| |
|
Tiếng Việt ba miền
Tiếng nào là ‘chuẩn’?
Trong tiến trình nghiên cứu ngôn ngữ học về sự
thay đổi của tiếng Việt (bằng tiếng Anh) tôi thấy có đôi điều khá lý thú
về ngôn ngữ của chúng ta, nên viết ra đây để chia xẻ cùng quý độc giả.
Bài nầy mang tinh thần của một nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ chớ không
phải thuộc loại xã luận nên hoàn toàn không có ý định phê bình. Tuy
nhiên khi phân tích thì không thể tránh khỏi sự đề cập tới những nét đặc
thù của tiếng Việt liên quan tới thổ ngữ của ba miền Nam, Trung, Bắc.
Các từ ngữ mà tôi dùng ở đây xuất phát từ sự tương phản của Anh Ngữ, chớ
không phải là Hán ngữ, nên có thể tạo ra cái cảm giác hơi xa lạ một chút,
kính mong quí độc giả thông cảm cho.
Điều trước tiên tôi muốn nêu ra đây để nhấn mạnh
rằng trong ngôn ngữ, không nhất thiết là ngôn ngữ nào, người ta không
nên đặt vấn đề “đúng” hay “sai”; mà thật ra hai từ ngữ "đúng” và "sai",
tự nó đã không thể đứng vững rồi, bởi vì nó còn cần phải nương nhờ vào
các từ ngữ khác để bổ túc, giới hạn, hay để xác định tình huống, thì mới
được coi là hợp lý. Thí dụ chúng ta nói "cái nầy sai" thì chưa ổn, mà
phải nói "cái nầy "sai nguyên tắc" hay "sai đối với tôi” thì nó hợp lý
hơn và nhờ vậy mà có thể hy vọng không bị bắt bẻ. Một khi chúng ta đề
cập tới vấn đề “đúng” và "sai" thì có nghĩa là chúng ta phải so sánh - "đúng”
là đúng theo cái gì, còn "sai" là sai theo cái gì – thì mới công bằng và
hợp lý!
Đó là một lý luận hơi lòng vòng về cái ý niệm
không hoàn hảo về cái "đúng” và cái "sai", để từ đó chúng ta xét tới các
vấn đề trong ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ của người Việt chúng ta. Giờ
đây tôi xin mời quí độc giả làm một chuyến "thăm dân cho biết sự tình"
qua khắp ba miền Nam, Trung, Bắc của nước Việt Nam mình.
Với miền Nam "ruộng đồng cò bay thẳng cánh", tôm
cá đầy sông”, một vùng đất phì nhiêu, cây trái sum sê bốn mùa, đời sống
của người dân rất sung túc, thoải mái. Họ có làm lụng vất vả công việc
đồng áng, ruộng vườn đi nữa, nhưng tâm hồn lúc nào cũng thảnh thơi,
không băn khoăn lo lắng nợ nần. Lúc nào làm thì làm còn lúc nào chơi thì
chơi:
"Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè …"
Cờ bạc và rượu chè ở đây không phải là loại say
sưa, quậy phá, hay đam mê ngồi sòng Casino để phải ‘bán hết cửa nhà, gia
đình ly tán’, mà cờ bạc, rượu chè của người dân miền Nam là hình thức
giải trí lành mạnh trong thời gian nhàn rỗi mà thôi. Sự gắn bó với thiên
nhiên, với ruộng đồng đã làm cho người dân miền Nam "ăn ngay, nói thẳng”
trong mọi cuộc giao tiếp hàng ngày; và từ đó nảy sinh ra những ngôn từ,
hay lối nói tương ứng - bộc trực.
Với miền Trung "khô cằn sỏi đá” và "lũ lụt mỗi
năm”, cuộc sống của người dân ở đây khắc khổ hơn, khiến cho tâm hồn họ
luôn luôn căng thẳng, âu lo cho cái sống ngày mai. Nếu có ai từng đi qua
các vùng Bình lãnh, Bình trị, Quế sơn, Tuyên phước của tỉnh Quảng ngải,
Quảng tín, thì chắc có lẽ đã chứng kiến cảnh sống vô cùng khắc khổ của
đồng bào ta ở đó. Có gia đình không có một con dao để làm cá mà phải
dùng một cành cây nhọn để thay dao. Không có muối để dùng nên phải đốt
rể cỏ tranh, lấy tro ngâm nước để làm nước muối mà dùng. Xuất phát từ
cái tâm tư khắc khổ đó, ngôn ngữ của người dân miền Trung cũng thể hiện
một cách tương ứng.
Với thời tiết giá buốt và điều kiện thiên nhiên
khắc nghiệt của miền Bắc, người dân ở đây nhất định không thể sung túc,
thoải mái bằng người dân ở miền Nam. Tuy nhiên về phương diện lịch sử
thì miền Bắc là nơi khởi nguồn thành hình đất nước Việt Nam. Miền Bắc
cũng là nơi tiếp cận với người Tàu nên ảnh hưởng nhiều với văn hoá và
ngôn ngữ Tàu, tức là chữ Hán. Miền Bắc chính là nơi khai sinh ra ngôn
ngữ Việt, để từ đó lan tràn theo tiến trình khai mở bờ cõi xuống tới
phía Nam.
Thực ra, tiếng Việt là một ngôn ngữ có một lịch sử
rất dài và nó vô cùng phong phú, đã có từ thế kỷ thứ Tư trước Tây lịch.
Nguồn gốc thành hình của tiếng Việt đã được tranh cãi nhiều bởi các nhà
ngôn ngữ học loanh quanh vấn đề được nhiều người đặt ra là nó có phải
thuộc nhóm ngôn ngữ north-south Austronesian, tức thuộc nguồn gốc Mã Lai
và các thổ ngữ phía Nam Trung quốc, như Cam Bốt, Tây Tạng và Thái Lan,
hay không?1 Một
nhà nghiên cứu khác về ngôn ngữ, Marybeth Clark2,
thì cho rằng tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Úc-Á, có quan hệ mật thiết
với tiếng Mường ở miền Bắc Việt Nam. Còn các nhà ngôn ngữ học khác thì
lại cho rằng tiếng Việt của chúng ta thuộc nguồn gốc Tây Tạng, Khờ Me,
hay Thái3.
Tuy nhiên, theo quan điểm của người Việt thì ông Đỗ Quang Vinh4 đã
đưa ra các bằng chứng lịch sử cho thấy tiếng Việt của chúng ta được phát
triển từ tiếng Mường và tiếng nguyên thuỷ nầy vẫn còn tồn tại đến ngày
nay. Xin mời quí vị đọc trích đoạn sau đây:
"Khây klước pâu PÔ rằng cỏ môch ông, thên hốp là
ông Tùng, mà cỏ hai bơ chồng: nã rú ra tế nĩ lấp cải Ksông Pờ. Nã tan lê
Ksông Pờ pao tất Thach Pi. Bơ nã mê ti lê ksú tế nã lấp ksông. Lòng klời
ksinh tha môch ông hốp là ông Sách; mê thuỗng mê thếch pất bởi ông Tùng.
Nã mê pao lò; nã tỏ mìng nó tha, nã mê pât ông Tùng. Ông Tùng mê chải
hết mìng, mê chết. Cho đênh
cải ksông dỉ chăng lấp ẩn, mê đênh
cải Thác pờ dỉ"
"Ngày xưa người ta nghe rằng có một người đàn
ông, tên là ông Đông.
Hai vợ chồng ông ấy định lấp con sông Bờ. Họ muốn ghép đất của sông
Bờ vào vùng Thạch Bi. Vợ ông ấy đi
mang đá về để lấp sông. Việc nầy làm động
lòng Trời, nên Trời sai xuống một sứ thần tên là ông Sắt. Ông Sắt đi
vào lửa để
làm nóng lên cả toàn thân trước khi đánh
với ông Đông. Ông Đông bị nóng cháy rồi chết. Vì vậy mà con sông
kia đã
không lấp được,
nên trở thành một cái thác"
Theo sử liệu nầy thì người Việt Nam mình đã có
ngôn ngữ riêng mà nguồn gốc của nó bắt nguồn từ miền Bắc và vẫn còn tồn
tại với người Mường cho đến ngày nay. Dưới đây là một bằng chứng văn bản
chữ Việt nguyên thuỷ của người Mường.
Source: Do (1994:210)5

Như vậy, theo sử liệu nầy thì chữ Việt của chúng
ta đã có từ lâu chớ không phải bắt nguồn từ chữ Hán của người Tàu sau
khi họ đô hộ nước ta hơn cả ngàn năm, và cũng không phải là do kết quả
sự đô hộ của người Pháp6.
Do ngôn ngữ xuất phát từ miền Bắc, nên sau nầy có
người lấy ngôn ngữ miền nầy làm chuẩn cho tiếng Việt, nghĩa là nói theo
khuôn mẫu giọng Bắc mới là cách nói đúng theo tiêu chuẩn tiếng Việt, còn
giọng nói của các miền khác đều không đúng cả!
Vấn đề đặt ra ở đây là ‘cái chuẩn’ của tiếng Việt
là gì và ai có thẩm quyền đặt ra ‘cái chuẩn nầy? Nếu cho rằng giọng miền
Bắc là ‘chuẩn’ là ‘đúng’, vì sự phân biệt rõ ràng trong cách phát âm các
dấu hỏi, dấu ngã, chữ cuối có ‘G’ và không có ‘G’, hay chữ cuối là vần
‘T’ hay ‘C’, thì thật ra vẫn chưa ổn lắm, bởi vì cách phát âm miền Bắc
còn nhiều rắc rối với các chữ bắt đầu bằng ‘L’, ‘D’ hay ‘TR’. Cách phát
âm của giọng miền Nam và miền Trung thì chắc chắn không thể nào cho là
‘chuẩn’ được rồi, bởi vì miền Nam phát âm ‘V’ giống như ‘D’, không phân
biệt ấm cuối ‘C’ và ‘T’, không phân biệt chữ có ‘G’ và không có ‘G’ v.v.
Còn giọng miền Trung thì lại càng ‘đa dạng’ nữa, nhưng thiết không cần
phải kể ra đây.
Như vậy, tiếng Việt của ta nên được căn cứ vào
giọng nói của miền nào để được gọi là ‘chuẩn’, là ’đúng’? Như trên tôi
đã thưa, theo quan niệm của ngôn ngữ học thì không có chuyện ‘đúng’ và
‘sai’, bởi vì ngôn ngữ không phải là ‘tài sản’ của riêng ai hay của
riêng miền nào. Nó là ‘sản phẩm’ của tư tưởng trong mỗi cá nhân tùy theo
mỗi tình huống. Chức năng của ngôn ngữ là để làm phương tiện cho việc
chuyên chở ý tưởng của con người. Tuy nhiên không phải lúc nào ngôn ngữ
cũng làm tròn cái chức năng của nó. Sự giới hạn của ngôn ngữ phát xuất
từ một nguyên do căn bản nhất là người nghe không hiểu đúng ý tưởng
người nói; và cũng chính vì vậy mà trên đời nầy có biết bao chuyện hiểu
lầm đáng tiếc và đáng thương trong tương quan, giao tiếp giữa người nầy
và người khác, ngay cả giữa vợ chồng, anh em, cha con hay mẹ con với
nhau! Điều nầy chắc không cần phải có dẫn chứng vì chắc ai cũng đã từng
có những kinh nghiệm về sự hiểu lầm và hậu quả ‘bất hoà’ của nó!
Khi chúng ta đã nhận ra tính chất giới hạn trong
chức năng của ngôn ngữ, và khi chúng ta nhìn nhận là chuyện hiểu lầm với
nhau là điều quả quyết không thể tránh khỏi được, thì chúng ta cần nên
cẩn thận trong ngôn từ khi dùng nó để làm phương tiện diễn đạt ý tưởng
của mình, và khi tiếp nhận đối thoại từ người khác. Chúng ta phải luôn
luôn nghi ngờ về tính chất giới hạn của ngôn ngữ để làm sao càng tránh
được nhiều sự hiểu lầm thì càng tốt.
Trên thực tế, ngôn ngữ không phải là của riêng ai.
Bất cứ một lời nói nào ta dùng hôm nay đều được vay mượn của người khác,
hoặc trực qua đối thoại, hoặc gián tiếp qua sách vở, báo chí. Nên nhớ
rằng khi ta nói chuyện với ai, không phải chỉ có một mình ta đang nói,
mà có nhiều người đang nói, bởi những lời nói ta dùng chỉ là sự lập lại
lời nói của người khác mà thôi! Nếu bạn không tin hay không đồng ý như
vậy thì xin hãy hỏi mẹ mình hay anh chị mình coi lúc mình mới chào đời
thì đã có chút vốn liếng ngôn ngữ nào hay chưa? Có biết dùng từ ngữ nào
của mình hay chưa?
Chuyện ngôn ngữ còn dài, không thể mô tả hết được;
nhưng tôi đành phải kết thúc bài nầy ở đây với một kết luận rằng lối
phát âm theo ba miền Nam, Trung, Bắc đều là phản ảnh thổ ngữ, hay tiếng
địa phương. Không có lối phát âm nào là ‘chuẩn’, là "đúng" hay là ‘chánh
cống’ tiếng Việt cả! Chúng ta tôn trọng ý tưởng của mỗi người khi dùng
ngôn ngữ và cố gắng hiểu theo ý họ chớ không nên chủ quan hiểu theo ý
mình thì mới tránh được những sự hiểu lầm thật đáng tiếc. Trên căn bản
nầy, chúng ta phải tôn trọng lối phát âm của mỗi miền đất nước thân yêu,
bởi vì tiếng Việt vẫn là tiếng Việt mến yêu ngàn đời của mọi người Việt
Nam chúng ta.
Lê Thiện Phúc
(CHS PTG 58-64)
Melbourne ngày 19/10/2003
GHI CHÚ
Xin
đọc trang 3, Clark, Marybeth, (1978). Coverbs
and Case in Vietnamese.
Series B. No. 48. Pacific Linguistics. Department of Linguistics.
Research School of Pacific Studies. The Australian National University.
Xin
đọc trang 1 và 2, Shum, Shu-Ying (1965) A Transformational Study of
Vietnamese Syntax. (PhD thesis) Indiana University.
Xin độc
trang 171, Do, Quang Vinh (1994) Tiếng Việt Tuyệt Vời. Làng Văn.
Toronto. Canada.
(5) Trang 210, Do,
Quang Vinh (1994) Tiếng Việt Tuyệt Vời. Làng Văn. Toronto. Canada.
Xin độc
trang 174, Do, Quang Vinh (1994) Tiếng Việt Tuyệt Vời. Làng
Văn. Toronto. Canada.
|
|