Thử xem qua một số từ vựng Quảng Trị
Nguyên Nguyên
12 tháng 07 năm 2007
Mô h́nh được dùng để giải mă truyền thuyết Hùng Vương [2] đă dựa vào một
quan sát rất thông thường và thực tiễn: “Hai cây đứng cạnh bên nhau
trong một khu vườn có thể do những chất bổ dưỡng giống nhau, nhưng phân
lượng tức số phần trăm của từng chất một do rễ cây thu hút từ ḷng đất
hoàn toàn và luôn luôn khác nhau”. Giống như tiếng nói của hai hoặc
nhiều dân tộc láng giềng, theo sắp xếp địa lư, có một số từ vựng và cấu
trúc giống nhau, và một phần lớn hơn lại khác nhau. Nhưng rất có thể
không có vấn đề vay mượn, nhất là trong một quá khứ xa xưa. Chỉ có đóng
góp khác nhau của mỗi thành phần sắc tộc đóng góp, tại mỗi quốc gia láng
giềng với nhau. Mô h́nh này được gọi mô h́nh theo kiểu ‘Cây-và-Đất’, để
phân biệt với thứ mô-h́nh tạm gọi ‘Cây-và-Cành’ thường xuyên được xử
dụng từ trước đến nay, nhất là trong nghiên cứu ngữ học.
Hệ luận chính của lư thuyết dựa trên mô h́nh ‘Cây-và-Đất’ cho rằng tiếng
Việt là một hỗn hợp lâu dài của các thứ tiếng thuộc nhiều tộc người khác
nhau, với hạ tầng cơ bản là Môn-Khmer phối hợp với Thái-cổ (thành phần
chủ lực của tiếng Mường) cộng với khối Đa-Đảo. Chồng chất và đan xen với
lớp hạ tầng cơ bản đó là các thứ tiếng xuất phát từ khối Bách Việt xưa ở
miền Hoa Nam, từ Vân Nam (Điền Việt) trải qua Quảng Tây, Quảng Đông (Tây
và Đông Việt) cho đến tận Chiết Giang (Ngô-Việt), Phúc Kiến - Triều Châu
(Mân Việt), và Hải Nam, v.v. Và hỗ trợ bằng hai nhóm từ miền cực Bắc
nước Tàu, thời Xuân Thu thường gọi khối Đông Di tập trung ở khu vực tỉnh
Sơn Đông ngày nay. Đó là hai nhóm khi xưa ưa sống gần gũi nhau: Hẹ
(Hakka, tức Hạc Việt) và Miêu-Dao (Miao-Yao hay Hmong-Mien).
Hệ luận quan trọng khác chính là thứ tiếng mà người Việt thường gọi
‘tiếng Hán Việt’, không phải do tiền nhân vay mượn từ những quan quân đô
hộ, mà do chính những người Việt cổ thuộc khối Bách Việt xa xưa (kể luôn
cả Hạc Việt và những nhóm tương cận), đem sang xứ An-Nam hoà trộn với
các thứ tiếng Việt bản địa. Gần như tất cả những âm Hán Việt quen thuộc,
kể cả vô số các âm ‘thuần Nôm’, như ‘chúng ta’, ‘tớ’ {xem [4]}, đều có
thể truy về các âm thuộc khối Bách Việt xa xưa, mà hậu duệ của họ hăy
c̣n xử dụng ở bên Tàu cho đến ngày nay.
Bài viết này, do đó, sẽ dùng một số từ được xem đặc thù Quảng Trị, gần
đây xuất hiện trong một bài báo của Trần Hữu Thuần [18], theo thông tin
từ những email của Trần Vĩnh Tường và Nguyễn Quốc Lập, đăng trên báo
mạng Talawas, để tiếp tục đưa ra các dẫn chứng hỗ trợ cho lí thuyết về
nguồn gốc tiếng Việt ở trên.
Xin được tŕnh bày ‘tầm nguyên’ của từng từ một theo thứ tự bài viết của
Trần Hữu Thuần [18].
• Áo lá: ‘áo’ là một từ mang gốc Mon-Khmer [?aav], trong đó [?] {hay
[’]} thường gọi ‘tắc âm màng họng’, phát lên giữa [uh] và [oh] khi đọc
nhanh [uh-oh]. Tiếng Đa Đảo ở Tahiti gọi ‘áo’ là [?ahu’o’omo] và Samoa:
[?ofutino], mang âm đầu rất giống ‘áo’. ‘Lá’ là một từ mang gốc Thái
[laa] mang nghĩa ‘nhỏ’. Ngày trước, thứ áo lót ‘mai-dô’ cũng được gọi
nôm na: ‘áo thun lá’.
• Bạo: ‘Băo’ biến chuyển qua lại với ‘Bạo’, cho thấy sự ma-xát giữa các
phần-ngữ khác nhau trên vùng đất Việt. Tiếng Việt ở hạ tầng cơ bản, theo
lư thuyết ‘Cây-và-Đất’ [1] [2], chính là tiếng Môn-Khmer pha lẫn với
tiếng Thái-cổ và Đa Đảo. Một số các ngôn-ngữ liên-quan đến tiếng Môn,
như tiếng Chàm ‘chính thức’, tiếng Myanmar, mang 4 thanh điệu (thinh).
Tiếng Mon-Khmer cũng như Munda, đặc biệt nhất là Khmer, không có thinh
(nhưng có nhấn mạnh như tiếng Anh), hiện c̣n phản ánh qua tiếng Hải Nam,
tiếng Mă Lai, các tiếng Đa Đảo, v.v. Trong khi các thứ tiếng Thái,
Tày-Nùng, Mường, Nam bộ, chỉ mang 5 thinh. Biến chuyển qua lại giữa
thinh-ngă (Băo) và thinh-nặng (Bạo), cả hai đều thuộc thinh-trầm, cũng
là tiêu biểu của tiếng Mường, bởi tiếng Mường (Hoà B́nh) không có
thinh-dấu-nặng: mũ khà => mụ già (V). ngẽn ngùi => nghẹn ngùi (ngào)
(V). pũi => bụi (V).
• B’lăng = cùng gốc với tiếng Mă Lai (phần đóng góp: hệ Môn-Khmer):
‘Bulan’. Tiếng Giarai: ‘Blăng’. Tiếng Mường ngày nay: ‘Tlăng’. Từ điển
Alexandre de Rhodes [3] ghi hai âm ‘Trăng’ và ‘Trời’, tuần tự, là
[Blăng] và [Blời], trong khi ‘Tṛn’ (round) lại giống Mường: [Tḷn].
Khác với các lư giải có sẵn từ trước đến nay, chúng tôi không cho rằng
tiếng Việt biến chuyển từ ‘Blăng’ qua ‘Tlăng’ rồi đến ‘Trăng’, mà thật
ra đó là ba kiểu phát âm có sẵn thuộc ít nhất ba phương ngữ khác nhau
trong ḷng tiếng Việt cổ. Phát triển quốc-ngữ chính là tác động thống
nhất chọn lọc ra ‘Trăng’, khởi sự khoảng đầu thế kỷ 19.
• B’lời = Cũng như ‘Blăng’, kư âm theo Nôm của chữ ‘Trời’ thường bao gồm
âm [B] qua chữ ‘Ba’ 巴, cho thấy âm ‘nôm-na’ của người khu vực Kẻ Chợ
(Kinh) [5] dành cho chữ ‘Trời’ chính là [Blời]. Một trong những lối viết
‘ráp vần’ Nôm của ‘Trời’ là chồng chữ巴 ‘Ba’ trên chữ利 ‘Lợi’ [6] => Blợi
=> Blời.
• Bọ = Cha, hay Tía, đều có những từ phát âm tương tự trong các phương
ngữ tiếng Hoa, hoặc tiếng Thái: [Po], [Cha] và [Tía]. [Bọ] cũng liên hệ
đến [Bố] và [Bu]. Riêng [Bu] cũng chuyển qua lại để chỉ người ‘Mẹ’, hoặc
người Vợ. Đặc biệt âm [P] (trong [Po] hay ‘Bọ’) trong nhiều thứ tiếng ở
Hoa Nam và Đông Nam Á, thật ra là một thứ âm nằm giữa âm [P] và [B] theo
mẫu tự La-tinh. Kư âm quốc-ngữ đă chọn ‘B’ cho một số từ, thí dụ: Po (M)
=> Bọ (V); Pà đỡ té (M) => Bà đỡ đẻ (V), Pẻnh mỳ (M) => Bánh ḿ (V). Và
âm ‘P’ không được theo sau ngay một nguyên âm (‘pên Tàu’ => ‘pên’ Tàu =>
bên Tàu), mà phải kèm theo âm hơi thở ‘h’: Phấy (M) => Phẩy (dấu [,]);
Phế thái => phế thải (V). Tức các tôn sư quốc ngữ đă đặt ra quy lệ,
không dùng âm ‘P’ với một nguyên âm theo sau: Pung => Pung => Bụng.
• Ca = Gà, một thứ từ có nhiều phát âm rất giống với từ tương đương ở
các phương ngữ Hoa Nam, nhất là Hakka và Hải Nam [Gai]. Thái cũng phát
âm tương tự: [Gai] hay [Gaa]. Quảng Đông phát âm như [Cáy], rất giống
tiếng Mường: [Ca].
• Cẳng = Chân. Thêm một từ nữa: ‘Gị’. ‘Chân’ mang cùng gốc với [jəəng]
hay [dzâng], [ajưng] hoặc [chơn] của các phương ngữ thuộc Mon-Khmer,
Munda [8] hay Mường. [Cẳng] bà con với [Ka] tiếng Hakka (Hẹ), [Ka-tui]
Phúc Kiến, [taKay] tiếng Chăm, hoặc [Kaki] tiếng Mă Lay, và giống nhất
với [Kahng] tiếng Tây Tạng. Trong khi ‘Gị’ có thể cùng gốc gác với
[zeoi] tiếng Quảng Đông, [giok] Hẹ (Hakka), hay [chiok] Phúc Kiến
(Minnan) [9].
• Cấu = Gạo: Gần như tất cả các từ liên hệ đến ‘lúa gạo’ đều mang gốc
chủng Việt (chi Thái tức Âu), nếu viết tiếng Tàu, viết theo bộ Mễ (xem
[2]). ‘Cấu’ (cũng có thể: ‘Cẩu’) có bà con gần với [Cảo] tiếng Mường,
[Khẩu] tiếng Tày-Nùng, và [Khao] hay [Gaow] tiếng Thái. Để ư biến chuyển
‘song hành’ giữa tiếng Thái và Việt: ‘Cơm’ [Gaow] mang một lượt hai
nghĩa: Cơm (gạo) {cảo chăm: gạo tẻ}, và Bữa ăn {Anh ăn cơm chưa?}.
• Cẩy = Vợ. Chữ ‘Vợ’ có thể mang hai gốc khác nhau tùy theo địa phương.
Phát âm theo phía Nam [Byợ] rất gần với các âm bắt đầu bằng [B] như [Bu]
hay [Bọ]. Phát âm theo kiểu ‘V’ của Hakka th́ gần sát với [vo] tiếng
Hakka mang nghĩa ‘người hầu thiếp’, hay [vuk] (cũng Hakka), tương đương
với [wu] quan-thoại mang nghĩa ‘nhà’ (ốc) hay ‘thất’ {thành gia thất,
chánh thất (vợ cả)}. ‘Cẩy’ [11] trong khi đó có âm tương ứng trong tiếng
Mường là [Cải] hay [Cảy], mang nghĩa ‘Mẹ’ hay ‘Vợ’: Cải con= vợ con, cảy
quả= mẹ goá, cảy té= mẹ đẻ.
• Cẩy = Cái // con Gái. Âm cuối [y] trong [Cẩy] mang ảnh hưởng khối
Mon-Khmer. Tiếng Việt trong trường hợp này đă chọn [i], thành ra [Cái].
Trong tiếng Mường, [Cẩy] {cải / cảy} có thể mang nghĩa ‘cái / con’ (cải
pẻnh, cái đốc => cái bánh, cái đ̣; cảy cả => con cá; cảy ca => con gà),
và cũng đồng thời có thể dùng để chỉ: mẹ, vợ, con gái, chị, người đàn
bà. Thí dụ: cảy ho = mẹ tôi; con cải = con gái; cải cá = chị cả; cái khà
= gái già; cải khon = gái tân; cải roch = chị ruột).
• Chạc giợ = dây chỉ / dây nhợ. Âm đầu [Ch] tiếng Mường thường khi tương
đương với âm [gi] hay [d] {[y]} phát âm theo phía Bắc hay Hakka là
{[dz]}. Thí dụ: chiểng (M) => giếng (V); chiềng (M) => giường (V). Trong
khi đó, âm [y] của chủng Thái-cổ hay đa số các phương ngữ tiếng Tàu kể
cả Quan-thoại, rất thường tương đương với âm Việt [Nh]. Thí dụ: [ya] =>
‘Nha’ (răng –> nha sĩ) [10]. Ở thế kỷ 17, những khu vực Alexandre de
Rhodes đi qua và tiếp cận trước khi soạn quyển từ điển tiếng An-nam đầu
tiên [3] là những vùng không mang ảnh hưởng Hakka, tức dùng âm [D] như
[Y] kiểu Nam bộ, qua dấu ấn [d] => [nh] {xem [3]}: dè dẹ=> nhè nhẹ, dán
=> nhắn, dả ra => nhả ra; dắc cha mẹ => nhắc cha mẹ; dịn => nhịn (dung
thứ [3]). Khi quốc ngữ được xử dụng mănh liệt vào giữa thế kỷ 19 ở Nam
bộ, âm [D] đứng ra thay thế cho cả hai thứ [Y] quan-thoại và [Z] Hakka.
Từ đó âm [Nh] xuất thân từ [D] trở lại biến chuyển với [Z] tức [Dz] hay
[Gi]. Từ điển Mường [7] có ghi: Chac nhỡ =>dây chỉ {chạc nhợ}=>giây
nhợ=> chạc giợ. Để ư, trong tiếng Mường (Hoà B́nh), không có dấu nặng
[7]: Chac => chạc (V).
• Chắc = nhau. Không chắc chắn như vậy. Bởi ‘chắc’ là một từ mang gốc
Mon-Khmer và Mường mang nghĩa: thân ḿnh, con người, thân thể, v.v.
Trong lối dùng ‘đập chắc’, ta có thể thay thế nó bằng ‘đánh nhau’, nhưng
[chắc] chắc không nhất thiết mang nghĩa gốc là ‘nhau’. ‘Đập chắc’ là một
lối nói của một số phương ngữ Trung bộ, tương đương với ‘đánh nhau’ phía
Bắc, hoặc ‘quưnh lộn’ phía Nam [12]. Tiếng Mường: chắc = người (V), chắc
cá = người lớn, chắc khà = người già. Tiếng Mon-Khmer: [tsa?ak] hay
[sa?ak] = thân ḿnh.
• Chi = ǵ / sao. Rất phổ quát tại nhiều nơi. Tiếng Mường: cải chi =>
cái ǵ.
• Chiếng = giếng. Âm [ch] tiếng Mường, nhiều khi tương đương với [g]
tiếng Việt. Khảng Chiêng => tháng Giêng. Chiềng bễnh => giường bệnh.
Chiểng = giếng. Chú ư: hai âm bổng [ẻ] (dấu hỏi) và [é] (dấu sắc), ưa
biến chuyển qua lại trong tiếng Mường, một thứ tiếng không có kí âm theo
a-b-c cho măi đến sau này.
• Choọc = Thọc. Tiếng Việt trước khi quốc ngữ ra đời đại khái có những
‘pha ngữ’ lộn xộn như kiểu ‘Choọc <=> Thọc’. ‘Choọc’ là âm đứng giữa
‘chọc’ và ‘chọt’, tức nhấn mạnh việc không phân biệt âm cuối [c] hay
[t], như kiểu Nam bộ. ‘Thọc’ và ‘chọc’ lúc đầu có thể chia sẻ một số ư
nghĩa chung, nhưng dần dà tách ra hai cách dùng khác nhau. Điển h́nh:
chọc = tease (trêu chọc / chọc ghẹo); thọc = poke (thọc gậy). Tiếng
Mường cũng có ‘chọc’, nhưng không có dấu nặng: [choc]. Việc nhầm lẫn
‘chọc’ với ‘thọc’ có lẽ bắt nguồn từ hai cách phát âm khác nhau của cùng
1 từ Bách Việt: 戳 [tsok] (~ choc) theo kiểu Hẹ / Quảng Đông, và [tshokk]
(~ thoc) theo Ngô Việt (Chiết Giang) [9].
• Chộ = thấy. Rất có khả năng mang cùng gốc với các từ Thái: [chohm],
[jaawng]. Hay [sioki] tiếng Tonga, hoặc [ưô?k] tiếng Chăm. Đặc biệt
‘Chộ’ mang phát âm rất gần với Hạc Việt (tức Hẹ hay Hakka) [chuk] hay
[chon], Mân Việt (Phúc Kiến) [chhu], Ngô Việt [tshO], và Hán-Hàn [chok]
- viết theo Hán tự: 矚 và穿.
• Chồông = chồng (chất). Cũng có bà con với tiếng Tàu. Hakka đọc [zong]
viết khác với quanthoại [chong]-2. Việc thiếu phân biệt âm cuối [an] và
[ang] cũng được phản ánh qua khá nhiều phương ngữ Trung Hoa. Thí dụ: Lư
An (đạo diễn) => Ang Lee. Lư QuanG Diệu => Lee Kwan Yew. Tinh (sao) =>
sing (Q. Đ) => chheN (Mân Việt – Phúc Kiến). Thí dụ thêm về thiếu phân
biệt âm cuối [c] và [t] ở tiếng Mường: Roch (M) => ruột. Wớch (M) =>
vớt. Có vẻ việc du nhập phân biệt các âm cuối [t] và [c], [n] và [ng]
trong tiếng Việt, khởi xuất từ phương ngữ Mân Việt của khối người hậu
thuẫn, hay thuộc thị tộc, nhà Trần.
• Chờng = giường. ‘Chờng’ ó ‘chiềng’. ‘Ờ’ hay ‘Iề’ đều là những kí âm
‘gần đúng’ của quốc ngữ, đối với hằng trăm phát âm khác nhau tùy từng
làng hay mường bản của thời ‘tiền-quốc-ngữ’. Chiềng bễnh => giường bệnh.
• Chu = châu. Đây là một trong những phát hiện đặc biệt của loạt bài
Hùng Vương [2]. Ngày trước chúng ta thường nhầm rằng ‘Chu => Châu’ do ở
việc kị húy Chúa Nguyễn Phúc Chu. Sự thật không phải vậy. Nó nằm trong
định luật về âm tương đương giữa các phương ngữ Bách Việt (xưa) ở Hoa
Nam, [Iu] ó [Âu]: ‘Nếu một phương ngữ có phát âm [au] hay [ou] cho một
từ, thế nào cũng có một phương ngữ khác phát âm cho cùng từ đó theo âm
[iu]’. Thí dụ: tài tử Andy Lau (‘Lau’ đọc theo Hongkong) theo tiếng quan
thoại sẽ là Andy Liu {Lau Tak Wa = Liu De Hua = Lưu Đức Hoa}. Âm [ưu]
quốc ngữ chính là một thứ âm ‘du di’ nằm giữa [au] và [iu] {[Lưu] giữa
[Lau] và [Liu]}. Người Hẹ thiên về [iu]: Đông Châu [dong zhou] họ sẽ đọc
như [Dong Chiu]. Lâu ngày sẽ ra khuynh hướng dẹp bớt âm [i] ở giữa,
thành ra [Dong Zhu] => Đông Chu. Muà Thu tiếng Tàu đọc [qiu]. Nhưng
Quảng Đông đọc [tsau]. Hakka sẽ thu gọn [qiu] thành ra [qu] => Thu. Tuy
nhiên hai họ [Zhou] (Châu) 周và [Zhu] (Chu) 朱 là hai họ hoàn toàn khác
nhau trong tiếng Tàu: Chu Nguyên Chương / Chu Dung Cơ – mang họ khác với
- Châu Ân Lai / Châu Nhuận Phát / Châu Chỉ Nhược. Tiếng Việt không phân
biệt khác nhau giữa hai họ, và thường lầm tưởng khác nhau giữa phát âm
Bắc và Nam. Người Rapanui và Maori gọi gió hiu-hiu (breeze) là [hauhau].
‘Hiu-hiu’ ó ‘hauhau’ cho thấy tổ tiên của họ, rất có khả năng, đă từng
có mặt ở Việt Nam và Nam Trung Hoa.
• Cộ = củ (khoai). Lại một hoán chuyển giữa các thinh (dấu). Từ điển
Mường [7] ghi: cố = củ: Nhúc ca mà kho pỡi cố cỏng điênh ăn lắm / Thịt
gà mà kho với củ gừng th́ ngon lắm. Cổ = cố, cụ: Pà cổ tôi ta hảo ản
môch tlăm thuối / Bà cố tôi gần được một trăm tuổi rồi.
• Côi = trên. Tiếng Mường: cổi = trên. Cổi tlời = trên trời, cơi trời;
cổi nủi = trên núi. Có thể cùng gốc với Phúc Kiến [kaoiN] nghĩa ‘cao /
phía trên’.
• Cơn = con + cái. Trước hết, ‘cơn’ => [con] chỉ là một lối kí âm thống
nhất của quốc ngữ: [con]. Nhưng theo định luật thông thường của ‘mạo từ’
[12], ‘con’ thường dính với các từ mang tính ‘động-đậy’: con sông, con
chó, con gà, con gái, con chim, … và ‘cái’ thường đi với những từ mang
tính ‘bất động’: cái bàn, cái ghế, cái hồ, cái đồn, …. ‘Cái’ cũng thường
dùng cho những ǵ trừu tượng: cái lời khuyên, cái tinh thần chậm tiến.
Thế nhưng, có một số ngoại lệ có thể giải thích được, một số khác lại
không. Thí dụ: mặt trời thường mang ‘giống bất động’: cái mặt trời hôm
nay sao nóng thế, cái ông trời thật bất công (giống như: cái thằng cha
đó dê thật); nhưng mặt trăng lại dùng với ‘con’ (động đậy): Đầu con
trăng = đầu tháng {xem [14]}; Con trăng nay đă tṛn (giống như: con mẹ
đó lém lắm, con {cơn} nước ṛng). Mặt trăng mang giống ‘động đậy’
{‘Con’} [14], có thể giải thích bằng: (a) trăng có dấu chuyển động, khi
khuyết khi tṛn; (b) trăng liên hệ đến chuyển động thủy triều lên xuống;
(c) có thể những nhà thiên văn cổ thời đă biết mặt trăng vận chuyển
quanh trái đất trong một tháng. Phân loại ‘cái’ cho ‘trời’ và ‘con’ cho
‘trăng’ hoàn toàn phù hợp với phân loại của tộc Mon-Khmer, chứ không như
kiểu người dân tộc Anishinaabemowin (da đỏ) ở Canada [15]. Thế tại sao
tiếng Việt lại dùng ‘con dao’ và ‘cái rựa’? Muốn t́m lí giải hợp lư cho
câu hỏi này có lẽ ta phải dựa vào ‘luật trung b́nh’ của toán học. Theo
đó những bộ phận cơ thể có phát ra chất lỏng, chất khí (hơi thở) {như lỗ
mũi} [15] - hay theo b́nh quân tương đối có ‘động đậy’ (như bộ phận sinh
dục đàn ông) – sẽ mang giống ‘động đậy’ (tạm gọi: giống ‘chổng’), những
bộ phận khác sẽ theo giống ‘bất động’. Ngoài ra ‘con dao’ phần lớn cấu
tạo do kim loại, lấy từ các quặng mỏ, một thứ ‘đá’ mang cùng giống
‘chổng’ như ‘trăng’ {theo hệ Mon-Khmer} => Con => Con dao. Trái lại, mặc
dù ưa đứng chung với ‘Đực’ {đực rựa – xem [16]}, ‘rựa’ phải dùng ‘mạo từ
bất động’ là ‘Cái’, bởi chứa phần lớn là gỗ, ở cái cán dài, ít ra trong
kiểu dáng ban đầu xa xưa. ‘Gỗ’ (giống như ‘cây’) mang giống ‘cái’, bất
động. Giống như ta nói ‘cái cuốc’ bởi cuốc cũng có cái cán bằng gỗ thật
dài. Thật ra điểm cần nhấn mạnh ở đây không phải ở chuyện ‘cái / con’
nhưng ở chỗ trong tiếng Mường phân biệt mạo từ ‘cái’ và ‘con’ thường bị
nhầm lẫn (lộn xộn) hơn tiếng Việt rất nhiều. Thí dụ: cảy = cái => cảy
tlời (trời), cảy tlăng (trăng), cảy khảng (tháng), cảy khảng (trăng),
cảy ca (gà),…. Con = con => con ca (gà), con ngươi (ngươi), con thay
(ngón tay), con ma Chỡ (ma người Kinh), con ta (cây đa),… Theo thiển ư,
điểm lộn xộn này trong tiếng Mường đă cho thấy phân loại giống trong mạo
từ ‘con / cái’ không xuất phát từ tộc Thái cổ (tộc Âu-Việt ảnh hưởng chủ
lực đến người Mường), mà chính ra khởi nguồn từ tộc Việt-cổ khác cũng
thuộc bản địa: Môn-Khmer. Người (Kinh) Việt xử dụng ‘cái / con’ nhuần
nhuyễn hơn, và theo sát tộc Việt bản địa: Mon-Khmer.
• Cụ = Cậu. Tiếng Mường: Cũ = Cậu. Củ = (con) Gấu. Âm [u] => [âu] (V).
• Cươi = Sân. Trước hết ‘sân’ là một từ mang gốc Mân Việt (Phúc Kiến):
[tsing]. ‘Cươi’ là một thứ từ hiếm có trong những từ điển phương ngữ xa
xưa, bởi thời đó, nhà cửa cố định c̣n không có (đối với đa số), th́ nói
ǵ đến sân. Chúng ta chỉ có thể t́m ra những từ có phát âm gần đúng – và
loại bớt ảnh hưởng của kí âm quốc ngữ. [Cươi] có thể mang nghĩa ‘cái nền
đất’ => ‘cơ’ (xem từ điển Húnh Tịnh Của [14]). [Cươi] cũng mang âm gần
với ‘Cơi’ mang nghĩa ‘đất cao’ [14]. Hoặc khoảng đất gần ‘Cửa’ hàng rào
trước ‘nhà’. ‘Cươi’ do đó có thể mang liên hệ ‘ví phỏng’ với ‘Cửa’ (xem
[1] [4]). Gần âm với [ngoue] tiếng Tonga (Đa đảo) mang nghĩa ‘vườn’, hay
[kelekele] Tonga, và [qele] Fiji, nghĩa ‘đất’, ‘khoảng đất’. Gần với từ
đầu [qab] (đọc [cá]) trong [qab tsib taug] tiếng Hmong chỉ ‘sân’. Cũng
gần với [kArug] tiếng Sora (Munda) chỉ ‘sân sau’.
• Du = Dâu (vợ con trai). Tiếng Mường, Du = Dâu. Du mỏi = dâu mới cưới.
Cho thấy biến chuyển kiểu ‘Chu / Châu’, ‘Tlu / Tlâu (Trâu)’.
• Dzầu = *[THầu] = dầu (oil). *[THầu] với [Th] mang âm giống IPA [đ] cho
mạo từ ‘The’ {[đə]} tiếng Anh. Đây có lẽ là vấn đề gút mắt nhất cho âm
chữ [D]. Âm chữ [D] cũng như rất nhiều âm khác, như chữ [V], được quốc
ngữ đưa ra để thay thế một số các âm gần giống thay đổi theo từng
‘phần-ngữ’ đóng góp tạo nên tiếng Việt và cũng để nhất thống chuyện có
nhiều âm vận địa phương khác nhau. Âm quốc ngữ chữ [D], theo thiển ư đă
được đề ra thay thế một loạt các thứ âm sau đây:
- Âm [Y] theo kiểu quan-thoại và rất nhiều phương ngữ Hoa Nam: Yang Gui
Fei => Dương Quư Phi (phát âm theo kiểu Nam). Trong trường hợp này, khi
chuyển sang kí âm quốc ngữ, [Y] thỉnh thoảng cũng được viết theo âm
[Nh]: [Ya] => Nha (răng). Dức đầu => Nhức đầu. Thời từ điển Alexandre de
Rhodes [3] có vẻ quốc-ngữ chưa phân biệt âm [Y] với [Nh]: dè dẹ= nhè
nhẹ; dịn = nhịn (dung thứ [3]); yà = nhà; dả ra= nhả ra; dắc cha mẹ=
nhắc cha mẹ; dán= nhắn, dúc= túc, ...
- Âm [Z] của một số ‘chi-phương-ngữ’ tiếng Hẹ (Hakka, xin tạm gọi nhóm
Hạc Việt): Zang Kwui Fi => Dzương Quí Phi (rất giống phát âm Hạc Việt).
Trong trường hợp này, [D] cũng đôi khi biến chuyển qua lại với [Gi]:
ḍng sông => gịng sông. Tiếng Mường: dói => giỏi. Cô dảo => cô giáo.
- Âm [Đ] như c̣n dấu vết trong các thứ tiếng Mường, Tày Nùng, và thường
hoán chuyển qua lại với [D]: Đĩa = dĩa (V). Đây = dây (M), giây. Dặng =
đứng (T-N). Đảng mơl = dáng người (M). Đăy páo = dạy bảo (M). Từ điển
Alexandre de Rhodes cũng cho thấy dấu vết trong tiếng Việt: kín dáo =
kín đáo; dắp = đắp (chăn); dạp = đạp (voi đạp); voi đú = voi dữ - tức [Đ
ó D].
- Âm [T] như trong tiếng Mường: Ta non = da non (M). Con Tê = con dê
(M). Tĩa = dĩa = đĩa (M). Tiếng Tày-Nùng: tạy = dạy (học). Rất thường,
[T] biến chuyển qua lại với [Đ], bởi cả hai đều thuộc loại ‘tắc âm nứu’
theo kiểu: Teng Hsiao Ping => Deng Xiao Ping: Đặng Tiểu B́nh. Mao Tse
Tung => Mao Ze Dong: Mao Trạch Đông. Lối dùng [T] là theo phiên âm
Wade-Giles, kiểu [Đ] theo pin-yin. Thí dụ khác: Hu Jin Tao => Hồ Cẩm Đào
(chủ tịch) => {[T] => [Đ]}.
- Thật ra loại bỏ ảnh hưởng kí âm a-b-c, âm đó nằm đâu đó ở giữa [T] và
[D]-Tây {tức [Đ]}, theo kí âm cho tiếng Mường: nồi tất = nồi đất; Bừa
tẩm bừa tả = vừa đấm vừa đá; tâm rồ = đâm khùng; tầl = đuổi; tèn tó =
đèn đỏ. Âm [T] hay [D]-Tây cũng có thể kèm theo [j] như tiếng Miến Điện:
[Tj] hay [Dj], cả hai đều có thể tiệm cận với âm quen thuộc [Dz]: con
Tjê => con Dê. Miến Điện: [Tje] = tinh-tú (sao). Mường: [tyểnh ni]= đến
đây. Myanmar: [Tja] => giá (cả) => Dả (Mường).
- Một khi chữ ‘D’ được dùng để kí âm bao-thầu cho một loạt các âm liệt
kê ở trên, [D] trong ‘Dầu’ (oil) có thể tiến sát với âm [đhờ] {tức [đə]}
như trong từ Anh ngữ: ‘the’ hay ‘then’, giống như âm [dh] trong tiếng
Myanmar [17] [22]: [dhad́-nè] = carefully, cẩn thận. Dầu = *[THầu]=
[đầu]. Bởi âm [Dh] {tức IPA [đ]} (trong ‘The’) là thứ ‘sát âm răng’ khá
gần với ‘tắc âm nướu’, như [Đ] và [T].
- Ghi chú thêm: Ngay trong đánh vần chữ Nôm, ta cũng thấy biến chuyển
qua lại giữa các âm [T], [D] và [Đ]. Thí dụ: Da = B́+Đa (D => Đ); Dăi =
Tâm+Trăi {D => T} (dăi nắng dầm mưa) [21].
• Đao = dao. Xin xem ‘Dầu’ phía trên, và để ư âm tiếng Quan Thoại: [dao]
(đao), tương ứng với Hạc Việt (Hẹ / Hakka): [tau], [D] <=> [T].
• Đàng = đường. Không hẳn là một thứ âm đặc thù Quảng Trị. Mường gọi
[tàng] (tàng tất = đường đất). ‘Đàng’ hay ‘đường’ có cùng gốc với từ
Quảng Đông [dung]衕, mang nghĩa ‘ngơ đi’. ‘Đường sá’ đàng hoàng người Hoa
gọi ‘đạo’ 道, người Thái và một lô các tiếng gốc Mon-Khmer (kể cả Chăm)
và Đa đảo thường thiên về các âm vị mang âm [sá] (trong ‘đường sá’):
[saawk] (Thái), [zalan], [kh(r)a] (Mon-Khmer) [8] [19], [salan] (Chăm,
Đa đảo) [8] [20]. ‘Đàng’ và ‘đường’ biến chuyển qua lại với nhau, nằm
trong một quy luật giữa các phương ngữ Hoa-Nam: [a] <=> [eu] hay [ươ]
Việt. Thí dụ: [Yang] quanthoại => [Yeung] QuảngĐông => [Dương] Việt.
[Liang] => [leung] => [lượng] / [lạng].
• Đặng = được. Xuất phát từ tiếng Tàu. ‘Đặng’ và ‘được’ là lối đọc tiếng
Việt (Bách Việt) của hai từ Hoa khác nhau: 打 [deng] Quanthoại {đặng}, và
得 [tiet] Hẹ, [dak] QĐ {đạt}, và [tâ?] Ngô-Việt (tức Chiết-Giang/Thượng
Hải).
• Đụa = đũa. Biến chuyển dấu ngă sang nặng rất thường xảy ra giữa tiếng
Mường và Việt, một phần tiếng Mường (Hoà B́nh) không có dấu nặng. Phần
khác, trước thời quốc-ngữ phát triển, các thinh thường biến chuyển theo
làng xóm, và địa phương. Thí dụ them: Lộ = Lỗ (mũi). Thường thường, xin
nhấn mạnh ‘thường thường’, thinh trầm theo trầm (ngă ~ biến qua lại với
‘nặng’ hay ‘huyền’), bổng theo bổng. Từ điển Alexandre de Rhodes như
trích dẫn nhiều nơi ở trên cho thấy biến chuyển có vẻ lộn xộn hơn.
• Eng = Anh. Tiếng Mường: Enh = anh. Tiếng Hàn (Korean) tương đương với
‘huynh’ chính là [hyEng], đọc nhanh có thể rất giống [Eng].
• An = Ăn. Giống tiếng Thavung thuộc khối Mon-Khmer: [?an]. Tiếng
Nam-Mân-Việt (Minnan – Phúc Kiến) phát âm cho từ ‘dùng’ (ăn) là [Eng].
• Giôông = chồng. ‘Chồng’ mang phát âm giống tiếng Hạc-Việt [chong]
tương đương với [trượng] trong ‘trượng phu’. Âm [Gi] trong [Giồông]
tương đương ‘qua lại’ với [Ch] là một đặc điểm tiếng Mường {xem ‘Giường
/ chờng’ phía trên}.
• Giôông = giông. Không ngoài việc cho biết lối phát âm phân biệt âm
cuối [n] và [ng] chỉ là đặc điểm một phương ngữ chủ lực vùng kẻ Chợ của
tiếng Việt. Rất có thể mang ảnh hưởng tiếng Mân Việt (nhà Trần). Tương
tự: Hoọc = Học // Khôông = Không.
• Hè = nhỉ. Không là một ngoại lệ đặc biệt. Từ đệm cuối câu thường thay
đổi giữa các phương ngữ với nhau. Hè = hỉ = nhé = nhỉ = hả = chớ = chi =
à = v.v. Tiếng Hoa có thể có trên 30 từ đệm khác nhau.
• Lả = Lửa. Tiếng Mường (Hoà B́nh) cho ‘lửa’ là ‘cúi’. ‘Ví phỏng trường’
[1] của ‘cúi’ (lửa) hoán chuyển sinh ra ‘cúi’ mang nghĩa ‘củi’ (cây dùng
để đốt lửa). Một ‘chi phương ngữ’ Mường khác có thể phát âm ‘lửa’ như
‘lá’ hay ‘lả’, bởi các dấu ấn của âm tương đương [a] <=> [ưa] như sau:
[Khă] (M) => ‘Sữa’ (milk) (V). Tha thỉa (M) => Rưa rứa. Rạ = Rựa {xem
[18]}. Do đó, âm [A] (M) => [Ưa] (V) ==> Lả = lửa. {‘Lả’ => Lửa, mang
ảnh hưởng tiếng Mường}.
• Lịp = nón lá. Có ghi đầy đủ trong tự điển Húnh Tịnh Của [14]: nón.
Tiếng Hạc Việt (Hẹ) phát âm y hệt [lip] cho chữ 笠, tượng h́nh chữ ‘Trúc
/ tre’ (chỉ lá tre) viết chồng lên âm ‘lập’. Phát âm theo kiểu Quảng
Đông của ‘lịp’ là [lap].
• Ló = lúa. Tiếng Mường: Lơ = lúa. Lơ cảo = lúa gạo; lơ đếp = lúa nếp.
Giữa Mường và Kinh, âm dấu sắc ưa biến chuyển qua lại với dấu hỏi. Nhưng
trường hợp này cho thấy phân loại ‘hỏi / ngă’ trong tiếng Việt có vẻ rất
nhân tạo. Thí dụ khác: chũng thôi (M) = chúng tôi; so với: chủng enh (M)
= các anh.
• Lọi = găy (chân). Cũng là kiểu nói nhiều nơi khác. Tiếng Mường: lé=
gẫy; lé chân= gẫy chân. Đây là một thứ âm sinh ra theo kiểu ‘cận vị’ –
‘lẻ (lé)’ và ‘loi’ ưa đứng gần - bởi tiếng Mường cũng như Việt đều có:
lé loi (M) = lẻ loi (đơn chiếc) (V). Như vậy sẽ không có ǵ vượt đến
ngoại lệ, khi ‘lé loi’ mang nghĩa ‘cô đơn’, ‘đơn chiếc’, trong tiếng
Mường cũng sẽ mang nghĩa ‘gẫy’ (tay / chân) {lé // lọi}. Bởi tiếng Mường
Hoà B́nh không có dấu nặng cho nên tiếng (Kinh) Việt có thể sẽ biến
‘loi’ thành ‘lọi’ để phân biệt với ‘lẻ loi’, mặc dù cả hai trong tiếng
Mường đều là [lé loi]. Âm giống nhất trực tiếp là [Lov] trong tiếng
Hmong, với [v] chỉ thinh vừa vừa rồi cất lên, giống kiểu thinh ‘hỏi’ hay
‘ngă’, mang nghĩa ‘bẻ / gẫy’. Một từ ‘Nôm’ khác khá gần ‘Lọi’ chính là
‘ĺa’ 裂 có phát âm quan-thoại [lie] và Nam Mân-Việt là [liat]. ‘Ĺa’ ưa
‘cận vị’ với ‘găy’: ‘găy ĺa’.
• Mệ = bà. Ảnh hưởng ‘Thái-Việt’ (Mường): Mễ = mẹ, bà. Mễ dă= bà nội, mẹ
chồng. Mễ mỗng= mẹ vợ. Mễ khà= mẹ già, u già, bà, cụ.
• Mẹng = miệng. Tiếng Mường => ‘Mẽnh’, cho thấy ‘Mẹng / miệng / mẽnh /
mồm’ là những lối phát âm khác nhau theo từng vùng, trước thời quấc-ngữ.
‘Mồm’ => mơm, với Mơm thường dùng cho súc vật: ‘mơm chó’.
• Mi = mày. Cũng được dùng tại nhiều nơi ở Việt Nam, và cũng có ghi
trong từ điển xưa [14]. (Xem thêm chi tiết ở [4]).
• Mo nang = tàu cau. Có ghi trong từ điển Húnh Tịnh Của [14]: Mo = cái
cốt tàu cau // Mo nang= cái bao trắng gói lấy buồng cau, buồng cau nở ra
th́ nó phải rụng.
• Mô = đâu. Cũng có ghi trong từ điển Paulus Của [14].
• Mụ = bà. Có ghi trong từ điển Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651
[3]. Tiếng Chăm: [Mu?] nghĩa ‘bà cụ’; [mu?]-[bôy] = bà mụ.
• Mui = môi. Hoán chuyển b́nh thường giữa âm [u] và [ô], trước và sau
thời quốc ngữ: [tui] = [tôi]; [thúi] = [thối]; [gong] Hoa => [cung]
Việt; [kung fu] => [công phu]; [tùng] = [ṭng], v.v.
• Mụi = mũi. Hoán chuyển b́nh thường giữa hai thinh trầm. Thông thường
qua lại giữa Mường và Việt. Thỉ ngiễm (M)=> thí nghiệm (V). P̣ mũng
(M)=> ḅ mộng.
• Nác = nước. [Nác] hay [đác] là những phát âm chỉ ‘nước’ rất phổ biến
trong các thứ phương ngữ xưa ở vùng Đông Dương, kể cả tiếng Mường. Từ
điển Alexandre de Rhodes [3] ghi ‘Nác’ = ‘nước’. ‘Nác’ mang cùng gốc với
[Naahm] tiếng Thái-Lào, và cũng rất có thể ‘Nác’ là kết quả hợp âm:
[naahm] T + [dak] M-K. ‘Nác’, ở dạng ‘Đác’ trong các phương ngữ của
Môn-Khmer, cũng có liện hệ ‘ví phỏng’ (xem [1]) với ‘đạc’ mang nghĩa
‘chất lỏng đă đặc lại’ => ‘đặc’ [3].
• Ngái = xa. Một từ rất phổ biến khắp Trung-Hoa và các vùng đất
Mon-Khmer: [xngai], [jngai], [yngai], [xă-ngai], v.v. thuộc Mon-Khmer và
Munda. Tiếng Thái là [za] gần với ‘xa’ hơn. Âm [ngái] rất gần với âm
[gai] quanthoại và [kai] tiếng Mân Việt (PK) và Hạc Việt (Hẹ), 垓, có
mang một nghĩa: ‘Xa’. ‘Ngái’ cũng được ghi trong cả hai quyển từ điển
của Alexandre De Rhodes [3] và Húnh Tịnh Của [14].
• Ni = này // Nớ = Kia. Các thứ tiếng đệm, thường có âm tương đương
trong các phương ngữ Hoa. Tiếng Mường: ni = ń = nầy. Tiếng Việt: Nớ ~
Nọ.
• Nôỗng = nương. Nổng = chỗ đất cao (Từ điển Lê Ngọc Trụ [23]).
• Nương = vườn quanh nhà. Theo [23]: nương = ruộng cao ở núi. Dùng sát
với ‘ruộng’, hay thay thế ‘ruộng’: ruộng nương, nương chè, nương dâu.
‘Nôỗng’ và ‘Nương’ rất gần âm với ‘nông’, và ư nghĩa, cách phát âm có
thể hoán chuyển với nhau, trước thời quốc-ngữ. Cũng có khi đi đôi với
‘náu’ mang nghĩa: nương tựa, nhờ cậy. Trường hợp này, ‘nương’ gần âm
tiếng Hạc (Hẹ): [niong] = nương tựa, và ‘náu’ gần âm tiếng Ngô-Việt:
[Nyaz], hay Hạc: [liau].
• O = cô. Có trong từ điển của Húnh Tịnh Của [14]: Ông chú mụ o = ông
chú bà cô. Ngoài ra ‘O’ => o bế = lấy ḷng.
• O mi; cụ mi; chú mi: Trong trường hợp này, ‘O’ được dùng như một từ
đệm cho ‘đại từ’. Xem [4], ta thấy ‘O’ có thể dùng như một đại từ, mang
nghĩa ‘tôi / tớ’ - xuất phát từ phương ngữ Quảng Đông. ‘O mi’ rất có khả
năng dùng ‘o’ chêm vào ‘mi’ để thêm phần thân mật: ‘Mi của O’ - giống
như kiểu ‘chú mầy’, ‘chú mi’.
• Ót = gáy (sau cổ). Tiếng Chăm: [takôy] = cổ. Mon-Khmer: [ko] hay [ka]
= cổ. Trong nhóm ngữ Mon-Khmer, cũng có rất nhiều thứ tiếng dùng từ mang
âm và nghĩa lẫn lộn cho: đầu, óc, và cổ. Kata, Sedang: *[nqo], [ko],
[nkoq]; Munda: [oq]; Bahnar, Pacoh: [kơl]; Mường (Khen): [kel]; Sengoi:
[kelkeil]; Stieng: [ngun] [8], mang nghĩa: đầu, óc, sọ, cổ, và ‘gáy’
(Sengoi) lẫn lộn nhau. Tiếng Thái cho ‘cổ’ và ‘cổ họng’ là [khaaw], rất
gần ‘cổ’. Tiếng Tàu cho ‘cổ’ hay ‘gáy’ là 項 phát âm [hong] theo Hạc và
Quảng Đông, khá giống ‘họng’ tiếng Việt. Phát âm Ngô-Việt cho từ này là
[hAz] khá gần với ‘ót’. Trong khi phát âm Hán-Nhật là [kou] => cổ. Tự vị
Húnh Tịnh Của [14] cũng có ghi: Ót= phía sau cổ, ở tại chớn tóc. Từ
điển Alexandre de Rhodes [3] lại có ghi: Gấy, sau gấy: Tăóc gấy = Tóc
gáy. Bối tăóc sau gấy => búi tóc (cho gọn) ở sau gáy.
• Ôông = Ông. Cũng không đặc biệt phương ngữ Quảng Trị. Tiếng Việt thời
quốc ngữ chưa hoàn chỉnh, vẫn có lộn xộn ở âm cuối [ôn] và [ông]. Thí
dụ: ‘tôn giáo’ trước giữa thế kỷ 20, vẫn c̣n phát âm tại rất nhiều nơi:
‘tông giáo’ (xin xem quyển ‘Nho Giáo’ của Trần Trọng Kim – đă dùng ‘tông
giáo’ từ đầu đến cuối). Rất có thể những nhà cải biến quốc ngữ đă đổi
‘tông’ thành ‘tôn’ bởi âm ‘tôn’ gần với ‘tin’ trong ‘tín ngưỡng’, và
‘cận vị’ với ‘tôn kính’, ‘tôn thờ’ hơn.
• Phản ngựa = bộ ghế ngựa. Cũng không phải đặc thù Quảng Trị, và đều có
ghi trong từ điển Húnh Tịnh Của [14] và Lê Ngọc Trụ [23]. Thật ra
‘phản’ có thể là một trong nhiều cách phát âm thời tiền quốc ngữ cho chữ
‘ván’, ‘tấm ván’. Có thể là một âm nằm giữa [pán] và [bán] hay [byán].
Quốc ngữ đă kí âm lệch sang [V] => ‘ván’, có lẽ để tránh cảnh đồng âm dị
nghĩa với một từ thường dùng hơn: ‘bán’, trong ‘mua bán’. Tiếng Mường:
[bản] = [ván]. Cũng giống như ‘Vàm’ (Cỏ Đông) là kí âm quốc ngữ của
[Piam]; (khu) ‘Lâm Viên’ quốc-ngữ-hoá từ ‘Lang Bian’, ‘Vốn’ là kí âm của
‘byốn’ hay ‘Bổn’ /‘Bản’: tư bản. ‘Vỡ’ xuất phát từ ‘bể’.
• Rạ = rựa. Xin xem phía trên: Lả = lửa. Âm [a] (M) <=> âm [ưa] (V).
• Răng = sao. Có thể bà con với [zam] QĐ, [zen] QT. Không có ghi trong
hai từ điển xưa [3] [14].
• Roọng = ruộng. Tiếng Mường: ‘Rơng’, cho thấy ảnh hưởng phát âm Mường
trên cách phát âm [roọng]. Ngoài ra, phát âm [roọng] cho thấy âm vị tại
những vùng quê, và mường bản không nhấn mạnh phân biệt âm cuối [n] và
[ng] do quốc ngữ đề ra.
• Rớ = lưới. Có trong từ điển Húnh Tịnh Của [14]. ‘Rớ’ mang âm gần với
[Rơ] tức ‘rọ’, thường dùng để bắt cọp, bắt thú vật, hơn là ‘lưới’ để
lưới cá, lưới tôm. ‘Rớ’ rất khả năng cùng gốc với 罝 [ze] tiếng Quảng
Đông, chỉ cái rọ để bắt các loại thú nhỏ như thỏ, chồn.
• Rú = rừng. Rừng và Rú đều là hai từ mang gốc Quảng Đông, viết khác
nhau: Rừng = [zeon] 獉, và Rú = [zau] 菆.
• Rứa = thế. Có trong tự-vị của Húnh Tịnh Của [14]. Có thể mang gốc
Quảng Đông: 這 [ze], pha với phát âm Hẹ [za].
• Su = sâu. Theo sát biến chuyển [Du] => [Dâu], [Cụ] => [Cậu] ở trên,
cũng như biến chuyển giữa [Chu] và [Châu]. ‘Su’ => ‘Sâu’ tương ứng với
[siu] Quảng Đông => [siau] Hakka, 潚.
• Tam = em. Theo sát từ Hakka (nhóm Siyan, Hailu): 栝 [tiam], mang nghĩa
‘người thuộc đàn em’ [29].
• Tê = kia. Rất có khả năng cùng gốc với từ Tày-Nùng [tỉ] mang nghĩa
‘đó, kia’. [Tỉ] Tày-Nùng, là âm tương đương với [bi]-3 quan thoại 彼,
mang cùng nghĩa. Để ư, âm thường gọi ‘Hán-Việt’ [tỷ] (= so sánh), tiếng
Quan-thoại vẫn là [bi]-3, viết 比, cho thấy biến chuyển từ âm [B] Hoa
{bi-3} sang [T] Việt {tỷ} mang ảnh hưởng tiếng Tày-Nùng [26], có bà con
gần là tiếng người Choang ở Quảng Tây. Từ thường lầm là Nôm khi dùng để
chỉ so-sánh là ‘B́’ (b́ với, phân b́) thật ra chỉ là âm tiếng Hoa比
[Bi]-3, mà người Choang & Tày-Nùng dùng [Tó] cho tương đương. [Tó] sinh
ra âm ‘Hán-Việt’ bắt đầu bằng âm [T]: ‘tỷ’; và nguyên âm [ó] cho ra chữ
‘Nôm’: ‘So’. Để ư: ‘tê’ Việt tương đương với ‘tỉ’ Tày Nùng. Tiếng Việt
lại có hai từ đó cặp bồ với nhau: ‘tỉ tê’ => kể lể, tâm sự.
• T’lâu, T’le, T’lời = trâu, tre, trời. Biến đổi [Tr]-Việt sang [Tl] là
biến chuyển sang âm tương đương ở phần-ngữ Mường trong tiếng Việt cổ nói
chung. Mường đọc: Tlu, Tle, và Tlời. Đặc biệt kư âm theo chữ Nôm cũng
dùng âm [l] cho [r], bởi dựa theo cách viết Hán tự [21] [24]. Tuy nhiên,
từ điển Alexandre de Rhodes [3] cho biết ‘trời’ tiếng Việt thế kỷ 17 đọc
[Blời] chứ không phải [Tlời]. Truy tầm của chúng tôi cho biết âm
quốc-ngữ, trên bước đường nhất thống các âm khác nhau - nhất là [Bl] và
[Tl] – đă dựa vào âm vận mang âm [R] (thành ra [TR]) của hai nhóm
ngôn-ngữ Mon-Khmer & Munda. Từ đó, quốc-ngữ dựa vào vần [TR] của người
Việt bản địa tối cổ (Mon-Khmer và Munda) để viết thành: Trâu, Tre, và
Trời [25]. Âm [TR] rất hữu hiệu trong việc kư âm luôn cho những từ tiếng
‘Hán’: Trung => [Zhong], Trân => [Zhen], Tri => [Zhi], Trú => [Zhu],
v.v.
• Thoọc = thọc. ‘Thọc’ đôi khi cũng tương đương với ‘Thọt’ (mặc dù
‘thọt’ ưa dùng với nghĩa khác: ‘thọt chân’), cho thấy thời chưa có quốc
ngữ, phân biệt âm cuối [T] và [C] không được nhấn mạnh, tại phần lớn
nước Việt.
• Trẽn = thẹn. Tiếng Mường: thẽn => thẹn. Theo sát biến chuyển tương
đương kiểu: ‘ngẽn ngùi’ (M) => nghẹn ngùi. ‘Trẽn’ cũng có ghi trong tự
vị của Lê Ngọc Trụ [23], mang nghĩa ‘ngượng ngịu’, và thường đứng chung
với ‘trơ’: ‘trơ trẽn’.
• Trốc = đầu. ‘Trốc’ là một từ chia sẻ gốc với các thứ tiếng Thái [glao]
và Mường [Tlốc]. ‘Nhâc tlốc’ = nhức đầu. ‘Tlốc củi’ = đầu con cúi = thủ
lợn. ‘Tau tlốc’ = đau đầu. Tiếng Huế phát âm như ‘Trốt’, với âm cuối là
[t], thay v́ [c]. ‘Trốc’ có vẻ liên hệ ‘ví phỏng’ [1] với ‘trọc’ trong
‘đầu trọc’ mang nghĩa ‘đầu cạo hết tóc’, hay ‘không c̣n tóc’.
• Trốc cúi = đầu gối. ‘Gối’ (chân) tiếng Mường gọi: ‘cổl lăi’. Trước khi
có kí âm theo a-b-c của quốc ngữ, âm [cổl] có thể phát âm gần giống với
[gối], và [gối] có thể dễ tiến đến [cúi], bởi cả hai âm đầu [c] và [g]
đều thuộc loại tắc âm ṿm mềm. Trong khi đó, ‘Đầu’ = ‘Trốc’. Do đó,
‘Trốc cúi’ => đầu gối.
• Trớng = trứng. Tiếng Mường: ‘Tlởng’ = trứng. Hakka: [lon], [zen],
[zan]. Quảng Đông: [leon], [jyun].
• Trự = đồng tiền. Từ tiếng Hoa mang nghĩa ‘đồng tiền’ rất giống ‘Trự’
phát âm theo kiểu Quảng Đông: [zyu] 铸. Theo tự vị của Húnh Tịnh Của
[14]: Trự= đồng tiền. ‘Không có một trự’ (trong túi) = nghèo lắm, túng
lắm.
• Hung = rất. Lối dùng ‘hung’ cho phó từ ‘rất’ thật ra mang xuất xứ từ
bên Tàu, và được xử dụng tại nhiều nơi ở Việt Nam. Chữ [hung] 凶ngoài
nghĩa ‘dữ tợn’, ‘xấu’ c̣n mang nghĩa ‘rất’, ‘cực ḱ’ [9]. Phát âm Hạc
Việt (Hẹ) và Quảng Đông y hệt: [hung]. Thí dụ tiếng Việt: ‘Hôm nay, anh
có rảnh hung không?’.
Qua những lí giải tầm nguyên cho những từ Quảng Trị ở trên, chúng ta có
thể thấy:
(i) Giống như phân tích về đại từ trong tiếng Việt (tôi, ta, mày, chú,
bác, chúng tôi, các anh, v.v.) [4], không có một từ nào ở trên hoàn toàn
thuần Việt, tức độc nhất chỉ có tiếng Việt mới có. Hầu hết đều có những
từ mang âm tương tự thuộc các phương ngữ khác hoặc ngôn ngữ láng giềng.
(ii) Ảnh hưởng âm vận và từ vựng của tiếng Mường trên ‘tiếng Quảng Trị’
rất mạnh. Cho thấy đó là ảnh hưởng xuất phát từ vùng biên giới Lào-Việt,
bởi người Lào cũng thường được sắp xếp có chủng chủ lực thuộc Thái-cổ.
Trong khi đó, dải đất chạy dài từ nam Thanh Hoá, xuống khu vực Quảng
B́nh - Quảng Trị, từ lâu đă được xem như bản địa xưa của khối Mon-Khmer
[27].
(iii) Đặc điểm nổi bật nhất giữa tiếng ‘Việt’ của người Mường, người
Tày-Nùng, và các ‘phương ngữ’, đối với tiếng Việt ‘chuẩn’ ở khu vực ‘Kẻ
Chợ’ (Kinh) là khác nhau giữa các thinh (dấu). Trong đó thường xuyên
nhất thinh sắc miền Kinh ưa chuyển sang thinh hỏi miền ngoài. Khá phù
hợp với nhận xét riêng của một thân hữu [28].
(iv) Rất nhiều từ, tác giả Trần Hữu Thuần cho là đặc thù Quảng Trị, thật
ra cũng là thứ từ được xử dụng thường xuyên ở những vùng khác tại Việt
Nam. Bằng chứng là một số lớn những từ này thường có ghi đầy đủ trong
các tự điển xưa, như của Alexandre de Rhodes hay Húnh Tịnh Của. Cũng
giống như một số từ t́m thấy trong một số các tự điển về phương ngữ xuất
bản gần đây tại Việt Nam – như bộ tự điển ngót 1000 trang về tiếng Huế
của Bs Bùi Minh Đức.
(v) Một vài thí dụ ‘sơ sơ’ ở phía trên cho thấy, tiếng Hán Việt trong
cách phát âm của chúng cũng là một thứ tổng hợp các phương ngữ Việt cổ.
Xin phép viện dẫn một vài suy luận dùng để hỗ trợ cho kết luận này:
- Tiếng Hán-Việt chiếm đến khoảng 60% số từ vựng tiếng Việt, và bất cứ
người Việt nào cũng đều xử dụng chúng hết sức nhuần nhuyễn. Những từ
điển Mường hay Tày-Nùng cũng tràn đầy một số lớn những từ tương đương
với loại từ thường gọi Hán-Việt. Thí dụ: Wa (M)=> Va (T-N)=> Hoa (V).
- Nếu muốn cả một dân tộc ‘vay mượn’ mớ từ Hán-Việt đó, bắt buộc trong
ngót thiên niên kỷ đầu tiên sau Công Nguyên, xứ An-Nam phải có đầy đủ
phương tiện truyền thông, nếu không có internet th́ phải có cell-phone,
hay Tivi. Hoặc ít lắm phải có nhật báo, hay máy truyền thanh, hay những
lớp học b́nh dân 24/24 dạy tiếng Hán chữ Nho, khắp mọi xóm làng.
- Đi ngược lại thời gian, chúng ta thấy phân biệt những thứ từ gọi
Hán-Việt với từ thuần Nôm hoàn toàn vắng bóng trong những công tŕnh
viết bằng chữ quốc-ngữ đầu tiên, như từ điển Alexandre de Rhodes, những
bài viết hoặc sách báo của Trương Vĩnh Kư, Húnh Tịnh Của, Taberd,
Philiphê Bỉnh, Ben-tô Thiện, v.v. Nói một cách khác, những tác giả
quấc-ngữ đầu tiên chắc hẳn phải biết độc giả không có phân biệt thứ nào
là tiếng Hán Việt và thứ nào là nôm-na ‘lô-can’. Sự phân biệt đó đối với
đại đa số quần chúng, dễ rơi vào một cái hố mâu thuẫn. Đó là, một mặt
chúng ta thường cho rằng tiếng Hán Việt nói ra nghe uyên bác hơn, và là
chữ nghĩa của chốn khoa bảng, quan trường, nhưng một mặt khác chúng ta
lại cho rằng nó đến thẳng với những người ít học, đúng hơn không biết
chữ, sau nhiều thế kỷ chung sống với những người có tiếng Hán là tiếng
mẹ đẻ. Hai chuyện đó rất khó đi đôi với nhau.
- Những học-giả đă ‘lăng-xê’ phân biệt giữa Hán-Việt và Nôm trong ḷng
từ-vựng tiếng Việt, có vẻ thiếu thốn một vài thứ kiểm chứng khoa học.
Quan trọng nhất là một thứ định lư khá bất biến như sau: “Khi A vay mượn
B một món ǵ, th́ A rất khó xử dụng món đó thông thạo như B”. Ở trên,
chúng ta thấy khi người Việt-Mường không phải là tác giả của lối gọi
‘Con / Cái’, họ sẽ xử dụng nó không có được bài bản, và thuần nhất, như
người Việt (Kinh), và sẽ khá lộn xộn. Nhưng người Kinh lại xử dụng nó
rất thành thạo, bởi họ thừa kế được di-sản của người Việt-Mon-Khmer.
Tương tự, bởi tiếng Hán-Việt chính là thứ tiếng (tổng hợp) của người
Việt di dân, họ đem toàn bộ, nhất là biến ư, và nhiều nghĩa của từng từ.
Thí dụ: ‘hung’ mang nghĩa: hung dữ, hung ác, hung thần, hung tin (tin
không lành), và ‘rất’ hay ‘cực ḱ’ ở tiếng “Tàu” (?). Chuyển sang tiếng
Việt, [hung] đem sang toàn bộ ư nghĩa và cách dùng. Nhưng bởi ‘hung’
mang nghĩa ‘rất’ / ‘cực ḱ’ ưa dùng trong câu nói toàn từ “Nôm” (?) hay
ít đi kèm với từ Việt-di-dân, nên xưa nay, ta ưa nhầm ‘hung’ trong nghĩa
‘rất’ là một từ Nôm. Chúng ta cũng lầm tưởng, như vậy, ‘rất’ mới là
thuần Nôm. Thật ra, ‘rất’ cũng không phải Nôm! ‘Rất’ là âm quốc ngữ của
[zat] 郅 phát âm theo Quảng Đông [9], mang nghĩa ‘very’, ‘extremely’, tức
‘rất’ là Nôm theo kiểu ‘Đông Việt’. Thí dụ khác về việc ‘phản ánh’ toàn
bộ, trong chuyện ‘phần-ngữ’: Từ ‘xài’ là một từ cùng gốc với từ Thái
[chai], mang hai nghĩa y như tiếng Việt, ‘xài tiền’ (spend money), và
‘xử dụng món đồ’ (use) / ‘Anh có xài điện thoại di động hiệu Nokia bao
giờ chưa?’. Nếu đó là vay mượn, rất khó xác định ai vay ai cho mượn, và
khi vay thường thường người ta chỉ vay một phần nào của cách dùng mà
thôi, chứ ít khi vay hết toàn bộ, và lại xử dụng nhuần nhuyễn như vậy.
Thí dụ: Karaoke = Kara (trống) + oke (dàn nhạc); Karate = Kara (trống /
không) + Te (tay). Trên thế giới ngày nay ưa vay luôn hai thứ từ này từ
tiếng Nhật. Nhưng không tiếng nước nào, như tiếng Việt chẳng hạn, lại
vay luôn chữ ‘kara’ để hàm ư ‘Không’.
- Sai lầm trong việc nhận diện các từ Hán-Việt và Nôm cũng bắt nguồn từ
kiểu học-thuật ngày trước, rất ít khi kiểm chứng với một ngôn ngữ nào
khác với tiếng Tàu xử dụng ở Bắc Kinh. Cũng rất hiếm khi đối chiếu với
các phương ngữ của Bách Việt xa xưa. Phần lớn là do ở thiếu thốn phương
tiện. Thí dụ, tra từ thường lầm tưởng ‘Nôm’ là ‘Đúng’ ở bất cứ quyển từ
điển tiếng Hoa nào ta sẽ thấy ít nhất 3 từ Hán quen thuộc là [dui] 對
(đối), [zheng] 正 (chính), và [zhen] 真 (chân). Chúng ta sẽ không ngờ 2
chuyện: (a) ‘Đối’ chính là phát âm Quảng Đông [deoi], ‘chính’ giống như
Hakka [zhin], và Mân-Việt [cheng] (chánh), c̣n ‘chân’ y hệt quan-thoại
[zhen]. Và (b) ‘Đúng’ cũng không phải là một từ Việt ‘thuần Nôm’, mà lại
là một phát âm y hệt [dung] của Hạc Việt và Đông Việt, cho động từ
[dung] 董 tiếng Tàu (?) mang nghĩa ‘sửa cho đúng’.
Sydney, ngày 4 tháng Bảy 2007
NN
GHI CHÚ
[1] V.U. Nguyen (2007) Loan Words and Metaphorical Field. (submitted for
publication).
[2] Nguyen Nguyen (2007) Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương. [In
search of the origin of the Vietnamese]. (in publication).
[3] Alexandre de Rhodes (1651) Dictionarium Annamiticum – Lusitanum –
Latinum. Translated by: Thanh Lăng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính.
Pub. By Vien Khoa Hoc Xa Hoi – HCM 1991.
[4] V.U. Nguyen (2007) Vietnamese Personal Pronouns. (submitted for
publication).
[5] Từ điển tiếng Mường (Hoà B́nh) [7] cho biết người Mường gọi người
Kinh là người ‘Chợ’ (Kẻ Chợ = Thăng Long): (a) Măng khể rằng nả cỏ vỡ
Chỡ = Nghe kể rằng nó có vợ người Kinh. (b) Dich tha thiểng Chỡ = Dịch
ra tiếng Việt.
[6] Hội Bảo Tồn Di Sản Nôm (2002) http://nomfoundation.org/
[7] Nguyễn Văn Khang (editor), Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành (2002) Từ Điển
Mường-Việt {Mường-Vietnamese Dictionary}. Published by Văn Hoá Dân Tộc –
Hà Nội.
[8] L. V. Hayes (2001) Austric Glossary -
http://home.att.net/~lvhayes/Langling/Glossary/Glospag1/glosf019.htm
[9] Chinese Character Dictionary - CCDICT v5.1.1 Chineselanguage.org
(1995-2006): http://www.chineselanguage.org/cgi-bin/dict.php
[10] Vấn đề các âm chữ cái quốc-ngữ là một chuyện hết sức phức tạp hóc
buá. Ngay ở âm [y] cũng vậy. Đa số các âm [y] bên Tàu và Mon-Khmer đều
giống kiểu tiếng Anh: Yul Brynner, Yell, v.v. Nhưng một hai nhóm Hakka
lại thích kiểu [Z] hơn: Zang Kui Fi (Yang Gui Fei) => Dương (Dzương) Quư
Phi. Phúc Kiến lại lột [yờ] biến thành [I] => tiếng Việt [y]: yêu =>
[iêu]; âu yếm => [âu iếm].
[11] Để ư sự phân biệt dấu hỏi và sắc (đôi khi ngă) rất lộn xộn khi so
sánh tiếng Việt miền Kinh (Kẻ Chợ) với tiếng Việt tại các mường bản hay
khu vực thôn quê. Thí dụ: ỏng (M) => uống (V); dan tổi (M) => gian dối;
dam cẩm (M) => giam cầm; dáng đăy (M) => giảng dạy (V).
[12] Lối nói khác nhau tùy theo phương ngữ. Thí dụ, từ kép tiếng Việt
‘nở phồng’ – tương ứng tiếng Thái [noh] và [pheerng] {Phúc kiến:
[pheng]}. Nhưng ‘Hoa đào nở’ tiếng Việt, lại tương đương với: ‘Va (hay
[byooc]) tào phồng’ {Hoa đào phồng} trong tiếng Tày-Nùng. Để ư: Va (T-N)
=> Wa (Mường) => Hoa. Byooc => Pông (M) => Bông (V), trong đó [By] chính
là âm ‘V’ phát âm kiểu Nam bộ. Thí dụ khác: Trong tiếng Việt ‘kể’ và
‘nói’ có cách dùng khác nhau. Nhưng trong tiếng Mường, ‘kể’ được dùng
như ‘nói’: khể lải = nói lái; khể bẫy = nói bậy; khể nhó = nói nhỏ.
‘Nỏi’ tiếng Mường cũng mang nghĩa như ‘nói’ (Việt) nhưng ưa thiên về ...
‘kể’: nỏi đẳng = nói tích. Nỏi lăi = nói lại. Và ‘kể’ Việt, Mường phát
âm là ‘kế’: kế cuông = kể chuyện.
[13] Nguyễn Phục Hưng (2007) Trao đổi tư liệu trên Forum M-C.
[14] Húnh Tịnh Paulus Của (1895) Đại Nam Quấc Âm Tự Vị. Imprimerie Rey,
Curiol & Cie. Re-published by Nhà Xuất Bản Trẻ, 1998.
[15] Trang mạng về tiếng Anishinaabemowin:
http://imp.lss.wisc.edu/~jrvalent/ais301/Grammar/InflMorphology/nouns001.htm
[16] Truyện cổ tích về ‘đực rựa’:
http://www.quangduc.com/TruyenNgan/020thamthitham.html
[17] Charles Hamblin (1988) Languages of Asia & the Pacific. Angus &
Robertson.
[18] Trần Hữu Thuần (2007) Tiếng Quảng Trị. Xem talawas.org ngày
13/6/07:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10168&rb=06
[19] Tiếng Mường mang âm tương đương [kh] đối với Việt [s]: khong =>
sông (Mekong => sông Mẹ, sông lớn), khư nữ = sư nữ, khổng lăi = sống
lại.
[20] Gerard Moussay, Nại Thành Bô, Thiên Sanh Cảnh, Lưu Ngọc Hiến, Đàng
Năng Phương, Lưu Quang Sanh, Lâm Gia Tịnh, Trương Văn Tốn (1971). Tự
Điển Chàm-Việt-Pháp (Champa-Vietnamese-French Dictionary). Trung tâm
Văn-hóa Chàm - Phan-Rang.
[21] James Campbell (2007) Chữ Nôm Characters:
http://www.glossika.com/en/dict/viet/nom-d.php
[22] Tiếng Myanmar (Miến/Diến - Điện) thường được xem bà con hậu duệ
tiếng Môn. Thế nhưng cho đến vài năm gần đây người Môn tại Miến Điện vẫn
thường bị ‘ḱ thị’. Truy cứu của chúng tôi cho biết cấu trúc văn phạm
tiếng Myanmar lại mang ảnh hưởng khác với tiếng Môn. Đó là tiếng Munda ở
Ấn Độ.
[23] Lê Ngọc Trụ (1959) Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị. Thanh Tân.
[24] Thí dụ: Trai (male / boy) viết bằng cách ghép chữ [Nam] 男 với [Lai]
來. Âm [L] trong [Lại] dùng cho [R]: TRAI =男來.
[25] Thí dụ: Trâu <= [trăk] Theng (Munda) & [krâu] Wa (Munda). Trời <=
[trôk] Mnong (Mon-Khmer) & [trôôc] Xtieng (M-Kh). {trích từ: Hồ Lê
(1992) Từ Nam Á trong tiếng Việt. TRONG: Viện Khoa Học Xă Hội (Th.P.
HCM) - Tiếng Việt và các ngôn ngữ Dân tộc phía Nam. Nxb Khoa Học Xă Hội
- Hà Nội}
[26] Hoàng Văn Ma - Lục Văn Pảo – Hoàng Chí (1974) Từ Điển Tày – Nùng -
Việt (Tay-Nung-Viet Dictionary). Published by Viện Ngôn Ngữ Học (The
Linguistics Institute)
[27] Vơ Mai Phương (Chu Thái Sơn chủ biên) (2005) Người Dao. Nxb Trẻ
[28] Phạm Quang Tuấn [2007] Hai tuần ở Việt Nam (không có xuất bản).
[29] Trong những áng văn Nôm của Ức Trai Tiên Sinh (Nguyễn Trăi), người
ta thấy Ức Trai vẫn thường dùng ‘anh tam’ thay cho ‘anh em’: "Núi láng
giềng, chim bầu bạn, Mây khách khứa, nguyệt anh tam" {xem:
http://www.vietmedia.com/literature/vanthisi/?ID=5 - Hoặc: trong Quốc Âm
Thi Tập: "Tuy rằng bốn biển cũng là anh tam"
Xem thêm Tự điển tiếng Quảng Trị:
TDTQT |
|