Tản mạn về từ Hán Việt thời - th́
(phần 6.2)
Nguyễn Cung Thông - nguyencungthong@yahoo.com
Trong tiến tŕnh hội nhập với đà tiến hóa của văn
minh hiện đại, chúng ta cần phải nh́n lại một cách khác quan vài đặc
tính của tư duy người Việt Nam qua các tập tục từ ngàn xưa và phản ánh
qua ngôn ngữ cận đại, trọng tâm của loạt bài này. Có hiểu quá tŕnh cấu
tạo các khái niệm về
thời gian như chữ thời
th́ mới hy vọng phần nào hiểu được tại sao người Việt Nam thường đi đến
các buổi họp mặt (như làm việc, giỗ, tiệc trà, đám cưới ...) không theo
đúng thời hạn và sau đó là t́m ra các phương pháp cải cách lề lối suy
nghĩ không hợp thời như vậy.
Các tính tốt hay tích
cực như tinh thần cộng đồng, giúp đỡ lẫn nhau (Bầu ơi thương lấy bí
cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn) th́ ráng giữ lấy,
c̣n một số tư duy không phù hợp với thời đại nữa th́ cần phải xem lại
như ‘chứng bệnh’ giờ cao-su (giờ dây thun). Bài này chú trọng đến
phạm trù nghĩa của chữ th́ (thời) và các nền văn hóa
đơn-th́
(monochronic) và
đa-th́
(polychronic) qua góc lăng kính ngôn ngữ và các kết quả giao thoa văn
hóa ... Những người yêu mến hồn thơ VN chắc không bao giờ quên được bài
Chùa Hương của thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938), trong đó quan niệm
truyền thống về thời gian (dục tốc bất đạt, nhanh nhẩu đoản) của
tiền nhân đă ‘hóa thạch’ qua một đoạn trong bài thơ bất hủ
'Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu...'
Kinh nghiệm cá nhân ở Úc và các nước Tây phương
khác lại cho thấy các cô các bà đi bộ rất nhanh để cố tranh thủ thời
gian, cũng như phong cách của các nhà lănh đạo công ty, chánh phủ ...
đều có ‘số lớn’ (giàu có hơn người, địa vị hơn người) v́ biết trân trọng
và quản lư thời gian rất hữu hiệu. Nếu cách dùng thời gian phần nào biểu
thị cho số mạng (con người) như cô gái quê trong bài thơ trên, th́ cũng
chính thời gian đă lấy đi một nhà thơ tài ba (đoản mệnh) của văn học VN
vào đầu thế kỷ XX! Bây giờ th́ mở mắt ra là thấy đồng hồ chỉ thời gian:
trên bàn, trên tường hay trên người (đồng hồ đeo tay, điện thoại di
động) và ngay cả khi bước ra ngoài đường (đồng hồ trong tiệm, cao ốc)
hay lên xe. Đâu đâu cũng có thể thấy ‘h́nh ảnh’ của thời gian chi phối
mọi hoạt động con người.
1. Nguồn gốc chữ thời hay th́
時
Các h́nh khắc Giáp Cốt Văn, Kim Văn cho thấy chữ
th́
時 gồm có h́nh mặt trời (nhật
日)
ở dưới một h́nh cây đang mọc - hàm ư chu kỳ phát triển của thảo mộc hay
chính là khái niệm về mùa; th́ hay thời nghĩa cổ nhất1 là mùa
hàm ư tuần hoàn - ư này sẽ lặp lại nhiều lần trong bài. Điểm đáng chú ư
ở đây là ngay cả trong tiếng Anh hay tiếng Pháp (không liên hệ ǵ đến hệ
Hán Tạng hay Nam Á), danh từ season/saison (mùa) đă từng có nghĩa
cổ nhất là trồng trọt (hoạt động
nông nghiệp, so với h́nh Giáp Cốt
Văn ở dưới), sau đó nghĩa này mở rộng để chỉ mùa (thời kỳ) trồng trọt và
mùa tổng quát (mùa ca hát, mùa ăn chay, mùa lễ hội ...). Tuy nhiên tiếng
Anh time (thời gian, tiếng Pháp temps) có gốc La-tinh
tempus so với Hi-Lạp temnein nghĩa là chia/cắt phản ánh tư
duy phân tích thành từng phần của văn hóa Tây phương. Nguyên gốc Ấn-Âu
*da- (di-) của time (thời gian) đă cho ra dạng tide (con
nước, thủy triều) trong tiếng Anh. Danh từ temple (tiếng Anh và
Pháp, nghĩa là nhà thờ, chùa miễu) cũng có cùng gốc (chia/cắt) với hàm ư
là khu vực/không gian được chia/phân ra để thờ cúng.
Giáp
cốt văn 甲骨文
Kim văn
金文
Triện
văn 篆文
Khải thể
楷体
时Giản
thể chữ th́
Trích từ
trang
http://www.chineseetymology.org/CharacterEtymology.aspx?submitButton1=Etymology&characterInput=%E6%99%82
Do đó, ta không ngạc nhiên khi thấy Ngũ Thiên Tự2
ghi
時
務 th́ mùa (vụ HV)
Lại theo một số học giả3 th́ có chữ chi
之 hài thanh, xem quá tŕnh h́nh thành chữ chi th́
thấy giống với một phần chữ th́
甲骨文
Giáp cốt văn
金文
Kim văn 小篆
Tiểu triện 楷体
Khải thể
Trích từ trang
http://www.zdic.net/zd/zi/ZdicE4ZdicB9Zdic8B.htm
Tính chất tuần hoàn của thời gian gắn bó với cách
tính thời gian trong các nền văn hóa: như tính theo ngày (thời gian trái
đất quay một ṿng), tháng (chu kỳ mặt trăng quay quanh trái đất), năm
(chu kỳ trái đất quy quanh mặt trời), triều/chiều (thời gian nước bị hút
mạnh bởi mặt trăng, con nước)...v.v... Thời gian tuần hoàn (cyclic time)
là khái niệm cốt lơi của Ấn Độ giáo qua nhiều cách tính thời gian cũng
như Phật giáo, tuy nhiên không nằm trong phạm vi bài viết này. Một điểm
đáng nhắc ở đây là cụm danh từ
thời gian
xuất hiện rất trễ trong tiếng Việt, cũng như trong tiếng Hán. Thời gian
nghĩa nguyên thủy1 là bây giờ (hiện thời
現時,
hiện tại
現在), rất khác với nghĩa
thời gian mà ta đang dùng, như nhà soạn kịch Tần Giản Phu
秦简夫
thời nhà Nguyên (1271-1368) từng viết rằng
雖則時閒受窘,
久後必然髮跡
Tuy tắc thời gian thụ quẫn,cửu hậu tất nhiên phát tích
- trích từ kịch
剪髮待賓 “Tiễn Phát Đăi Tân"
Trong loại thơ Từ Bài tựa "Triều Trung Thố"
朝中措 thời Tống (960-1279) cũng dùng cụm
danh từ thời gian:
何須苦計,時間利祿,身後功名
Hà tu khổ kế,
thời gian
lợi lộc,
thân hậu công danh
Tuy nhiên, từ thời Minh Trị (1868-1912), một số lớn
thuật ngữ khoa học Tây phương như thời gian
時間, không gian
空間, thị trường
市場
... được các học giả Nhật dịch ra (dựa vào tiếng Hán) thành jikan,
kukan, shijō ... và nhập ngược vào tiếng TQ làm vốn từ Hán trở nên
rất phong phú - đây cũng là một cách hội nhập văn hóa Tây phương của TQ
qua con đường Nhật Bản mà ít người nhận ra được! Lớp chữ mới này c̣n
được gọi là wasei kango
(和製漢語
Ḥa chế Hán ngữ) - xem thêm chi tiết trong bài viết4 "Tản
mạn về từ Hán-Việt: Các từ Hán-Nhật-Hán-Việt so với Hán-Nhật-Nhật-Việt
(phần 1)" (tác giả Nguyễn Cung Thông/Trần Ngọc Giang). Từ đầu thế kỷ
XX, cụm danh từ
thời gian
bắt đầu xuất hiện với nghĩa y như ta đang dùng thay v́ các cách dùng
th́ khắc, th́ giờ, ngày giờ trước đó. Nên để ư là cùng đọc âm HV
thời gian nhưng viết chữ Hán là
時艱 th́ lại có nghĩa là nỗi gian nan của
thời cuộc.
Th́ là âm đọc Hán Việt tương ứng với phiên thiết
(âm Hán Trung cổ, thanh mẫu thường
常,
vận mẫu chi
之):
市之切 thị chi thiết
(Thuyết Văn Giải Tự/TVGT, Ngọc Thiên/NT, Đường Vận/ĐV, Quảng Vận/QV, Tập
Vận/TV, Vận Hội/VH, Tứ Thanh Thiên Hải/TTTH)
辰之切 thần chi thiết
(Chánh Vận/CV, Trùng Đính Trực Âm Thiên/TĐTAT)
上紙切 thượng chỉ
thiết (Vận Bổ/VB)
禪侍切 thiện thị
thiết (Tự Vị Bổ/TViB)
土紙切,
音氏 thổ chỉ thiết, âm thị (Tự Vị/TVi)
施持切,
音匙 thi tŕ thiết, âm thi (Chánh Tự
Thông/CTT)
時吏切 th́ lại thiết,
âm thệ
音逝
(TVi)
...v.v...
Phụ âm đầu lưỡi xát /ʂ/
(viết là sh-, đọc theo giọng Nam) của giọng Bắc Kinh/BK bây giờ tương
ứng với phụ âm đầu lưỡi tắc /tʰ/ (viết là th- tiếng
Việt) như shàng, shǒu, shuǐ, shí (BK) - thượng, thủ, thủy, th́ (HV).
2. Các biến âm của thời/th́
2.1 Th́
là thời
Khuynh hướng mở rộng nguyên âm hẹp i thành iơ hay
ơi khá đặc biệt trong tiếng Việt: các giọng Bắc Kinh (shí theo pinyin),
Quảng Đông (si4), Thượng Hải, Hẹ (si2), Đại Hàn (si), Nhật (ji) đều duy
tŕ nguyên âm i
kỵ cỡi
ly rời
vi bởi
th́ thời
...v.v…
Một khả năng đọc trại từ th́ thành thời5
là hiện tượng kị (tị) húy ở Việt Nam. Bằng chứng cho hiện tượng kị húy:
tên của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Th́
阮福蒔
(1829-1883)
hay Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任),
thành ra Ngô Th́ Nhậm
吳時壬 c̣n đọc là Ngô
Thời Nhiệm (1746-1803); và các tài liệu tiếng Việt như
hai tài liệu về mô
thức rửa tội bằng tiếng Việt của giáo sĩ Bồ Đào Nha Antonio Barbosa
(1645/1648) đă có ghi chữ th́, tự điển Việt-Bồ-La/VBL (1651), Phép Giảng
Tám Ngày (1651, cha Đắc Lộ), Taberd (1772/1838) đều ghi là th́ chứ không
thấy ghi dạng thời:
Sinh th́, giờ lên: hora de
ʃubir
(VBL) - để ư nghĩa của sinh th́ là chết (giờ lên trời, chết là
lên ‘nước chúa’), bây giờ không ai dùng nghĩa này nữa so với nghĩa gốc
là thời/lúc c̣n sống (sinh/sanh thời) và thời gian sanh/ra đời (cách
dùng trong tiếng TQ hiện đại, shēng shí
生時). Tự điển Taberd (1772/1838) ghi
sinh th́ là fato concedere (số phận đă cho/an bài, chết –
trang 444) hay c̣n là mori (chết - trang 492).
Chữ th́ xuất hiện 6 lần trong truyện Kiều của
Nguyễn Du
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi
Nổi danh tài sắc một th́
Xôn xao ngoài cửa kém ǵ yến anh (câu 62/63/64 truyện Kiều, bản
Liễu Văn Đường, Nghệ An - 1866) - trích từ trang
http://nomfoundation.org/nom-project/tale-of-kieu/tale-of-kieu-version-1866
Cách gieo vần nhi/th́ và ǵ trong hai câu trên - so
với chi/th́/về (câu 1766/1767/1768) đi/ǵ/th́ (câu 2161/2162/2163, câu
3047/3048) th́/quy/kia (2842/2843/2844) th́/đi/chi (câu 3076/3077/3078)
- nhớ rằng vần
-ời xuất hiện rất nhiều
lần trong truyện Kiều như đời/lời/người
(câu 1166/1167/1168), người/rời/trời
(câu 594/595/596)…v.v… Điều này cho thấy âm thời không phổ biến trong
bản Kiều (này) và thời gian soạn có thể trước khi vua Tự Đức băng hà
(1883) hay trước khi lệnh kỵ húy thứ tư của vua Tự Đức (1861); các dữ
kiện kỵ húy khác như chủng, lan ... và nguyên bản sẽ cho ta mốc thời
gian chính xác hơn. Học giả Paul Schneider trong cuốn "Dictionnaire
Historique Des Ideogrammes Vietnamiens" (NXB Universite de Nice-Sophia
Antipolis, 1990 - trang 795) đề nghị rằng chữ thời thay thế cho th́ từ
năm 1860, có lẽ dựa vào lệnh kỵ huư thứ tư (1861) của vua Tự Đức. Theo
J. F. M. Génibrel trong “Dictionnaire annamite francais” (Saigon, 1898)
th́ thời c̣n là một dụng cụ bắt cá:
chữ Nôm viết bằng bộ
trúc hợp với chữ th́, một lần nữa chứng tỏ thời là một biến âm của th́
(Génibrel,
1898)
Thời trong tiếng Hán và Việt c̣n mang một nghĩa
tổng hợp, hàm ư cơ hội
(thời cơ, thời vận) và hoàn cảnh tốt/dịp may xẩy ra, như cách dùng
gặp thời
(gặp th́/Taberd)
lỡ thời
(lỡ th́/Taberd)
đắc thời
(đắc th́/Taberd)
...
Điển tích Lă Vọng (Khương Tử Nha) câu cá chờ thời
cũng phản ánh khái niệm tổng hợp trên, trong đó thời gian chỉ là một
thành phần mà thôi, dù cá nhân có tài đến mấy mà không có cơ hội (thời)
để thi thố và được dùng (thời) th́ cũng không thành công. Ngoài ra, 64
quẻ trong Kinh Dịch có thể là 64 thời khác nhau mà con người phải tùy cơ
mà ứng biến để đạt được kết quả: thời có thể ảnh hưởng đến cả cuộc đời
của một cá nhân. Một lần nữa, ta thấy thời có một phạm trù nghĩa rất
rộng từ các liên hệ đến t́nh trạng môi trường chung quanh (con người và
thiên nhiên) tới cách dùng chỉ khoảng thời gian lớn (thời Hán, thời xưa)
đến nhỏ (giây) - xem giản đồ mục 2.4 phần sau.
2.2 Th́
cũng là chừ
Một biến âm của th́ là chừ mà giọng Huế vẫn c̣n duy tŕ (Húnh Tịnh
Paulus Của/ĐNQATV6) như bây chừ (bây giờ), răng chừ
(làm sao bây giờ), biết răng chừ (biết làm sao bây giờ), chừ
chừ (đương lúc bây giờ, nội bây giờ); chừ chữ Nôm viết y như
chữ giờ
𣇞
và các dạng ĐNQATV ghi nhận đă từng hiện diện trong tự điển Taberd
(1772/1838). Cùng một năm (1898) nhưng tự điển Vallot xuất bản ở Hà Nội
không thấy ghi dạng thời so với tự điển Génibrel xuất bản ở Sài G̣n.
Trương Vĩnh Kư không thấy ghi nhận dạng thời trong tự điển7
năm 1884: temps (th́ giờ), temporiseur (kẻ chờ th́).
Tiếng
Mường8 (Bi): chǔa chỉ thời gian trong quá khứ như
chǔa tlước là thời trước; chừ là một cách tính toán trên đốt
ngón tay để xem ngày giờ và các sự việc
xẩy ra; th́ dờ hay thời dờ …
Ta không
nên ngạc nhiên về liên hệ giữa phụ âm đầu lưỡi /t'/ (viết là th-) thành
phụ âm mặt lưỡi /c/ (viết là ch-) v́ âm này đă hiện diện trong phiên
thiết của chữ th́
時
thời tự điển Khang Hy (1716)
側吏切
trắc lại thiết,
cũng như trong một dị thể của chữ th́ có thành phần hài thanh là
之
chi
(xem thêm
mục 2.4 bên dưới với
th́
鰣
hay
𩶬
-
cháy/cá
cháy)
Trích từ trang
http://dict.variants.moe.edu.tw/yitia/fra/fra01794.htm
2.3 Giờ
là một dạng biến âm của th́
Thứ tự của cách dùng thời giờ (th́ giờ) đáng
chú ư: thời là chính đứng trước so với giờ là phụ đứng sau, nói cách
khác giờ là một biến âm của thời (th́) và ra đời sau chữ thời (th́);
không thấy ai dùng *giờ thời - các cách dùng khác phản ánh khuynh
hướng 'chính trước phụ sau' là bè phái, bằng phẳng, buồn phiền ...v.v...
cho thấy các dạng biến âm đứng sau dạng chính (nguồn). Ngoài ra, tự điển
Taberd c̣n ghi cách dùng th́ cơm, th́ trà/th́ chè (cho gia đ́nh
quư tộc) mà bây giờ ta thường dùng giờ (ăn) cơm, giờ (uống) trà.
Trong Tam Thiên Tự9
(TTT) và Ngũ Thiên Tự (NTT), ta c̣n thấy ghi nhận
時𣇞
th́ giờ (TTT)
時務
th́ mùa (NTT)
Thủ bút của Philiphê Bỉnh trong bài "Làm ngăn trở
chẳng cho Thầy cả trẩy thơ" (1794) - để ư cách dùng giờ khắc10
so với th́ khắc
時刻 (tiếng Nhật jikoku).
Chữ giờ xuất hiện 4 lần trong truyện Kiều
'Dón chân đứng núp độ đâu nửa giờ ...' (câu 1996)
Giờ bộ nhật
𣇞
hay bộ nguyệt
月余
là loại chữ Nôm tự tạo gồm bộ nhật hợp với chữ dư
余 hiện diện trong Chinh
Phụ Ngâm Khúc, truyện Kiều ... Nhưng trước đó chữ Nôm giờ thường dựa vào
chữ trừ11 HV
除 (giả tá) như
'ngày giờ chẳng lợi, chỉn đă ghê đấy' (Truyền Kỳ Mạn Lục), ‘nước
kín giờ Dần’ (Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa) … Âm trừ c̣n cho thấy liên
hệ của giờ và chừ.
2.4 Giây
là một biến âm của th́
Chữ Nôm giây (đơn vị thời gian) thường gặp là dùng
chữ Hán chi
之 như từng hiện diện
trong tự điển VBL (ghi là gêy, một gêy), tự điển Taberd
(1772/1838 ghi là một giây: unum momentum) và Aubaret (1867); thí
dụ như cách dùng giây phút (một khoảnh khắc, một thời gian nhỏ).
Hiện nay giây là đơn vị quốc tế chính thức của thời gian (International
unit of time).
(Aubaret/1867,
Taberd/1772/1838 - chữ Nôm)
Tương quan chi (th́) - giây không ngạc nhiên cho
lắm khi ta biết nhiệm vụ hài thanh của chi trong quá tŕnh h́nh thành
chữ th́ (xem phần trên) - hăy so sánh
chỉ giấy
chí chấy (con chí)
chi giây
th́ cháy (cá
cháy
- th́ ngư, th́ viết bằng bộ ngư
鰣
hay
𩶬)
trĩ trăi
di dăi (nước dăi)
phi bay (nguyên âm nhỏ trước i - nguyên âm
lớn sau/đôi ay)
mi mày
ni này
si say
vị vai
vi vây
thị thấy
thi thây
*si sư săi/thầy12
quy quay …v.v…
Chữ giây (trong từ ghép giây phút) xuất hiện 1 lần
trong truyện Kiều
'Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương ...' (câu 1690)
Để ư là
khi ta nói thời (nhà) Trần th́ có thể chỉ một khoảng thời gian dài 175
năm (từ 1226 đến 1400). Phạm trù nghĩa của th́ (thời) chỉ thời gian có
thể hàm ư thế hệ này (đời này - có thể đến 60 hay 100 năm ...) hay th́
(thời) là mùa (bốn mùa = tứ th́, mỗi mùa 3 tháng); hay th́ (giờ)
theo truyền thống 2 giờ là 1 thần, một ngày có 12 thời/th́) cho đến cách
dùng giờ (hiện nay): 1 giờ = 60 phút hay th́ c̣n là giây (1 phút = 60
giây). Nghĩa giờ (hay 2 giờ đồng hồ hiện nay) của th́ là phổ thông nhất
trong các nước (đă từng) đồng văn như Trung Quốc (TQ), Hàn, Nhật và VN.
Giờ tiếng Nhật và Hàn có dạng si/ji (mượn từ dạng shí BK) nhưng
tiếng TQ hiện nay dùng tiểu th́
小時
để chỉ giờ (hay 60 phút), so với một chữ giờ của tiếng Việt. Phút (hốt)
có thể liên hệ đến bột HV
勃
- nên nghĩ rằng bất chợt, đột nhiên, bỗng nhiên ... đều hàm ư một khoảnh
khắc rất ngắn, một phút ... Đây là các từ tượng thanh chỉ việc ǵ xẩy ra
rất nhanh như vụt (vùn vụt, vụt vụt), vút (vun vút), phứt (ăn phứt, đánh
phứt...): phạm trù nghĩa của phút (phút chốc) đă trở nên chính xác hơn
(với sự ra đời của đồng hồ có giây/phút/giờ) để chỉ một phút hay một
phần 60 giờ. Thay v́ dùng một dạng biến âm của th́ là giây, tiếng TQ
dùng chữ miểu
秒
(miǎo BK) so với tiếng Nhật byou và tiếng Hàn myo. Chữ
phút (đứng một ḿnh) xuất hiện 3 lần trong truyện Kiều
'Gót
tiên phút đă thoát ṿng trần ai ...'
(câu 1380, Kiều)
Nghĩa
nguyên thủy
Thời xưa….……thời (nhà) Trần………Tứ
thời
(bốn
mùa)…12 giờ=1 ngày…………24 giờ=1
ngày……….3600 giây= 1 giờ
Thời (giờ) càng ngày càng nhỏ và chính xác hơn!
Một chữ HV cũng đáng chú ư là triều (trào)
朝 nghĩa cổ nhất1 là sáng (sớm) hay giai
đoạn đầu của một ngày, mở rộng nghĩa thành một ngày và có thể chỉ cả một
triều đại như Hán triều (thời nhà Hán), Minh triều (thời nhà Minh) ...
Chiều
tiếng Việt từ thời Việt Bồ La (1651), một biến âm của triều, đă đổi
nghĩa phần nào và chỉ khoảng thời gian sau giờ trưa (tuy nhiên trời vẫn
c̣n sáng, theo nghĩa nguyên thủy). Chiều tiếng Việt từ thời Việt-Bồ-La
(1651) đă đổi nghĩa phần nào và chỉ khoảng thời gian sau giờ trưa (tuy
nhiên trời vẫn c̣n sáng, theo nghĩa nguyên thủy). Triều bộ thủy
潮
(con nước, thủy triều) đă từng chỉ nước biển dâng lên vào buổi sáng khác
với tịch
汐 chỉ thủy triều ban đêm (tịch là đêm
夕).. Chiều tiếng Việt c̣n dùng để chỉ phương hướng
(không gian) như chiều rộng, chiều dài - nghĩa này chỉ xuất hiện gần đây
mà thôi (không thấy VBL, tự điển Taberd, Aubaret ghi nhận). Chiều từ
phạm trù thời gian đă mang thêm nghĩa trong không gian cũng như các giới
từ trước, sau.
Nghĩa nguyên thủy
Triều (đại)...........triều
(=ngày).......................triều
(buổi
sáng).................chiều (buổi chiều)...chiều (không
gian)ààà
3. Khái niệm thời gian trong một số văn hóa cận đại
3.1
Cách dùng danh từ
hồi
như hồi năy (khi năy, lúc năy), hồi trước (thời trước) trong tiếng Việt
cho thấy khái niệm thời gian có tính chất tuần hoàn. Hồi chữ Hán
回 tượng h́nh, cho thấy quá tŕnh đi ṿng lại
金文
Kim văn 小篆
Tiểu triện 楷体Khải
thể/chữ hồi
Hồi (giọng BK huí, tiếng Nhật kai, Hàn hoy) có một
dạng âm cổ phục nguyên là *wui với một dạng môi hóa *wê mà tiếng Việt
c̣n duy tŕ dạng về: hồi hương là về quê, hồi quốc là về nước ...
Chữ Nôm ngày thường viết bằng thanh phù *ngại
㝵(chữ
hiếm, Unicode 250F7), chữ Hán này hiện diện ít nhất từ thời Tập Vận
(1037/1067) là chữ viết tắt tương đương với chữ ngại
礙
thường gặp hơn (ngại giản thể là
碍).
Ngày có một dạng chữ Nôm khác, dễ hiểu hơn, viết bằng bộ nhật
日 hợp với chữ ngại
㝵,
so với chữ ngời (sáng) viết bằng bộ
hỏa
火 hợp với chữ ngại
㝵
cho ta khả năng liên hệ giữa hai từ ngày và ngời: mỗi ngày chính là một
chu kỳ sáng, đêm rồi trở lại sáng; cách dùng ngày/ngời (sáng) phản ánh
tính chất tuần hoàn của thời gian trong tiếng Việt.
㝵
ngày (chữ Nôm)
火㝵 ngời (chữ
Nôm)
‘Đêm ngày hằng khóc’ (“Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng
kinh”)
‘Ngày ngày đă có tiên làm bạn’ (Nguyễn Trăi)
𠊚 ngài - người (chữ Nôm)
Không phải chỉ có TQ, VN coi thời gian như một bánh
xe (luân hồi) tuần hoàn như thí dụ trên, các nền văn hóa cổ đại như Hi
Lạp, Inca, Maya ... đều có khái niệm này. Vấn đề trở nên thú vị hơn khi
một người mất đi (chết) th́ ta c̣n nói là về với ông bà, quy thiên
(về trời) ... So với cách dùng tiếng Anh là quá ngày (expire),
đi qua (pass away), rời xa (depart)... Đây là một chủ đề đáng
đi sâu thêm nhưng không nằm trong phạm vi bài viết nhỏ này. Edward T.
Hall13 (1914-2009) là nhà Nhân Chủng Học nổi tiếng của Mỹ đă
từng đề nghị các từ mới đơn-th́ (monochronic) và đa-th́ (polychronic)
sau nhiều năm quan sát các xă hội Mỹ, Nhật, TQ ... Văn hóa, xă hội và
con người đơn-th́ có những tính chất rất khác biệt so với con người
đa-th́ như bảng so sánh và tóm tắt sau đây
TÍNH CHẤT ĐƠN-TH̀ |
TÍNH CHẤT ĐA-TH̀ |
Thời gian là chuỗi dài liên hệ như đường thẳng,
thời giờ là tiền bạc/time is money. Thời gian theo văn
hóa đơn-th́ coi như là tài sản/vật chất nên ta có thể mất
thời giờ (lose time, tiếng Anh so với perdre du temps tiếng
Pháp), lợi giờ (gain time), tiết kiệm thời giờ (save time), đầu
tư thời giờ (invest time), lấy giờ (take time), cho giờ (give
time), thêm giờ (add time), giết thời giờ (kill time) … |
Thời gian là chu kỳ như ṿng tṛn, ảnh hưởng của
văn hóa 12 con giáp cũng như Phật giáo coi
‘thường’ vật chất/vô thường và bánh xe luân hồi, tái
sinh |
Làm một việc cho xong
để làm việc tới, chú trọng vào tính
chất độc lập trong công việc và tôn trọng (ư kiến) cá
nhân |
Làm nhiều việc cùng một lúc, tôn trọng các giá
trị công đồng - chú trọng vào đóng góp của nhiều người/nhóm
trong một việc, dĩ ḥa vi quư, một điều nhịn là chín điều
lành - không rơ ràng trong công việc nên dễ đi lạc đường |
Xem giờ hẹn quan trọng và nhất quyết theo đúng
giờ dù có chuyện ǵ đi nữa! |
Uyển chuyển giờ hẹn, xem giờ hẹn như mục tiêu có
thể không đạt được hay đạt được th́ càng tốt |
Có chương tŕnh nghị sự/agenda và thời gian liên
hệ rất rơ ràng, chủ động thời gian/nhiều khi có vẻ 'thiếu t́nh
cảm' (lănh đạm/
vô cảm) v́
chỉ chú trọng vào công việc ḿnh làm |
Thụ động về thời gian, không có chương tŕnh hành
động rơ ràng và nếu có th́ thường thay đổi |
Chú trọng vào công việc
của ḿnh, giờ giấc và cố giữ cho
đúng hẹn/punctuality |
Chú trọng vào liên hệ/vai vế gia đ́nh và xă hội
hơn là công việc, ảnh hưởng của truyền thống tam cương ngũ
thường của Khổng giáo, đạo thờ cúng ông bà và chữ
hiếu; khi người lớn tuổi đến trễ hẹn, như bố mẹ của ḿnh
chẳng hạn, th́ ta khó ḷng trách móc v́ có thể mang tội vô lễ
hay bất hiếu ... Trọng nghĩa khinh tài, áo mặt không qua
khỏi đầu …v.v… (A) |
Quan hệ ngắn hạn trong công việc
và nh́n về
tương lai |
Quan hệ lâu dài hay cả đời, chú trọng đến truyền
thống văn hóa lâu đời
(hướng về quá khứ), chuộng t́nh hơn lư, chín bỏ
làm mười, 1 điều nhịn là 9 điều lành (B) |
Thời gian làm việc (work time) khác biệt với thời
gian riêng tư (personal time) |
Thời gian làm việc và thời gian riêng tư thường
lẫn lộn với nhau, có khi v́ t́nh cảm mà làm đêm làm ngày
cho xong việc |
Không muốn làm phiền người khác, tập trung và
tăng tiến công việc đă được giao phó |
quan tâm đến các người thân/
chung quanh thay v́ coi trọng
riêng tư/privacy, chuộng t́nh nghĩa |
(A) các giới hạn này cũng
như hiện tượng
kỵ (tị) húy5 có thể trở thành những hàng rào cản tính mạo
hiểm, óc sáng tạo của con người nói chung, các dân tộc Á Đông rất giàu
truyền thống văn hóa nói riêng: đây là một chủ đề đáng đi vào chi tiết
nhưng không nằm trong phạm vi bài này.
(B) ‘phương châm’ nhẫn nhục, có thể trở thành tiêu
cực nếu áp dụng một cách mù quáng (khi dùng cho mọi trường hợp)
Hiểu được truyền thống văn hóa và tư duy về thời
gian của các nhóm dân, công ty hay quốc gia th́ ta sẽ có nhiều điều lợi14
trong vấn đề giao tiếp thương mại hay đàm phán/
ngoại giao; và
c̣n có thể tránh những trường hợp lấn cấn hay gây căng thẳng không cần
thiết ... Các nước có khuynh hướng đơn-th́ trên thế giới hiện nay là Mỹ,
Đức, Thụy Sĩ, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ, Gia Nă Đại (Canada), Jamaica, Scandinavia
(Na Uy, Thụy Điển ...). Các nước có khuynh hướng đa-th́ là Saudi Arabia,
Ai Cập, Mễ Tây Cơ (Mexico), Ba Tây (Brazil), Phi Luật Tân, Pakistan, Ấn
Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Đông Nam Á (Việt Nam, Lào, Kampuchia), nhiều
nước ở Phi Châu ...v.v... Không phải lúc nào một quốc gia cũng là
đơn-th́ như Hàn Quốc và Nhật Bản: hai nước này (đă từng là đồng văn)
cùng tính giờ theo 12 con giáp như Việt Nam và TQ hay một ngày chỉ có 12
giờ, nhưng v́ tiếp thu văn hóa Tây phương sớm hơn nên đă thay đổi cách
suy nghĩ và hoạt động phần nào để từ đa-th́ trở thành đơn-th́ (nhất là
thế hệ trẻ và dân thành phố dễ hội nhập hơn). Chính người viết cũng từng
có kinh nghiệm với con em của dân bản xứ ngay bên Úc (Aborignal): khi bộ
giáo dục gởi các em đến để học bổ túc thêm Toán/Khoa Học vào thập niên
1990, có em đến trễ 45 phút sau giờ hẹn! Điều này không chỉ xẩy ra một
lần và cho thấy quan niệm về thời gian của dân bản xứ Úc rất khác so với
Úc - Úc là một nước trong Khối Liên Hiệp Anh (Commonwealth, gồm có Anh,
Gia Nă Đại, Nam Phi ....) và có khuynh hướng đơn-th́ rất rơ nét.
Lịch sử - ḍng
chảy liên tục của
thời gian theo khuynh hướng đơn-th́ (để ư cách dùng mũi tên
- h́nh vẽ/không gian
hai chiều để thể hiện sự liên tục trước và sau -
mũi tên thời
gian)
Ngày trước ......Hôm
nay: 8 giờ (AM) thức dậy …..9 giờ đi làm ....6 giờ về nhà .....8 giờ
(PM) xem TV….
3.2
Cách đây hơn một thế kỷ, các học giả VN như Nguyễn Văn Vĩnh đă chỉ ra
những điều không ổn về thời gian và cách dùng đồng hồ
'... Cái lư thú của nước Nam ta nhỏ mọn lắm. Kia cái đồng hồ từ tám mươi
đời th́ quấn vải tây điều, kết quả găng...' (Nguyễn Văn Vĩnh,
Nhời đàn bà, “Đăng cổ tùng báo”, Hà Nội - 1907)
Ta hăy nghe Phan Khôi tâm sự (trong "Phụ Nữ Tân
Văn" s. 97, Sài G̣n - 27/8/1931)
'... Nếu nói trắng, đừng sợ mích ḷng nhau, th́ xin nói rằng: cái tâm lư
cơm vua ngày trời của mấy thế kỷ trước, ngày nay nó vẫn c̣n vướng víu
trong đầu chúng ta. Nếu bề trong, chúng ta c̣n giữ cái tâm lư ấy, mà bề
ngoài, chúng ta dùng đồng hồ, th́ quả thật, nó chỉ là một vật trang sức
của chúng ta mà thôi vậy...'
Gần đây hơn, trên báo Giáo Dục (5/12/2012) vấn đề
thời gian cũng được nhắc đến - trích từ trang
http://giaoduc.edu.vn/news/toa-soan-657/xai-gio-day-thun-benh-man-tinh-cua-teen-197294.aspx
'... Xài “giờ dây thun” đă và đang trở thành “mốt” của nhiều teen hiện
nay. Thậm chí có những bạn c̣n xem việc ḿnh trễ hẹn là một cách thể
hiện sự “sành điệu”?!? ....'
Đă đến lúc ta cần đặt lại vấn đề về cách dùng thời
gian, điều chỉnh lại tư duy phần nào cho thích hợp với trào lưu tiến hóa
của nhân loại. Nhờ vào phương pháp quản lư thời gian khoa học và chính
xác mà con người đă có thể đổ bộ lên mặt trăng, sao Hỏa ... Khắc phục
được phần nào nhiều yếu tố thiên nhiên tiêu cực như băo, lụt, sóng thần
tuy con đường trước mặt c̣n nhiều thử thách: nhưng nếu ta không bắt đầu
ngay bây giờ th́ rất khó mà thay đổi về sau.
4. Phụ chú và phê b́nh thêm
Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu
(Bibliography) tham khảo APA hay MLA v́ bao gồm các phê b́nh thêm về đề
tài, tài liệu và tác giả để người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và
chính xác.
Từ góc độ triết học liên hệ đến thời gian và lịch sử, học giả Kim Định
đă soạn cuốn "Chữ Thời" (NXB Thanh B́nh, 1967), có thể đọc trên
mạng trang
http://www.vietnamvanhien.net/chuthoi.pdf . Học giả Nguyễn Hiến
Lê/NHL đă dịch tác phẩm "How to gain an extra hour everyday" của tác giả
Ray Josephs (1955, cập nhật năm 1992) vào năm 1971 với tựa đề "Lợi
mỗi ngày được một giờ" (NXB Thanh Tân, Sài G̣n - sau này in lại bởi
NXB Tổng Hợp Đồng Tháp, 1994). NHL cũng soạn cuốn "Kinh Dịch - đạo của
người quân tử" (1979 - NXB Văn Học/1994) trong đó ông bàn về chữ thời,
giống như ư kiến của học giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần từng ghi lại trong
cuốn "Dịch học tinh hoa" (1973, chương 4.1) rằng ‘... Chu Dịch nhất
bộ thư, khả nhất ngôn, nhi tế chi viết thời: toàn bộ Chu Dịch có thể tóm
một lời là chữ Thời mà thôi ...'. Học giả Lê Quí Đôn cũng nhận xét
rằng '... Hoà hay trái đều có thời đă định mà đến với ta: cho nên đạo
Dịch không ngoài một chữ Thời ...' trang 66, "Vân Đài Loại Ngữ",
Trần Văn Giáp biên dịch và khảo thích - NXB Văn Hoá Thông Tin - Hà Nội,
2006. Cuốn sách đáng tra cứu thêm và có nhiều liên hệ đến chủ đề bài
viết này là “Du ‘temps’, Éléments d'une philosophie du vivre” của nhà
Hán học Pháp Francois Julien (NXB Bernard Grasset, Paris , 2001) được
dịch ra tiếng Việt là "Bàn về chữ Thời - Những yếu tố của một triết
lư sống" (người dịch Đinh Chân/Đào Hùng - NXB Đà Nẵng, 2004). GS
Trần Quốc Vượng cũng đưa nhận xét về tính tuần hoàn về thời gian trong
tâm thức người Việt cổ '...Thời gian thôn dă, thời gian nông nghiệp
là thời gian chu kỳ (temps cyclique), được biểu hiện như một ṿng tṛn.
Các băng trang trí trên mặt trống, mặt thạp đều là những vành tṛn trong
đó có người và động vật đều chuyển động theo – một hướng ngược chiều kim
đồng hồ, tức là ứng với chuyển động ảo của mặt trời. Tôi cũng ngờ rằng
tượng 4 cóc (hay 4 cặp cóc) trên trống đồng hay tượng 4 cặp trai gái
giao phối trên nắp thạp đồng Đào Thịnh là tượng trưng của 4 tiết (Xuân
phân, Thu phân, Hạ chí, Đông chí) trong một năm – một chu kỳ thời gian
của cư dân Việt cổ trồng trọt ở thời đại Đông Sơn...' - trích từ
cuốn "Trong Cơi" (NXB Trăm Hoa, New York, 1993). Bạn đọc có thể
xem thêm chi tiết của các trao đổi thú vị giữa GS Trịnh Xuân Thuận và TS
Matthieu Ricard khi bàn về "Vấn đề thời gian dưới cái nh́n của Phật
giáo và Khoa học" - trang này
http://vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/astronomie/vandethoigianphatgiao.htm
.
1) "Từ Nguyên" Thương Vụ Ấn Thư Quán, Bắc
Kinh (tái bản năm 2004)
2) "Ngũ Thiên Tự" Vũ Văn Kính - Khổng Đức
biên soạn, NXB Văn Hóa Thông Tin (tái bản lần thứ 4 năm 2002)
3) Lư Lạc Nghị “T́m về cội nguồn chữ Hán”
Jim Waters biên soạn - NXB Thế Giới (Hà Nội, 1998). Xem thêm chi tiết
trong Thuyết Văn Giải Tự, ta thấy ghi nhận về chữ th́ như sau
四時也。从日寺聲。旹,古文時从之日
Tứ th́ dă - tùng nhật tự thanh - th́
旹 cổ văn th́
時
tùng chi nhật
Chữ th́ cổ
旹
(Unicode 65F9) cho thấy rơ thành phần hài thanh chi
之với
dạng cổ là
㞢
4) Nguyễn Cung Thông/Trần Ngọc Giang (2011) "Tản
mạn về từ Hán-Việt: Các từ Hán-Nhật-Hán-Việt so với Hán-Nhật-Nhật-Việt
(phần 1)" xem toàn bài trên các trang mạng như
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=2103%3Atn-mn-v-t-han-vit-cac-t-han-nht-han-vit-so-vi-han-nht-nht-vit-phn-1&catid=71%3Angon-ng-hc&Itemid=107&lang=vi
hay
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15385
…v.v…
5) Lê Trung Hoa "Họ và tên người Việt Nam"
NXB Khoa Học Xă Hội (Hà Nội, 2005). Cuốn này in lại nhiều lần (1992,
2002, 2005) ghi nhận các nguyên nhân người VN phải đổi tên đổi họ, điều
này lại càng đáng quan tâm khi càng có nhiều người VN ở hải ngoại ...
Học giả Đào Duy Anh trong "Từ điển truyện Kiều" (viết xong năm
1965, NXB Khoa Học Xă Hội - Hà Nội, 1974) cũng nhận xét rằng 'Th́:
th́ giờ, lúc, thủa, mùa. Sau v́ húy của vua Tự Đức nhà Nguyễn nên nói
chệch ra là thời' (trang 394). Húnh Tịnh Của (1896) cũng ghi nhận
'... Thời: cũng là chữ th́, mắc quốc húy, mà đọc trại ...'
(ĐNQATV, Tome II - trang 409). Trong "Việt Nam Văn Học Sử Yếu" (Trung
tâm học liệu, bộ Giáo Dục - Sài G̣n, in lần thứ 10, 1968) học giả Dương
Quảng Hàm viết '... cũng v́ sự kiêng tên ấy mà có nhiều chữ Nho ta
đọc sai ... chữ th́ đọc là thời ....'. Trong “Phép Giảng Tám Ngày”
(1651), giáo sĩ Alexandre de Rhodes dùng chữ th́ rất nhiều lần, như
'... th́ phải nhớ lời đất Annam này nói liên: “Sống th́ gửi, chết th́
về” (nói chữ: sinh là kí dă, tử là quy dă)...', ngoài ra, khi đọc
các bài thơ của Philiphê Bỉnh trong "Nhật Tŕnh Kim Thư Khất Chính Chúa
Giáo" (khoảng 1797), ta thấy tác giả dùng các chữ th́ như sau
‘Th́ âu giữ lái vững chân chằng’ (bài "Buồm cột tầu thơ")
‘Có nước non th́ có cảnh thanh’ (bài "Những thành phương Thiên trúc
thơ")
…
‘Th́ rằng trước kẻo tiếng bây giờ’ (bài "Bản hội kí Văn Lịch trẩy
đến Macao lại trở về thơ")
Thủ bút của Philiphê Bỉnh
Một cách đổi âm v́ kỵ húy là thay chữ Th́ (tên vua
Tự Đức) bằng th́n: như theo báo cáo của Vu Hướng Đông/VHĐ trong bài "VĂN
BẢN DƯƠNG SỰ THỦY MẠT VÀ QUAN HỆ CỦA NÓ VỚI ĐẠI NAM THỰC LỤC" - Tạp Chí
Hán Nôm số 6 (61) năm 2003; VHĐ đưa ra nhận xét là 'Rất có thể Thủy mạt
được biên soạn thành sách từ đầu thế kỷ XX đến những năm 60 của cùng thế
kỷ ...' (hết trích). Người viết đồng ư với nhận xét trên, dựa vào cách
ghi chữ Nôm th́n
辰
với nghĩa là th́, qua "Nam Quốc phương
ngôn tục ngữ bị lục" (Quan văn Đường tàng bản,
1914)
- như trang 5 chẳng hạn, trích từ trang này
http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0306v.htm
Các dữ kiện về chữ th́/thời hỗ trợ cho khả năng kỵ
húy như trên, nhưng lại khác với trường hợp chữ nhậm và nhiệm: hai chữ
này đă hiện diện từ thời VBL (1651), tự điển Taberd (1772/1838). Giọng
Quảng Đông vẫn c̣n đọc
任
là nhậm (jam4, jam6) so với giọng Hẹ/Triều Châu là nhiệm (jim5, gnim5,
rim6, ngim6), cho nên phải cẩn thận khi cho rằng nhậm đọc thành nhiệm v́
kỵ húy! Xem thêm phê b́nh về Phúc và Phước ở trang mạng của họ Tống
Phước
http://tongphuoc.wordpress.com/about/ . Để ư các cách đọc chữ
任
với thanh mẫu nhật
日
vận mẫu xâm
侵
如林切
như lâm thiết (TVGT, ĐV, QV, TV, VH, LT)
如深切 như thâm thiết
(CV, TVi)
音壬 âm nhâm
耳斟切 nhĩ châm thiết
(NT)
如禁切 như cấm thiết
(TVi)
忍甚切 nhẫn thậm
thiết (LT)
如鴆切 như trậm thiết
(LT)
汝鴆切 nhữ trậm thiết
(NT, TTTH, TĐTAT)
而隴切 nhi lũng thiết
(TVi)
音宂 âm nhũng
如神切 như thần thiết
(CTT)
音人 âm nhân - cách đọc theo CTT/năm 1670
cho thấy âm vận gần đây, cũng như dạng rèn/rén giọng BK bây giờ
...v.v...
Thành ra Ngô Th́ Nhậm v́ kỵ húy có thể đổi thành
Ngô Th́n Dụng: âm Dụng đọc gần như nhũng (một cách đọc của Nhậm theo Tự
Vị/TVi).
Vấn đề kỵ húy với ảnh hưởng văn hóa chính trị và khả năng xác định niên
đại văn bản là một chủ đề thú vị nhưng không nằm trong phạm vi bài này;
tuy nhiên một điểm đáng chú ư là thay v́ thờ cúng ông bà tổ tiên th́ một
xă hội đơn-th́ như Anh/Mỹ lại thường dùng lại tên người trước như George
Bush (Senior) có con là George Bush - c̣n một xă hội đa-th́ như VN lại
tránh dùng tên của ông bà tổ tiên!
Vấn đề tái lập gia phả một cách chính xác (trong đó
thường ghi húy) càng ngày càng có nhiều hoạt động khá tích cực ở VN, so
với người TQ như các cháu con của Khổng Tử (họ Khổng
孔)
đă cập nhật gia phả của họ lần thứ năm (2009) gồm khoảng hai triệu người
ở trong và ngoài Hoa Lục: đây là bảng liệt kê tên gia đ́nh (gia phả) dài
nhất trên thế giới
(bao gồm 83 thế hệ) và tuy Khổng Tử được ghi là Hán tộc nhưng các cháu
chắt sau này thuộc vào 14 dân tộc khác Hán ...v.v... Xem thêm chi tiết
trang
http://www.beijingtoday.com.cn/news/fifth-version-of-confucius-family-tree-unveiled
hay
http://news.xinhuanet.com/english2010/culture/2010-08/31/c_13471822.htm
6) Húnh Tịnh Của (1895/1896) "Đại Nam Quấc Âm
Tự Vị" Tome I, II - NXB Imprimerie Rey, Curiol (Sài G̣n).
7) Trương Vĩnh Kư "Petit Dictionnaire francais
annamite" 1884
8) "Từ điển Mường Việt" Nguyễn Văn Khang
(Chủ biên) - NXB Khoa Học Xă Hội và Nhân Văn Quốc Gia (Viện Ngôn Ngữ
Học), NXB Văn Hóa Dân Tộc (Hà Nội 2002). Phụ âm mặt lưỡi tắc /c/ của các
dạng chừ (Huế), chǔa tlước (thời trước, Mường Bi) tương
ứng với cách đọc theo phiên thiết của thành phần hài thanh tự
寺 chùa của chữ th́
時
Tự
寺
- chùa
Đăi
待
- đợi - chờ. Tiếng Mường (Bi) chỡ là chợ (búa) hay c̣n là hầu hạ,
chăm sóc: chỡ pổ khà (hầu hạ cha già); chũ là đăi
Thị
侍 - chầu (chực), chầu vua, chầu trời …
Th́
鰣
hay
𩶬 - cháy (cá cháy)
Chỉ
洔 - âm thị
市
(chợ - TV)
Tŕ
持 - giữ (bảo tŕ) - chần chừ - chần chờ . Tiếng
Mường (Bi) chữ là chữ (viết) hay c̣n là giữ: chữ lễ cúa
(giữ lấy của)
Trĩ
庤 - chờ, trữ, chứa
Trĩ
䝰 (Unicode 4770, chữ
hiếm)
《玉篇》或作
𧶱、庤 <NT> hoặc tác
𧶱、庤
chứa (tài sản, của quư …)
9) "Tam Thiên Tự" Đoàn Trung C̣n biên soạn -
NXB Văn Hóa Thông Tin (tái bản lần thứ 5, Thành Phố HCM, 2004)
10) khắc
刻
xưa là 1/6 ngày (đêm 5 canh ngày 6 khắc), sau đó là 1/100 ngày hay 14.4
phút - cho đến thời Nguyễn quy định một khắc bằng 1/96 ngày hay là 15
phút (theo tự điển Taberd, Aubaret hay 'một giây lâu' theo
ĐNQATV); xem thêm chi tiết về các nghĩa khác nhau của khắc trong Vân Đài
Loại Ngữ, chương II mục 19 đến 28 (Lê Quí Đôn, sđd)
11) Trừ
除
, thanh mẫu trừng
澄
vận mẫu ngư
魚,
có các cách đọc theo phiên thiết
直魚切
trực ngư thiết (TVGT, ĐV, QV)
雉居反
trĩ cư phản (NTLQ,
玉篇零卷)
直余切
trực dư thiết (NT)
直御切 trực ngự thiết
(NT)
陳如切 trần như thiết
(TV, LT)
遲倨切 tŕ cứ thiết
(QV, TV)
遲據切 tŕ cứ thiết
(VH, TV)
治據切,音箸
trị cứ thiết, âm trứ/trợ
(CV)
長魚切 trường ngư
thiết (TVi, CTT, TĐTAT)
音儲 âm trữ (chứa, chờ)
羊諸切,音餘
dương chư thiết, âm dư (TV, LT) - để ư dạng ngạc cứng hóa dờ (giờ) giọng
Nam
商居切 thương cư
thiết (TV, LT)
魚羈切,
音宜 ngư ki thiết, âm nghi (TVi)
…
12) sư
師
giọng BK bây giờ là shī, các giọng địa phương khác đều có âm i (疏夷切 sơ di thiết/ĐV,
霜夷切
sương di thiết) - thanh mẫu sinh/sanh
生
vận mẫu chi
脂
- cách đọc trung cổ theo phiên thiết
疏夷切 sơ di thiết
(TVGT, ĐV, QV, TTTH)
霜夷切 sương di thiết
(TV, VH, LT)
申之切 thân chi thiết
(TVi, CV, CTT) - âm thi
詩 (shī
BK)
...
Các dạng biến âm của sư là săi (chữ Nôm sĩ
仕) và thầy (chữ Nôm sài
柴);
không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Phúc Nguyên hay chúa Bụt/chúa Phật -
người hiền ḥa, mộ đạo và trùng tù nhiều chùa Phật - c̣n được gọi là
chúa Săi/Săi vương.
13) Edward T. Hall “The Silent language” -
NXB Doubleday (Garden City, New York - 1959) dịch ra tiếng Nhật bởi các
tác giả Masao Kunihiro, Yoshimi Nagai and Mitsuko Saito với tựa đề
Chinmoku No Kotoba, NXB Nanundo (Tokyo, 1966). GS Hall đưa ra nhận xét
về phương pháp truyền thông của văn hóa Thụy Sĩ, Đức, Scandinavia đều
ít-bối-cảnh (low context, đưa thẳng ra các dữ kiện) so với các văn
hóa Nhật, TQ, VN có giàu-bối-cảnh (high context, cần nhiều tín
hiệu khác từ cách nói, vẻ mặt, điệu bộ ... để hiểu ư chứ không nói thẳng
ra một cách đường đột/ngang tàng), đề cập trong cuốn “Beyond Culture” -
NXB Anchor Press (Garden City, New York 1976). Ông viết nhiều sách về
Văn Hóa Học như “The Hidden Dimension” (1966, NXB Doubleday,
Garden City, New York), “An Anthropology of Everyday Life: An
Autobiography” (1992, Doubleday, New York), “Understanding
Cultural Differences - Germans, French and Americans” (1993, NXB
Yarmouth, Maine)...v.v... Có nhiều cách dịch sang tiếng Việt các từ mới
như monochronic là thời gian đơn, đơn nhịp, đơn-th́, đơn tuyến (tiếng
TQ dān xiàn
單線)
so với polychronic là thời gian phức, đa nhịp, đa-th́, đa tuyến (tiếng
TQ duō xiàn
多線).
14) Có rất nhiều tài liệu và thông tin trên mạng về
Tư Duy Chiến Lược và Phương Pháp Quản Trị (Công Ty) sao cho có lợi và
dựa vào kiến thức của các nền văn hóa khác nhau (đơn và đa- th́
hay các truyền thống
khác). Xem các trang
http://thearticulateceo.typepad.com/my-blog/2011/08/cultural-differences-monochronic-versus-polychronic.html
hay
http://www.communicaid.com/cross-cultural-training/blog/cross-cultural-training/chronemics-concept-of-time/
…v.v… Hiện tại có cả một môn học gọi là Chronemics (môn học về Thời Gian)
chuyên khảo sát về cách dùng thời gian trong ngôn ngữ cử chỉ (ngôn ngữ
thân thể/Body language, ngôn ngữ phi lời nói/Non verbal
language). Thí dụ như thời gian có thể là một chỉ số của vai vế (indicator
of status) trong xă hội hay nơi làm việc: muốn gặp Tổng Giám Đốc th́
phải hẹn giờ và chờ để được gặp so với khi Tổng Giám Đốc ra lệnh ngưng
làm việc để họp tất cả nhân viên (không cần hẹn).
|