Tản mạn về từ Hán Việt (phần 4)
Bính âm/Phanh âm/Phiên âm hay pīnyīn?
Nguyễn Cung Thông
nguyencungthong@yahoo.com
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm
漢語拼音/汉语拼音
(theo thứ tự phồn thể/giản thể)
là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ
(Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được
Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đă có hệ thống pinyin riêng (Thông
Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú). Bính âm là một (trong nhiều
cách) ghi âm tiếng TQ (giọng Bắc Kinh/BK) bằng hệ thống chữ La Tinh cũng
như tiếng Việt hiện nay. Trong lịch sử kư âm tiếng Hán, các phương pháp
chú âm đă từng hiện diện để giúp người đọc chữ Hán thêm phần chính xác
như trực âm (直音,
ghi một âm gần đúng bằng chữ Hán khác), cổ độc (古讀)
- thanh huấn
(聲
訓)
-
độc nhược A (讀若
A,
đọc giống như là âm đọc chữ A) - độc vi
讀為,
phiên thiết (phản thiết
反切),
đồng A (同
A) hay
âm A (như
X
音
A là X-âm-A/X-đồng-A
có nghĩa là X đọc như A)…
Các hệ thống kư âm dùng chữ La Tinh ‘chính thức’ bắt đầu từ thời các nhà
truyền giáo ḍng Tên Matteo Ricci và Michele Ruggieri khi soạn cuốn tự
điển Bồ Đào Nha-Hán (Portuguese-Chinese dictionary) vào khoảng
1583-1588 (so với tự điển Việt-Bồ-La ra đời vào năm 1651 của
Alexandre de Rhodes). Vào thế kỷ 20 th́ hệ thống phiên âm Wade-Giles trở
nên rất thông dụng, nhất là trong các tài liệu báo chí phương Tây (khi
bắt đầu viết nhiều về văn hoá ngôn ngữ ở TQ), thí dụ như các danh từ riêng
vẫn c̣n dùng hệ thống này như Mao Tse-Tung (毛澤東/毛泽东
Mao Trạch Đông1) hay Nanking (南京
Nam Kinh) ... Các tên riêng này nếu viết theo hệ thống pīnyīn th́ trở
thành Mao Zedong hay Nanjing (trên báo chí thường bỏ các dấu chỉ thanh
điệu như Máo Zé Dōng hay Nán Jīng). Hệ thống pinyin
拼音
là gần đây nhất, tuy không có vấn đề ǵ với cách dịch truyền thống của
音
là âm, nhưng c̣n chữ
拼
th́ có vài lấn cấn. Thời kỳ xuất hiện của các thư tịch và tài liệu quan
trọng dùng trong phần này như Nhĩ Nhă là vào khoảng thế kỷ III TCN, Ngọc
Thiên (NT, năm 543 SCN), Đường Vận (ĐV, 751 SCN), Long Kham Thủ Giám (LKTG,
997), Quảng Vận (QV, 1008 SCN), Loại Thiên (LT, khoảng 1039), Tập Vận
(TV, 1067 SCN), Hồng Vũ Chính Vận (CV, 1375), Tự Vị (TVi, 1615), Chính
Tự Thông (CTT, 1670), tự điển Khang Hy (KH, 1716), Hán Ngữ Đại Tự Điển (HNĐTĐ,
1989) …
Bản đồ TQ vào thế kỷ 17 in ở nước ngoài (Tây phương, in bằng chữ La Tinh)
- trích trang
http://en.wikipedia.org/wiki/Romanization_of_Mandarin_Chinese . Để ư
cách dùng x, si, qv trong bản đồ so với bính âm sh, xi và qu (tự
điển Việt Bồ La ghi về vật ... là uề uật ...). Để ư âm cổ hơn của
giang jiāng
江
là kiang, -jing trong Nam Kinh Nánjīng
南京,
Phúc Kiến Fújiàn
福建
... là Nanking, Fokien ...
1. Chữ
拼
không hiện diện trong các tự điển HV như Thiều Chửu/TC (1942), Đào Duy
Anh (1932), Hoàng Thúc Trâm (Hán Việt Tân Từ Điển, 1951), Nguyễn Văn
Khôn (1960) ... Nhưng các bản cập nhật của HV Tự Điển (Thiều Chửu) gần
đây lại có chữ
拼
(và bính âm
拼音như
trong các bản điện tử HV trên mạng lưới toàn cầu Internet, HV Tự Điển/TC
tái bản bởi NXB Đà Nẵng 2005), Tự Điển HV (Trần Văn Chánh, 1999) ...
Chữ
拼
hiện diện thời Ngọc Thiên (543 SCN), Long Kham Thủ Giám, Bội Huề2,
Quảng Vận, Đường Vận, Tập Vận, Loại Thiên, Chính Tự Thông, Khang Hy Tự
Điển ... Và đương nhiên tất cả các tự điển TQ hiện đại - tần số dùng là
23259 trên 434717750 với các nghĩa (động từ) thường gặp như sau
a) ráp lại, nối lại (join) - đây là nghĩa nguyên thuỷ và cụ thể theo “Từ
Nguyên” (Thương Vụ Ấn Thư Quán, Bắc Kinh 2004)
b) đánh vần (spell) - như
拼音
bính âm,
拼字
bính tự
nghĩa là đánh vần (theo thứ tự chữ hay âm đọc)
, kỹ thuật đánh vần như vậy c̣n được gọi là
bính pháp
拼法
c) liều, dám bỏ (mất) đi (risk) - như bính mạng
拼命
(liều mạng), bính tử
拼死
(liều chết, dám chết), bính sát
拼殺
(liều mạng) ...
d) tiếp nối, theo (tuỳ tùng):
拼,
從也。——《
爾雅》。
郭璞註:“
為隨從。”
Bính,tùng dă。——
《Nhĩ
Nhă》
。Quách
Phác chú: “vi tùy tùng。”
e) bắn ra, tản ra
拼,
古文抨同,
謂彈繩墨為拼也。——
唐
·
玄應
《
一切經音義》
Bính,cổ
văn phanh đồng,vị
đạn thằng mặc vi bính dă。——Đường·
Huyền Ưng
《Nhất
Thiết kinh âm nghĩa》
2. Các cách đọc chữ
拼
北萌切
bắc manh thiết (ĐV)
悲萌切
bi manh thiết (TV, VH)
伯耕反
bá canh phản (LKTG)
扳耕切
ban canh thiết (LT)
補耕切,音繃
bổ canh thiết, âm banh (CV)
普庚切
phổ canh thiết (NT)
披耕切,音怦
phi canh thiết, âm phanh (TV)
早正切
tảo chính thiết (LT)
卑正切,音倂
ti chính/
chánh thiết, âm bính/tính - tương quan
重紐
trùng nữu p/b > t trong âm HV (KH, HNĐTĐ)
Để ư thành phần hài thanh của
拼
là
并
hay
幷
(tinh, tịnh, b́nh).
Các dạng banh, phanh HV có phạm trù nghĩa khó hoà hợp với banh/phanh
tiếng Việt thông thường : một đàng là ráp lại (đánh vần) so với
một đàng là mở ra (banh mắt ra mà xem, phanh ngực). Banh và phanh
c̣n là các tiếng Việt phiên âm từ tiếng Pháp balle (trái banh,
quả cầu) hay panne (hư, xe banh rồi) và frein (phanh,
thắng xe). Các cách đọc bắc/bi manh thiết, bổ canh thiết của chữ
拼
cũng là cách đọc của chữ
繃
mà ta thường đọc là banh hay băng (băng bó) - dùng như chữ
絣
(băng).
Các chữ dùng tương đương với
拼
là
摒
bính
倂
hay
併
tính (gom lại, như cách dùng thôn tính
吞併 -
tương quan
重紐
trùng nữu)
抨
phanh, b́nh
伻
b́nh
苹
b́nh, biền
平
b́nh, biền
拚
biện, phấn, phân, phiên
…v.v…
Thành ra có thể dịch hay kư âm
拼音
là
b́nh âm
banh/phanh âm
bính âm
tính âm
phiên/phân âm
biền âm
pinyin hay pīnyīn (để nguyên dạng La Tinh, không dịch hay phiên ra âm
Hán Việt) - như chính người viết bài này đôi khi cũng chỉ dùng pinyin
cho đơn giản, cũng như tác giả Nguyễn Tuấn Cường trang
http://tuancuonghn.blogspot.com.au/2010_12_01_archive.html ...v.v…
hay theo GS Vũ Thế Ngọc (trong "Nghiên cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt",
NXB Eastwest Institute, California 1989) hay trên các trang
http://www.vn520.org/@forum/thong-bao-ra-mat-tu-dien-pin-yin-t711.html
hay
http://chinesetopinyin.blogspot.com.au/2010/01/chuyen-tieng-hoa-sang-phien-am-convert.html
,
http://dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=96148&mpage=13; Giống như một
số tác giả khác (cũng như người viết bài này), GS Lê Đ́nh Khẩn dùng cụm
từ "phiên âm Bắc Kinh" để chỉ pīnyīn trong "Từ vựng gốc Hán trong tiếng
Việt" (NXB Đại Học Quốc Gia Thành Phố HCM, 2002); Từ Điển Trung Việt (Vương
Trúc Nhân/Lữ Thế Hoàng biên soạn, NXB Đồng Nai, 1997) ghi pīnyīn là ghép
vần, phiên âm ...v.v...
2.2
Pinyin dịch là
phanh âm
bởi GS Phạm Cần trong "Từ Điển Hán Việt" (NXB Thanh Hóa, 1998); hay các
tác giả LM Trần Văn Kiệm3 , Tạ Quốc Tuấn4 , GS Đàm
Trung Pháp trong bài viết "Khi phương Tây ái mộ phương Đông: Thơ Lư Bạch
trong tâm tư người Âu-Mỹ" (8/2011) trang
http://www.thivien.net/viewwriting.php?ID=25 … Theo tác giả Kiến
Văn trang
http://www.giaodiemonline.com/sach_detail.php?sachid=90 ; Đàm Trung
Pháp/Hoàng Xuân Chỉnh - xem trang này chẳng hạn
http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=105&ia=295
; Hay tác giả Vĩnh Sính5 trang
http://www.ovsclub.com.vn/show_article.php?aid=26791&lg=vn ; Trên
diễn đàn Viện Việt Học6 cũng có khi dùng phanh âm như trang
này
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?15,10174,45433,quote=1. Vĩnh
Cao và Nguyễn Phổ cũng ghi pinyin là phanh âm
trong "Từ Lâm Hán Việt Từ Điển" (NXB Thuận Hoá - 2001). Trong các
trao đổi về quá tŕnh La Tinh hoá tiếng Hán, ta vẫn thấy cách dùng phanh
âm như trên diễn đàn Đặc Trưng
http://dactrung.net/phorum/printable.aspx?m=227475 ,
http://nguyentuyet.violet.vn/document/showprint/entry_id/4851956 ,
Việt Báo (17/8/2011) trang
http://vietbao.com/D_1-2_2-282_4-178785/ cũng như bài viết "Đo lường
ở Việt Nam" của Nguyễn Tùng đăng trên Văn Hoá Nghệ An (30/3/2011) trang
http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/2281-do-luong-o-viet-nam1.html
...v.v...
2.3
Pinyin dịch là
bính âm
theo tác giả Lê Anh Minh (2006) trong bài viết
http://vietsciences2.free.fr/sinhngu/hannom/tuhochanngu/tongquat/phatam.htm
hay theo vi.wikipedia (và các tài liệu tham khảo liên hệ) trang
http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ADnh_%C3%A2m_H%C3%A1n_ng%E1%BB%AF
… Trong một trang của Bách Khoa toàn thư mở vi.wikipedia có lúc dùng cả
hai cách dịch phanh âm và bính âm - như trang này
http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93ng_K%C3%B4ng … Một số tác giả
ghi cả hai cách phanh âm/bính âm để chỉ pinyin như Tống Phước Khải
(2008). Một bài viết cách đây chỉ vài tháng (26/11/2011) c̣n ghi pinyin
là “b́nh/phanh âm” - xem trang này
http://tintuchangngay.info/2011/11/26/xon-xao-vi%E1%BB%87c-phien-am-tren-bao-chi-gay-c%C6%B0%E1%BB%9Di-trong-ngo%E1%BA%A1i-giao/
(điều này cho thấy cách dùng bính âm không nhất trí và không chắc
chắn cho lắm). Trong một trang mạng du lịch, có lúc pinyin dịch là
phanh âm và có lúc pinyin là bính âm
http://www.mangdulich.com/vietnam-tourism/index.php?language=vi&nv=news&op=search&q=%C4%91%E1%BA%B7c+%C4%91i%E1%BB%83m&mod=all&page=180
. Bài viết mới đây (28/3/2012) về từ Hán Việt dùng bính âm trang này
http://dcvonline.net/modules.php?name=News&file=article&sid=9019 .
Người viết đă từng dùng phiên âm (chỉ pinyin) trong một số bài viết cách
đây nhiều năm, nhưng thật ra phiên âm fānyīn
翻音
không phải là pīnyīn
拼音
tuy phạm trù nghĩa và âm có phần giống nhau và cụm từ phiên âm rất phổ
thông từ trước đến nay3. Có vẻ như đa số đă dùng bính âm để
chỉ pinyin cho tới ngày hôm nay.
Để ư các
tự điển như "Đại Từ Điển Tiếng Việt" (Nguyễn Như Ư chủ biên, NXB Văn Hóa
Thông Tin -1998), "Tự Điển Việt Nam" (Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ hiệu đính,
Nhà sách Khai Trí - 1970) đều không có ghi phanh âm hay bính âm.
3. Kết luận
Không biết những nguyên nhân lịch sử hay ngôn ngữ chính xác nào đă đưa
đẩy, nhưng cách dịch pīnyīn là
bính âm
hiện nay có thể phản ánh dấu ấn của hai thời kỳ giao lưu văn hoá và ngôn
ngữ rất khác nhau giữa VN và TQ
(a) thời Đường Tống về trước cho ra dạng âm
音 - đọc là
ư kim thiết
於今切/ĐV,TV
âm âm
音隂 -
giọng BK bây giờ đă ngạc cứng hoá cho ra dạng yīn
(b) thời cận đại (thế kỷ 20 về sau) cho ra dạng bính
拼
(gần với âm pīn BK nhất). So sánh với cách đọc tân lang
檳榔
(cây cau) theo giọng BK bây giờ là bīn láng mà gần đây có cách
dịch là binh lang hay b́nh lang. Ngoài ra, món ăn Ngầu Pín
牛鞭
(niú biān theo pinyin) chỉ nhập vào tiếng Việt gần đây nên vẫn duy tŕ
và gần với âm (gốc) Quảng Đông nhất thay v́ dịch ra Hán Việt là *Ngưu
Tiên7 th́ xa lạ quá!
Ta cũng thường nghe nói là binh (bài) xập xám8 chứ không ai
nói binh *thập tam (âm HV cổ hơn) v́ loại bài này có 13 lá và chỉ
nhập vào VN gần đây mà thôi.
4. Phụ chú và phê b́nh thêm
Bạn đọc có thể xem thêm các chi tiết về quá tŕnh La Mă hoá
(Romanisation) của chữ Hán trang
http://en.wikipedia.org/wiki/Romanization_of_Mandarin_Chinese hay
bài viết "The Prospects for Chinese Writing Reform" (Các triển vọng
cải cách chữ Hán) của GS John DeFrancis (6/2006) trang này
http://www.pinyin.info/readings/defrancis/chinese_writing_reform.html
. Pháp sư Thích Tịnh Không khẳng định hệ thống pinyin của TQ là từ Hoa
Nghiêm tự mẫu (chữ Phạn) - xem bài giảng trang
http://www.hoakhaikienphat.com/sachtinhdophapngu/trungphongtamthoiheniem/tamthoiheniem/chuong2.htm
hay
http://ftp.budaedu.org/ebooks/pdf/VI167.pdf ... Các trao đổi về cách
dịch pinyin trên vi.wikipedia cũng đáng chú ư - đọc thêm chi tiết trang
http://vi.wikipedia.org/wiki/Phi%C3%AAn_thi%E1%BA%BFt_H%C3%A1n-Vi%E1%BB%87t
hay trang
http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A3o_lu%E1%BA%ADn:B%C3%ADnh_%C3%A2m_H%C3%A1n_ng%E1%BB%AF
… So sánh các cách ghi âm của chữ Hán (và âm Hán Việt) - trích từ trang
http://en.wikipedia.org/wiki/Wade-Giles
Phiên âm quốc tế (IPA) |
mɑ˥˥ |
mɑ˧˥ |
mɑ˨˩˦ |
mɑ˥˩ |
mɑ |
Bính âm (pīnyīn, Hán Ngữ Bính âm) |
mā |
má |
mǎ |
mà |
ma |
Thông Dụng Bính Âm (Đài Loan) |
ma |
má |
mǎ |
mà |
må |
Hệ thống Wade-Giles |
ma1 |
ma2 |
ma3 |
ma4 |
ma0 |
Chú âm (Zhùyīn) |
ㄇㄚ |
ㄇㄚˊ |
ㄇㄚˇ |
ㄇㄚˋ |
ㄇㄚ・ |
Chữ Hán (phồn/giản thể) |
媽/妈 |
麻/麻 |
馬/马 |
罵/骂 |
嗎/吗 |
|
|
|
|
|
|
Âm Hán Việt
mụ/ma ma mă mạ mạ (A)
Nghĩa tiếng Việt
(mẹ/má)(cây gai)(ngựa)(chửi)(tiếng trợ ngữ/
nghi vấn)
(A) Chữ mạ
嗎,
'trẻ nhất' trong các thí dụ trên, từng được dùng như chữ mạ
罵
(theo TVi, KH) và có thể đọc là ma,má,mǎ (giọng BK); hiện nay thường
dùng trong câu hỏi (như trong câu nói rất phổ thông
你好嗎/你好吗
nǐ hǎo má) hay phiên âm tiếng nước ngoài như tiếng Pháp morphine/morphia
(Mạ phê
嗎啡),
hay dùng trong cấu trúc từ láy như
嗎嗎糊糊
(má má hú hú, hay
馬馬虎虎)
nghĩa là tàm tạm ...
Các cách viết chữ bính
拼
- trích trang
http://140.111.1.40/yitia/fra/fra01556.htm
(xem thêm các dạng khác ở trang Tập Vận bên dưới)
Đáng chú ư là trong cuốn "Từ Điển Hán Việt" do một ban GS biên soạn in
tại Bắc Kinh năm 1994 (tái bản năm 2005, Chủ biên: Hậu Hàn Giang, Mạch
Vĩ Lương) th́ pīnyīn, trang 512, được ghi là ‘đánh vầng/ghép vần’
(sai chính tả, đáng lẽ là đánh vần).
Long
Kham Thủ Giám,
Ngọc Thiên
Tập
Vận
1) Mao Trạch Đông đề nghị dùng Bính âm từ năm 1951, một trong những thay
đổi quan trọng cũng như hệ thống giản thể của Hán ngữ
2) Bội Huề do Quách Trung Thứ (?-977) đời Tống soạn (ba quyển).
3) trong cuốn "Giúp đọc Nôm và Hán Việt" NXB Thuận Hoá (1999), tác giả
LM Trần Văn Kiệm viết:
Phanh (pīn)
- Lắp khớp với nhau; Phanh âm [đánh vần t́m âm; Người Việt Nam “phanh
âm” mỗi khi đánh vần (có thể căn cứ vào bộ gốc…) để t́m âm chữ Nôm, sau
đó họ diễn tả âm ấy bằng quốc ngữ tức là bằng mẫu tự La-tinh Người Bắc
kinh cũng phanh âm (Pin Yin) khi họ diễn tả âm phổ thông theo giọng Bắc
kinh ra mẫu tự La-tinh. Trước sau không có phiên dịch; âm và nghĩa chữ
vẫn nguyên vẹn, chỉ có âm của chữ là được “viết” theo lối mới mà thôi
(Anh ngữ: transliteration). Cho đến nay người Việt hay gọi “Pin yin” là
Phiên âm; thực ra phải là “Phanh âm” – Nên nhớ lối Việt Nam và Trung
hoa sử dụng mẫu tự La tinh không giống nhau hoàn toàn ]; Phanh bản (lắp
chữ in)
- Món ăn chơi:
Phanh bàn
- Cụm từ Phanh
mệnh: liều mạng; hết sức thi hành; Phanh mệnh công tác.
(hết trích) - xem chi tiết trang
http://www.dunglac.org/upload/book/f__1192617261.htm . Trong bài
viết "Mạn đàm về Hán Việt trong Việt ngữ" (29/5/2002), ông nhận xét
thêm:
'... Trên đây có nói
đến công tŕnh “Phanh âm” các bản Nôm ra Quốc ngữ. Trước đây người ta
hay nói “Phiên âm ra Quốc ngữ”, nhưng “phiên âm” có nghĩa là chuyển dịch
một âm thanh một ngoại ngữ ra âm thanh quen thuộc với độc giả. Chẳng hạn
tên thủ đô Hoa ḱ là Washington được người Bắc Kinh viết ra ba chữ đọc
lên vừa na ná như âm thanh tiếng Mĩ, lại thuận tai của họ; th́ đó “phiên
âm” . C̣n khi diễn âm Bắc kinh bằng mẫu tự la-tinh ra Hua-shèng-dùn th́
lại là công tŕnh “Phanh âm”: âm thanh không thay đổi, chỉ có lối viết
là khác trước mà thôi....
Tới đây mới thấy là
không dễ mà phân biệt Nho với Hán; Hán tự với Hán Việt, tiếng b́nh dân
với chữ Nôm, Pin yin (Phanh âm) với Fan yin (Phiên âm) ...'
- trích từ trang
http://www.hatnang.net/showthread.php?t=1255 . Bài viết "Quy tŕnh
Nôm Na" (lặp lại cách dùng phanh âm/pinyin) của Ngô Thanh Nhàn, Ngô
Trung Việt và Nhóm Nôm Na trong Hội thảo Hè 2002 tại Đại học Maine trang
http://www.viet-studies.info/hoithao/QuytrinhNomNa.pdf , hay trong
bài viết "Nghiên Cứu Số Hóa Kho Tư Liệu Hán-Nôm Theo Chuẩn DUBLIN CORE"
(2007) của TS Ngô Thanh Nhàn trang
http://www.ivce.org/magazinedetail.php?magazinedetailid=MD00000294
…v.v…
Ngoài ra, Nxbtrithuc (Hà Nội) có in lại cuốn "TỪ ĐIỂN NHÂN DANH, ĐỊA
DANH & TÁC PHẨM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TRUNG QUỐC" của BS Hoàng Xuân Chỉnh
và qua phần giới thiệu tác phẩm: '... Một ưu điểm nữa, là nó giúp
cho những ai đọc sách báo Âu-Tây, gặp nhân danh, địa danh viết theo lối
pinyin (phanh âm) hay quy ước Wade-Giles, t́m ra phiên âm Hán Việt quen
thuộc. Lănh đạo Trung Quốc ngày nay, Wen Jiabao, hay ngày xưa, Cao Cao,
“tên” là ǵ ? không phải ai trong chúng ta cũng nhận ngay ra Ôn Gia Bảo
và Tào Tháo. Một thí dụ nữa, dễ thuyết phục hơn : đố các bạn biết Lu Xun
là ai ? Phần đông bạn đọc sẽ trả lời ngay : Lỗ Tấn. Trả lời như vậy
không sai. Nhưng mới đúng 1/3 thôi. V́ Lu Xun c̣n là Lục Tốn, danh tướng
Ngô thời Tam Quốc (thế kỉ 3), và Lư Tuần, thời Đông Tấn (thế kỉ 5), từng
tự xưng B́nh Nam tướng quân, chiếm lĩnh Quảng Châu trước khi đào tẩu (và
tự vận) ở Giao Châu…' - trích từ trang
http://nxbtrithuc.wordpress.com/
4) tác giả Tạ Quốc Tuấn dùng phanh âm/pinyin trong loạt bài "Nho Sĩ Việt
Nam" - xem chi tiết trang
http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=10616 ,
http://www.nhanvan.com/magazines/vanhoc/188/vanhocachau_taquoctuan.htm
hay bài viết trên mạng Hội Hàng Hải VN
http://vinavigation.net/vn/index.php?arid=37 …v.v…Bài viết mới đây
(28/3/2012) về tiếng Trung (Quốc) dùng phanh âm trang này
http://www.hennhausaigon2015.com/?p=17973
5) từ góc nh́n của một du học sinh bên Nhật, tác giả Vĩnh Sính
nhận xét: '...Pinyin
拼音
(phanh âm; phanh là ghép, ráp; phanh âm là ghép vần hoặc đánh
vần) là lối phiên âm chính thức ở Trung Quốc.
Ở Nhật hồi đầu
thời Minh Trị cũng có người chủ trương phải latinh hoá, nhưng
không được dân chúng hưởng ứng. Sau Thế chiến thứ hai, cơ quan
“Chỉ huy tối cao của Bộ Tổng tư lệnh Đồng minh”,[4] lại định
muốn latinh hoá và bỏ chữ Hán, họ mới tiến hành cuộc thi chữ
Hán trên toàn quốc để xem trình độ của người Nhật như thế
nào. Kết quả là trước sự “gắn bó” của người Nhật với chữ
Hán, GHQ đành quyết định giữ nguyên như với ba cách viết là
hiragana,katakana, và kanji (漢字
hán-tự, tức
chữ Hán) như chúng ta đã biết.
Tiếng Hàn Quốc
cũng thế, ngày nay người ta dùng hangul — một loại chữ viết
của người Hàn. Nếu trong bài viết bằng tiếng Anh chẳng hạn,
khi nào gặp tiếng Hàn thông dụng quá, như chaebol (tài phiệt)
hoặc Samsung (Tam-tinh; tam là ‘ba’, tinh là ‘ngôi sao’), người ta
viết tiếng latinh cũng không sao cả. Người ta đã có hangul rồi
mà...'
(hết trích)
6) trên diễn đàn Viện Việt Học, bác Trần Anh Mỹ (13/2/2012) kể lại rằng
‘Ngày xưa tôi học
tiếng Hán bằng sách Bộ Giáo Dục biên soạn và phát hành từ Hà Nội, th́
gọi là Phanh Âm. Sách này lưu hành xuống đến tận vĩ tuyến 17, bờ bắc cầu
Hiền Lương. Trường tôi dạy sách này từ năm 1960, và tôi bắt đầu học nó
năm 1963. H́nh như năm 1970 th́ không c̣n dạy chữ Hán trong trường học
nữa th́ phải. Tôi bây giờ vẫn xài tự điển Phanh Âm của Bắc Kinh, và vẫn
đánh chữ Hán bằng Phanh Âm trên Internet, v́ âm Hán Việt của tôi chỉ lơm
bơm vài trăm chữ thôi…’ -
trích từ trang
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?15,56586
7) Ngầu Pín 牛鞭
(Ngưu Tiên HV) là dương vật của ḅ (bull 's penis) thường được chưng,
tiềm hay nấu với thuốc bắc - theo học giả Lê Ngọc Trụ, "Tầm Nguyên Tự
Điển Việt Nam" NXB Thành Phố HCM (1993). Món Ngầu Pín thường gặp ở các
tiệm ăn ở Quảng Đông, Hải Nam ... và ngay cả các quán phở Việt Nam, hay
quán ăn ở Thái Lan (thường có chủ là người Hoa). Một số người tây phương
hay dân gốc Á Châu sinh trưởng ở ngoại quốc thấy món ăn này rất quái
dị (bizarre). Một điểm đáng chú ư là tiên
鞭
đọc là 𤰞連切,
音編 ti liên
thiết - âm biên (tiên) (ĐV, TV, VH). Các tự điển Hán Việt thường ghi âm
tiên hơn là biên (âm biên gần âm Hán nguyên thủy) : đây là tương quan
重紐
trùng nữu p/b > t trong hệ thống âm thanh Hán Việt. Như chữ
卑 (bēi
theo pinyin) chỉ có tiếng Việt (âm Hán Việt) mới đọc là ti so với các
phương ngữ khác của TQ, cũng như tiếng Hàn (đọc là pi) và Nhật (đọc là
hi, p/b > h) - trích cách đọc
卑 trang
http://www.zdic.net/zd/zi/ZdicE5Zdic8DZdic91.htm
粤语
(Việt ngữ, tiếng Quảng Đông):bei1
- 客家话
(tiếng Hẹ/Khách Gia):[陆丰腔]
bi1 [梅县腔]
bi1 [台湾四县腔]
bi1 [客英字典]
bi1 [海陆丰腔]
bi1 [客语拼音字汇]
bi1 [东莞腔]
bi3 [沙头角腔]
bi1 [宝安腔]
bi1 - 潮州话:bui1
(Triều Châu)
So với các cách đọc chữ
拼
粤语
(Việt ngữ, tiếng Quảng Đông):ping1
ping3
客家话
(Khách Gia thoại/tiếng Hẹ):[客语拼音字汇]
biang4 pin1 [宝安腔]
pin5 [梅县腔]
bin5 bin3 [海陆丰腔]
pin2 pin1 ben1 bin5 biang5 [东莞腔]
pin5 [台湾四县腔]
pin2 pin1 ben1 bin5 biang5
8) xập xám là âm gần với giọng Quảng Đông nhất - loại bài Tây này c̣n
gọi là xập xám chướng, Chinese poker, Russian poker. Đây là những từ gốc
Hán nhập vào tiếng Việt qua khẩu ngữ chỉ gần đây mà thôi.
|