và mỉa mai.
- Nhảy vào thuật ngữ pháp luật, ṭa án nước bản ngữ là chuyện rắc rối. Ư
niệm "de facto partner" chỉ c̣n cách tạm dịch là "thực trạng bạn sống
chung không hôn thú". Tôi đề nghị gặp những thuật ngữ, những từ chuyên
môn, nên dịch theo lối cắt nghĩa.
4.3 Tác giả c̣n tạm dịch "problems" là lỗi và đưa thí dụ: lỗi tại tinh
trùng (sperm problems); lỗi ở ống dẫn trứng (Fallopian problems). Nghe
tiếng "lỗi" thấy hơi kỳ kỳ, tuy rằng có lỗi hẹn, lỗi thề, đan lỗi (sai).
Thông thường chúng ta dùng lỗi để chỉ sự sai lầm của con người, ít dùng
cho loài vật và vật dụng Thí dụ: Lỗi tại ai? Lỗi tại anh tại ả, tại cả
đôi bên. Nếu nói ống dẫn trứng bất thường; ống dẫn trứng có trở ngại có
lẽ hợp hơn .
- Từ "rice" th́ "imported rice" phải là "gạo nhập khẩu" v́ rất hiếm nhập
khẩu thóc, rice fields phải là ruộng/đồng luá, green rice phải là đồng
lúa xanh, rice bubbles là bọt cơm sôi, boiled/ steamed rice là cơm nấu/
thổi và cơm hấp/thố. Tôi cũng có tiếp cận với sinh viên quân nhân Mỹ các
ngành học tiếng Việt suốt hai mươi năm, phải giảng thật kỹ cho họ hiểu
thế nào là lúa; thóc, gạo, cơm. Chúng tôi chỉ thêm cho họ thế nào là
cháo và thế nào là xôi.
4.4 Tác giả nói đến ngôn ngữ ngọn thiếu từ cá biệt hyponym. V́ về house
nhà cửa khó chọn được từ tương đương. Tôi t́m thấy thêm, ngoài những từ
tác giả đă nêu: dinh thự, sảnh đường, thính đường, hội trường, căn phố,
nhà song lập, tứ lập.
- Cũng như từ cooking nấu ăn, khó chọn từ cho tương xứng chứ tiếng Việt
c̣n có thể kể thêm: nướng than, bỏ ḷ, đồ (xôi), nướng gạch, nướng vỉ,
nhúng, lẩu, ninh (hầm), ram, hon, kho, nướng xâu, kho cháy cạnh.
- Về động từ "to wear", Việt Nam không có từ tổng thể nhưng rất giàu từ
liên hệ đến to wear. Giống như to carry mà tác giả đă tạm giải thích v́
dân Việt Nam gốc là nông nghiệp và làm nông nghiệp rất lâu đời. Cho nên
từ về khoa học kỹ thuật, triết học th́ ít là vậy. Cũng như dân da đỏ ở
bắc Mỹ, một dân tộc ít người có đến 20 từ chỉ về cá hồi (salmon). V́
họ sinh sống bắng nghề đánh bắt cá hồi, sống chết với cá hồi, buồn vui
v́ cá hồi.
- Tác giả có ngạc nhiên là sao từ "to loose" (thua, bại) Việt Nam có
nhiều mà từ to win lại có ít. Thưa có nhiều lắm: được, thắng, đạt, có ưu
thế, trội hơn, vượt, sống c̣n, thành công, đè bẹp, hạ (đối phương), trên
chân, nghiền nát (đối phương)&..Tiếng Việt không thiếu ǵ từ chỉ ư niệm
thắng. Trong lịch sử, chúng ta có thắng và có bại.
- 4.5 Bàn về hai ngôn ngữ khác nhau về mô thức kết hợp ngữ (collocational
patterns), Tôi có đọc lại quyển "Hồi kư Nguyễn Hiến Lê", riêng phần dịch
thuật ông dành 7 trang để nói sơ về phiên dịch, tôi trích đoạn sau đây
để thấy các học giả chúng ta khi dịch cũng đă kỹ càng, cẩn thận lắm:
Tác giả Nguyễn Hiến Lê kể lại: ông Vi Huyền Đắc không dịch câu: "Nous
nous connaissions depuis l'âge des chaussettes" của Pháp là: "Chúng tôi
biết nhau từ khi c̣n đi vớ ngắn" (v́ trẻ em Việt rất ít khi đi vớ); cũng
không dịch là:"Chúng tôi biết nhau từ khi c̣n để chỏm" v́ trẻ em Pháp
không để chỏm); mà dịch là "Chúng tôi biết nhau từ khi hỉ mũi chưa sạch",
cũng đă là khéo chuyển lắm, độc giả chỉ thấy xuôi tai thôi ít ai nhận
được công phu của người dịch.
- Tác giả dịch đùa cho vui từ "strong tea", "wash hair", "delivery a
baby"chứ không ai dịch là trà khỏe, rửa tóc, giao đứa bé cả.
- Từ "top" là áo, từ mấy chục năm gần đây chúng ta có thêm nhiều từ chỉ
cái áo; áo cổ lọ, cổ tim, áo cánh len, áo chui đầu, áo "lu", áo khoác,
áo đuôi tôm, áo ba lỗ (T shirt), xường xám (tiếng Quảng Đông), váy ngắn,
váy dài, vớ mỏng, áo viền đăng ten.
- Riêng bàn về từ giả (false, forged) th́ forged/ false signature c̣n có
thể dịch là mạo chữ kư; "reproduction painting; replica statue" c̣n có
thể dịch là bức tranh sao chép, bức tượng sao chép.. Từ giả có hàm ư chê
trách, việc làm bất hợp pháp, bất hợp lệ, c̣n reproduction và replica
không có ư đó.
- Từ black đen. Chưa bao giờ tôi nghe thấy gọi con ḅ màu đen là con ḅ
hóng. Có lẽ đây là một lỗi đánh máy sai chăng? Bồ hóng hay mồ hóng là do
những cặn than, khói kết tụ lại do khói than củi bốc lên trong bếp.
Chúng ta có câu: Đen như bồ hóng". Riêng khói huyền trong câu thơ phổ
nhạc "khói huyền bay lên mây" không phải là khói màu đen mà là khói
huyền ảo (illusion, visionary smoke, sợi khói thuốc lá mơ màng uốn éo bay
lên cao.
Tác giả nói người "nghiền cờ bạc". Có lẽ dịch "heavy gambler" là người
mê cờ bạc đúng hơn là nghiền. Nghiền/ nghiện chỉ dùng để chỉ thói quen
ăn, uống, hút, ngửi & như nghiện thuốc lá, nghiện rượu, nghiện ma tuư,
nghịên hơi hướm, ít ai nói nghiền cờ bạc.
- Một sự t́nh cờ là ở miền nam , không biết từ bao giờ đă có câu : "lạnh
cẳng, rét" là hàm ư sợ sệt, nhút nhát trùng hợp với "to have cold feet"
của tiếng Anh.
4. 6.2 Câu thành ngữ / tục ngữ "Cháy nhà ra mặt chuột" ngoài nghĩa đen
và nghĩa bóng tác giả nêu lên c̣n hàm ư: Khi xảy ra biến cố tai nạn mới
thấy rơ những kẻ xấu xa, mới biết ai xấu ai tốt, ai là người tin cậy
được, ai là kẻ bất tài, vô dụng.
- Bảng đề trước cửa "Đại sứ quán Oâtxtrâylia" với tôi, xướng lên nghe
tạm được, nhưng nh́n vào có điều ǵ không ổn. Bởi nếu dùng từ Hán-Việt
như thế, ông đại sứ phải gọi là sứ thần, không gọi là "ông đại sứ được.
Từ "quán" xưa quá, ảnh hưởng nặng từ Trung Quốc, chưa kể quán là quán cà
phê, quán bia ôm à? Tại sao phải tránh chữ đề "Toà đại sứ
Úc" ?
5.5 Từ "chemical castration" dịch ra là "dùng thuốc để thiến" dĩ nhiên
không xuôi rồi. Nếu muốn tránh từ diệt dục theo triết lư nhà Phật, nên
dùng thử " tiêm thuốc triệt dâm" được chăng?
- Bàn về body language, tác giả c̣n thử dịch là thái độ, hành động có lẽ
chưa được
chỉnh. Hành động là act/ action, nên đổi là động tác (movement), thái độ
là attitude nhiều khi không biểu tỏ bằng cử chỉ mà bằng tiếng nói hay
chữ viết qua thư từ, công văn.
- Từ "ngôn ngữ loài vật" (animal laguage), có lẽ thừa một từ ngữ v́ loài
vật không có chữ viết, nên gọi là "tiếng nói loài vật".
6. Phần kết luận
Từ ai khải quá mới lạ (obituary). Orbituary có hai nghĩa; Bài ai điếu/
điếu văn và bài viết về tiểu sử người chết. Bà Judy Stowe chắc chắn chỉ
viết tiểu sử chứ không mắc mớ ǵ bà phải viết ai điếu khóc ông Tôn Đức
Thắng. Có lẽ theo chủ trương vô tư trung thực từ xưa của Đài BBC, bà ta
sẽ không có giọng điệu khen hay chê quá đáng. Vậy figurehead có ghi
trong từ điển Webster's Ninth New Collegiate giải nghĩa một là h́nh
tượng gắn trên mũi tàu thuyền, hai là chỉ có danh thôi, không có quyền.
Vậy dịch là "bù nh́n" quá nặng, mà nên dịch là: Ông Tôn Đức Thắng giữ
chức vụ tượng trưng/ chức vụ trên danh nghĩa (như nhiệm vụ của Nữ hoàng
Anh, vua Nhật bản).
Nói chung bài viết của giáo sư Trịnh Nhật rất bổ ích. Đúng như lời ông
nói, ông tạm ngưng bởi viết về đề tài này phải kéo đến 10 bài nữa mới
hết.
Dịch thành ngữ, tục ngữ ca dao đă khó, theo tôi dịch lời nhạc và dịch
thơ c̣n khó gấp bội. Bà Thái Thanh, cô Y' Lan khi hát bài "Giết người
trong mộng" cứ cất cao giọng măi:
Giết người đi! Giết người đi! ...
Dịch không khéo sẽ là là chuyện phản ư tác giả, là kêu gọi mọi người hăy
phạm tội ác giết người đi!!
Dịch thơ Nguyễn Du trong truyện Kiều c̣n khó hơn
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Phiên dịch sao cho xuôi mà vẫn giữ được ư của tác giả là muốn tả cô Thuư
Vân phúc hậu, hiền lành, tuy không tài hoa bằng cô chị.
Tả cái chí tự do vẫy vùng của Từ Hải, vẫn có nhà khoa bảng dịch sai câu
sau đây, v́ ông hiểu sai nghĩa từ "đàn":
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo
Đàn ở đây không phải là guitare mà là một loại ná, nỏ đời xưa. Do đó
chúng ta thấy không những người dịch phải thông thạo ngôn ngữ gốc và
ngọn, c̣n phải thông thạo cả thứ tiếng góp phần tạo ra ngôn ngữ gốc nữa.
Diệu Tần - Nguyễn Tinh Vệ
G. S. Phụ tá, Viện Ngôn ngữ Bộ Quốc pḥng Mỹ
Defense Language Institute/ F.L.C., Monterey |