Thổ
Ngữ Của Tiếng Huế
Phan
Thịnh
Tiếng Huế không phải chỉ
đơn giản tê mô răng rứa như thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong thơ,
nhạc và văn xuôi như những nét chấm phá rất dễ thương để nói về người và
xứ Huế; mà nhức đầu, phức tạp, nhiêu khê, đa dạng và phong phú hơn nhiều .
Tùy vào từng địa phương của Huế, cách phát âm có chỗ nặng nơi nhẹ; lúc
thanh tao khi khó hiểu .
Xin được đơn cử một câu rất
Huế, một tâm sự kín đáo giữa hai o đang tuổi lấy chồng: "Tau noái với
mi ri nì, en còn ở dôn, rứa mà bữa tê tề, en chộ tau phơi ló ngoài cươi,
en kiêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba . . . en đẩn . Mi quai chướng
khôn ?" Sở dĩ tâm sự kín đáo vì đây là chuyện riêng của hai người, nói
bằng thổ ngữ, nhưng ý nghĩa thì như vầy: "Tao nói với mày như vầy, ảnh còn
ở rể, vậy mà hôm kia kìa, tao đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào,
bồng tao lên giường, rồi ảnh . . . Mày coi có kỳ không ?" .
Chữ đẩn, ngoài ý
nghĩa một trong bốn cái nhất của đời người trên còn có nghĩa như ăn: "Đẩn
cho bưa rồi đi nghể" . Ăn cho no rồi đi ngắm gái .
Đẩn
cũng có nghĩa là đánh đòn: "Đẩn cho hắn một chặp!" (Đục cho hắn một
hồi!) . Chữ đẩn còn được phong dao Huế ghi lại:
Được mùa thì chê cơm hẩm
Mất mùa thì đẩn cơm thiu
Xin được thêm một câu ngăn
ngắn gần như rặt thổ ngữ của Huế mà, nếu không có . . . thông dịch viên
gốc Huế hoặc Huế rặt, e rằng khó mà . . đã thông cho được:
"Thưa cụ mự, bọ tui vô rú rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa
mà nỏ biết ra răng, con cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui mờng rứa thê ! Chừ
mạ tui cúng con gà, cụ mự qua chút chò bui ." (Thưa cậu mợ, bố con vào
rừng rút mây về đan rá (hoặc nia), bố con thấy con cọp, vậy mà chẳng biết
sao; con cọp chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con mừng quá . Giờ mẹ con đang
cúng con gà, cậu mợ qua chút xíu cho vui) Khó hiểu chưa ? !
Thổ ngữ ở Huế thì nhiều lắm
và cũng lạ lắm, và vì tiêu đề của bài này là lan man về những thổ ngữ đó,
nên xin được nhẩn nha tìm lại chút ít những gì đã mất và ôn lại những gì
đang còn xài . Vì trang báo có hạn, không thể giải thích từng chữ một, nên
trong bài này, xin được ghép thổ ngữ thành từng câu, từng nhóm thổ ngữ,
vừa đỡ nhàm chán lại ra câu ra kéo, có đầu có đuôi hơn:
"Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi
rượn đực!" (Thứ
mặt mày hốc hác mà đòi hóng trai) Độc chưa ? O mô mà lỡ mang cái nhãn
không cầu chứng tại tòa này chắc phải ở giá hoặc phải chọn kiếp . . . tha
hương may ra mới có được tấm chồng . Chữ rượn gần đồng nghĩa với
câu con ngựa Thượng Tứ, câu này cũng độc không kém . Thượng Tứ là
tên gọi của cửa Đông Nam, bên trong cửa này có Viện Thượng Kỵ gồm hai vệ
Khinh kỵ vệ và Phi kỵ vệ chuyên nuôi dạy ngựa cho triều đình Huế . Vì thế
gọi ngựa Thượng Tứ có nghĩa bóng bảy xa xôi rằng con đó nó ngựa lắm,
nó đĩ lắm, nhưng thâm thuý hơn nhiều
"Mệ cứ thộn ló vô lu, còn
lưa, tui này lại !"
(Bà cứ dồn lúa vô khạp (cho đầy), còn dư ra, con mua lại) . Chữ lưa
cũng còn có nghĩa là còn đó như trong hai câu trong bài ca dao Huế:
Cây đa bến cộ (cũ) còn lưa
(còn đó)
Con đò đã khác năm xưa tê
rồi
Này lại
(mua lại); tiếng này thường chỉ dùng nơi xóm giềng, thân cận; tương đương
với chữ nhường lại, chia lại, mua lại . Chứ không dùng ở chợ búa hoặc nơi
mua bán um sùm
Đập chắc lỗ đầu, vại máu!
(Đánh nhau bể đầu, toé máu!)
Thương bọ mạ để mô ? Để côi trốt! Chắc chúng ta cũng thường hay hỏi
lũ con lúc chúng vừa tập nói, vừa biết tỏ tình thương đối với cha mẹ, câu
này có nghĩa: "Thương bố mẹ để đâu ? Để trên đầu!" Rồi đưa ngón tay chỉ
chỉ, miệng cười cười, nghe hoài không biết chán
Tra trắn rứa mà còn ở lỗ!
(Chững chạc, già đầu vậy mà còn cởi truồng) . Ở lỗ cũng xuất hiện
trong câu phương ngôn "ăn lông ở lỗ" hoặc "con gái
Nam Phổ, ở lỗ trèo cau!"
Lên côi độn mà coi
(Lên trên đồi mà xem .) Chữ coi về sau này đã phổ biến đến nhiều
địa phương khác .
Mự đừng có làm đày!
(Mợ đừng có lắm lời, thày lay) . Riêng chữ cụ mự thường là dùng cho
cậu mợ . Người Huế ít dùng chữ cụ để chỉ người già vì đã có chữ
ôn hay ông . Điển hình như cụ Phan Bội Châu với chuỗi ngày "an
trí " ở Huế, dân Huế đã có tên gọi ông già Bến Ngự, hoặc trong ca dao Huế,
khi nói đến cụ Phan:
Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau
lưng
Chộ chưa ? Nỏ chộ !
(Thấy chưa ? Không thấy !) Nỏ là lối phủ nhận gọn gàng pha chút
giận hờn, chanh cốm như chả biết, chả ăn, chả thèm vào ! Hắn mô rồi ? Nỏ
biết ! Chữ nỏ biết ở đây pha chút, chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện
hắn đang ở đâu ! Tục ngữ Huế: Có vỏ mà nỏ có ruột .
Khóc lảy đảy, không biết ốt
dột ! (Khóc ngon
khóc lành, không biết xấu hổ!) .
En dòm tui, tui dị òm !
(Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá !) Chữ òm người Huế vẫn thường dùng
để bổ túc cho cái phủ định của mình: Ngon không ? Dở òm !
O nớ răng mà không biết hổ
ngươi ! (Cô đó
sao mà không biết mắc cỡ !) Hổ ngươi cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc
cỡ . Cũng như xấu hổ, thẹn, mắc cỡ thì ốt dột, dị và hổ
ngươi có nghĩa khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng
Chiều hắn cho gắt, hắn được
lờn !: Chiều nó
cho lắm vào, nó làm tới . Mời ôn mệ thời cơm: Mời ông bà dùng cơm .
Mệ tra rồi mệ chướng:
Bà ấy già nên sinh tật . Chữ chướng, người Huế cũng thường dùng để
chỉ mấy đấng nhóc tì khóc nhè, bướng bỉnh hoặc các vị có lối nói, cách
hành xử ngang như cua .
Ăn bụ cua cho hết đái mế:
Ăn vú cua cho hết đái dầm . Chữ bụ cũng dành cho người và các loài
có vú khác . Bụ mạ là vú mẹ, bọp bụ là bóp .
Bữa ni răng tau buồn chi
lạ, buồn dễ sợ luôn !
(Sao hôm nay tao buồn quá, buồn quá trời luôn !) . Dễ sợ, với người
Huế không đơn thuần ở nghĩa thấy mà ghê ! hoặc khủng khiếp quá !,
mà còn có nghĩa, thí dụ: Con nớ đẹp dễ sợ !: Con bé đó đẹp quá trời
!
Răng mà cú tráu rứa tê ?:
Sao mà cộc cằn quá vậy ? Chữ cú tráu nếu phát âm đúng với giọng Huế
thì nghe nặng hơn chữ cộc cằn nhiều, có lẽ phải gom thêm mấy chữ như thô
lỗ, vũ phu thì mới lột tả được hết nghĩa .
Huế nói trại
Nói trại là nói sai giọng,
không đúng âm theo giọng viết, nói trại đôi khi cũng dùng trong trường hợp
"nói khác đi, nói cách khác" . Cách nói bị biến âm này rất phổ thông ở
Huế, nhất là dân cư vùng biển . Nói trại làm cho âm thanh nặng hơn, khó
hiểu hơn .
Con tâu tắng ăn ngoài bụi
te tức là con
trâu trắng ăn ngoài bụi tre . Tời tong tẻo, nước tong veo: Trời
trong trẻo, nước trong veo .
Hầu hết những từ bắt đầu
bằng "nh" đều được người Huế nói trại thành "gi": già
(nhà) . Giớ già giớ vợ ở già: Nhớ nhà nhớ (luôn) vợ ở nhà!
Những từ bắt đầu bằng
"s" thì nói trại ra thành "th": Ăn thung mặc thướng: Ăn
sung mặc sướng hoặc Thầy gòn là Sài gòn, hoặc nữa: Noái năng
thòng phẳng: nói cho sòng phẳng, rõ ràng . Lối phát âm của người Huế
không xác định được âm cuối là "n" hay "ng": Con thằng
lằng chép miệng thở thang!: Con thằn lằn chép miệng thở than!
Những chữ có âm "o"
thường nói trại ra "oa": Xa voài voại, noái khôn tới, với khôn
được, ngó khôn chộ: Xa vòi vọi, nói không tới, với không được, nhìn
không thấy! Hoặc nữa: Đi coai boái, thầy boái noái đi coai cái voài
voai: Đi coi bói, thầy bói nói đi coi cái vòi voi.
Những chữ có âm "ô", người Huế thường nói trại thành âm "u":
Thúi trong thúi ra: Thối từ trong ra ngoài. Túi lửa tắt đèn:
Tối lửa tắt đèn.
Nậy rồi mà mũi rãi thò lò !:
Lớn đầu mà mũi rãi lòng thòng ! Chữ thò lò cũng đã góp mặt trong ca
dao Huế:
Học trò thò lò mũi xanh
Cầm cái bánh đúc chạy quanh
nhà thầy !
Vô rú mà đốn săng:
Vào rừng mà đẵn gỗ . Săng cũng đã góp mặt trong mấy câu hò giã gạo
với lối đối đáp rất "văn hóa" của Huế:
Bên nữ:
Lẻ củi săng chẻ ra văng vỏ
Bỏ vô lửa đỏ than lại thành
than
Trai nam nhân chàng mà đối
đặng
Thiếp xin kết nghĩa tào
khang trọn đời
Nghĩa: Cây củi gỗ chẻ ra
văng (Văn) vỏ (Võ), thảy vô lửa thì thành (Thành) than (Thang) . Cái kẹt
là ý lại thâm hậu, cao xa hơn nhiều: Văn, Võ Thành, Thang là những vị vua
thời Tam Đại, Tây Châu bên Tàu .
Bên Nam:
Trâu ăn giữa vạc ló lỗ
Đã ngụy chưa tề !
Nam nhân chàng đã đối đặng
Thiếp đã chịu theo chàng
hay chưa ?
Nghĩa: Con trâu (Trâu) ăn
giữa vạt lúa trổ (Lỗ), sao kỳ quá vậy ? Ý ư, cũng điển tích như ai: Trâu,
Lỗ, Ngụy Tề là bốn nước thời Xuân thu Chiến Quốc cũng ở bên Tàu luôn . Còn
hai người có "tào khang" với nhau được hay không là chuyện . . . của họ
En trên rầm thượng bổ
xuống, nằm ngay đơ cán cuốc, phải địu đi nhà thương !:
Anh ấy té trên rầm thượng té xuống, nằm cứng như cán cuốc, phải bồng, cõng
đi nhà thương ! Đến đây thì kẻ hèn này hơi kẹt . Rầm thượng là gác lửng,
hay kho chứa bên dưới mái nhà ? Ở Huế, rầm thượng không phải là chỗ ngủ
nghỉ mà là nơi chứa những đồ gia dụng đáng giá nhưng phải cỡ nhỏ, vì không
có lối lên . Muốn lên rầm thượng, phải bắc thang; thân phụ tôi đã dùng rầm
thượng để cất giữ những đồ cổ vừa phải, không qúy lắm . Còn nếu qúy nữa
thì bỏ vào rương xe, một thứ tủ thấp đóng bằng gỗ thật dày, có nắp đậy, có
luôn 4 bánh xe để đẩy vì khiêng không nổi, nặng quá mà ! Mặt bằng của
rương xe là cái đi-văng, tối tối cứ trải chiếu nằm ngủ trên đó là khỏi lo
trộm đạo
Nước mắt chặm hoài không
khô, răng khổ ri nì trời !:
Nước mắt lau, thấm hoài không khô, sao khổ vậy nè trời ! Chữ chặm
cũng đã lãng đãng trong mấy câu hò giã gạo, mà vì não nùng ai oán quá,
nghe hò xong e phải . . bỏ chày luôn:
Hai hàng nước mắt như mưa
Cái khăn lau không ráo
Cái áo chặm không khô
Công anh đổ xuống ao hồ
Quì thưa bẩm dạ thuở mô đến
chừ !
Mặt mày chạu bạu, ai chịu
cho thấu !: Mặt
mày một . . đống, ai chịu cho nổi ! Chữ thấu cũng có nghĩa là
tới: Kêu trời không thấu: Kêu không tới trời; Vô thấu trong Thầy gòn:
Vô tuốt trong Sài gòn .
Mả cha cái thằng vô hậu:
Tiên sư cái thằng đoảng
Ăn trầu cơi thiếc:
Ăn trầu (để) trong hộp, quả bằng thiếc . Cái cơi thiếc cũng đã đi
vào tục ngữ Huế: Uống nước chè tàu, ăn trầu cơi thiếc .
"Mả cha mi"
là tiếng chửi, lời nhiếc mắng rất thông dụng ở Huế, đồng nghĩa với "mồ cha
mày" . Lối chửi này ít thông dụng ở những địa phương khác .
Đi xe hay đi chưn xuống rứa
?: Đi xe hay đi
bộ xuống đây vậy ?
Túi thùi thui, có chộ chi
mô !: Tối quá,
không thấy gì hết !
Rạt gáo rồi mà còn làm le
làm gió !: Cạn
túi rồi mà còn làm bảnh, làm sang !
Ăn đoại cơm hến, uống đoại
nước chè: Ăn tô
cơm hến, uống bát nước chè (xanh) . Tục ngữ Huế: Ăn lưng đoại, làm đoại
lưng (làm muốn gãy lưng !) .
Cơm hến, chẳng có chi cầu
kỳ, nhưng nhiều mùi vị với lưng bát cơm nguội, rau sống, thân chuối non,
rau mùi xắt nhuyễn, nước luộc hến chan vô, cho chút xíu ruốc, bỏ chút ít
hến xào, thêm vài trái ớt, đúng với cái ít ỏi của Huế .
Bữa ni đi kéo ghế:
Hôm nay đi ăn nhà hàng . Người Huế, nhất là ở thôn quê, thường dọn cơm
trên phản, trên tấm ngựa . Không dọn trên bàn nên khỏi có cái vụ kéo cái
ghế mà ngồi vào bàn . Vì thế, mỗi khi được dịp đi ăn ở quán, ở nhà hàng
thì gọi là đi kéo ghế .
Huế làm đày làm láo, Huế nói
chữ
Vâng, người Huế, nhất là
mấy o, mấy mệ thì ưa ăn nói văn hoa chữ nghĩa, ưa đa sự đa lự, ưa . . .
làm đày làm láo, tức ưa xảnh xẹ, ưa nói lý nói sự, nói dông nói dài . Thêm
vào đó, phải nói cho hay, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan thì "tụng"
mới phê ! Cái phong cách noái lặp đi lặp lại của người Huế vừa như là một
cách nhấn mạnh, vừa có vẻ dạy đời lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi
hơn, thâm thúy hơn nữa.
Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí xọn quá, lu bu lắm . Người Huế ít khi
dùng chữ lắm hay chữ quá mà dùng điệp ngữ: Cái con nớ,
lanh cha lanh chanh ! Mấy mụ o giọn (nhọn) mồm tức mấy bà chị chồng
mỏng mép của Huế vẫn đôi khi chê em dâu: Răng mà hắn vô phép vô tắc rứa
hè !: Sao mà nó vô phép quá vậy!
Về màu sắc, người Huế
thường có lối nói điệp ngữ để nhấn mạnh: xanh lè lè, đỏ lòm lòm, đen thùi
thui, vàng khè khè, tím giắt giắt (tím ngắt) .
Bởi, cà rịch cà tang rứa mà
đoài làm giôn !:
Vậy đó, tà tà, lè phè vậy mà đòi làm rể ! Còn nữa, để than trách ông trời
sao mưa lâu quá, mấy o ngồi chỏ hỏ trong nhà dòm ra, chép miệng than dài
than ngắn: Mưa chi mưa mưa thúi đất thúi đai !.
Một bà mẹ tụng cô con gái,
một bà chị cả mô-ran cô em thứ mà nghe cứ như là đang đọc một bài đồng
giao với vần điệu, trầm bổng cũng là một trong những sinh hoạt dưới mái
gia đình: Mi phải suy đi nghĩ lại cho kỹ ! Mi coi, là con gái con lứa,
đừng có đụng chăng hay chớ, cũng đừng lật đa lật đật, cũng đừng có mặt sa
mày sỉa . Bọ mạ thì quần ống cao ống thấp, tất ba tất bật để nuôi mình .
Tau thấy mi rứa, tau cũng rầu thúi ruột thúi gan !
Cái thông điệp cho thằng em
trai thì: Năm tể năm năm tê, mi còn lẩm đa lẩm đẩm, mũi rãi thò lò, chừ
mi nậy rồi, phải biết ăn biết noái, biết goái biết mở, vô khuôn vô phép .
Chớ mai tê mốt nọ mi nên vai nên vế, nên vợ nên chồng, làm răng mi bông
lông ba la hoài như cái đồ trôi sông lạc chợ cho được ?!
Mấy ôn, khi giáo huấn con
cháu, vẫn thường trích dẫn ca dao, tục ngữ để đệm thêm cho ý tưởng của
mình: Đó, mi thấy đó . Ai ơi chớ phụ đèn chai, thắp trong Cần Chánh
rạng ngoài Ngọ Môn . Mi đoảng, mi vô hậu, được bèo quên rá, được cá quên
nơm; thì mi lấy ai mà bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ !
-------------
Xa Huế đã lâu lắm rồi, từ ngày vừa biết tập tành đi nghễ mấy o Đồng Khánh,
vừa ngấp nga ngấp nghé muốn vào (nhưng sợ bị chưởi) nhấm nháp thử ly cà
phê đen sánh của cà phê Phấn, nơi mà các anh hùng trong thiên hạ vẫn tấp
nập ra vào; và cũng vừa biết để dành tiền để mua những tiểu thuyết của Tự
Lực Văn Đoàn tại nhà sách Ưng Hạ . Phong cách Huế không ít thì nhiều cũng
đã phôi pha, thổ ngữ Huế cũng không mấy khi có dịp để dùng lại cho đỡ giớ,
cho khỏi quên; thành ra cũng xao lãng đi nhiều .
Trong cái xao lãng bỗng có
ý nghĩ muốn tìm lại, noái lại tiếng noái của thời cũ rích cũ rang nhưng
đằm thắm đó . Cho nên chỉ xin được ghi lại đây những gì còn nhớ mài mại,
để gọi là khơi lại chút âm thanh của những ngày xưa cũ .
Phan Thịnh
|