|
Tiếng Việt S.O.S.
Dương Tường
Trong một bài trả lời phỏng vấn của báo Thể thao-Văn hoá, Giáo sư Cao Xuân
Hạo nói nhiều về t́nh trạng đáng báo động hiện nay trong viết và nói tiếng
Việt. Đây là một vấn đề mà Cao Xuân Hạo luôn trở đi trở lại trong những
bài viết của ḿnh như một điều canh cánh bên ḷng. Chia sẻ mối ưu tâm đó
của ông, tôi muốn được góp thêm một số suy nghĩ dưới đây.
1. Trong những lần gặp gỡ ít ỏi gần đây, hoặc khi tôi có việc vào Thành
phố Hồ Chí Minh, hoặc khi Hạo ra Hà Nội họp, nguy cơ suy đồi của tiếng mẹ
đẻ luôn là một đề tài trao đổi giữa hai chúng tôi. Hiện tượng viết sai,
nói sai tiếng Việt phổ biến một cách đáng sợ. Làm sao không lo lắng khi mà
trong khẩu ngữ hằng ngày cũng như trên sách báo và các phương tiện truyền
thông đại chúng, những lỗi thô thiển về mọi mặt - từ ngữ chính tả, ngữ
pháp... - luôn luôn chọc vào tai, vào mắt ta? Dù mở đài truyền thanh,
truyền h́nh, hay giở hú hoạ một tờ báo nào đó, bạn đều có thể gặp những
cách hành văn đại loại như: Với thành tích đó, đă đưa Công ty lên hàng đầu
các cơ sở xuất khẩu, hay: Qua kết quả thực nghiệm, đă chứng minh sự đúng
đắn của lư thuyết trên... Những câu cú què quặt, những lời dịch ngược
nghĩa, ngô ngọng, tây không ra tây, ta không ra ta, đặc biệt là những chữ
dùng sai, tràn lan và thường xuyên như cơm bữa. Xin dẫn một vài thí dụ:
Nhạc sĩ Trần Tiến có một bài hát có cái tên khoa trương „Hà Nội những năm
2000“. Có điều lạ là không ai thấy thế là chướng. Những năm 2000 là ǵ? Là
cả một khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2999, là cả ngh́n năm, là cả
thiên niên kỷ thứ ba đấy. Không lẽ nhạc sĩ muốn Hà Nội vẫn cứ nguyên như
những ǵ được gói gọn trong bài hát của ḿnh?
Cũng liên quan đến niên đại, người ta rất hay dùng cụm từ vô nghĩa sau
Công nguyên nhất là trong những tài liệu lịch sử, chẳng hạn: cuộc khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng kéo dài từ năm 40 đến năm 43 sau Công nguyên,
nhà Lư rời đô đến Thăng Long năm 1010 sau Công nguyên... Tôi nói vô
nghĩa là v́ đến nay ta vẫn ở trong Công nguyên chứ chưa có bao giờ
là sau Công nguyên cả. Công nguyên là kỷ nguyên Thiên Chúa giáo lấy
thời điểm Chúa Jêxu ra đời làm mốc khởi đầu. Mốc đó tiếng La-tinh gọi là
Anno Domini (Năm của Chúa). Trước cái mốc đó th́ có thể nói là “trước Công
nguyên”, nhưng từ đó trở đi th́ nằm trong Công nguyên và Công nguyên chưa
hề chấm dứt nên không thể nói “sau Công nguyên” được. Nếu muốn dùng chữ
sau th́ phải nói là “sau Thiên Chúa giáng sinh”.
Một từ nữa bị dùng sai rất phổ biến, trong cả viết lẫn nói, là Thánh A-La.
Trong Hồi giáo, A-La là Đấng Tối Cao tương ứng với Chúa Trời trong Thiên
Chúa giáo. Thánh là người v́ đức hạnh tôn giáo hoặc v́ công trạng, kỳ tích
lớn lao mà được tôn xưng và thờ phụng đời đời. Thánh th́ có muôn vàn,
nhưng Chúa chỉ có một. V́ vậy không thể gọi là Thánh A-La được.
2. Khuynh hướng lấy châu Âu làm chuẩn mực mà Giáo sư Cao Xuân Hạo gọi là „dĩ
Âu vi trung’’ (eurocentrisme) quả đă gây tác hại trong việc xây dựng ngữ
pháp tiếng Việt. Người ta máy móc dựa vào mô h́nh mệnh đề của châu Âu,
nhất là của Pháp, chủ từ + động từ + bổ từ để viết những câu ngô nghê kiểu
như: Tôi đă gửi các tài liệu cho ông, ngày mai ông sẽ nhận được chúng.
Trong tiếng Việt, nói cũng như viết, bổ từ thường được tinh lược, để hiểu
ngầm. Tôi đă gửi tài liệu cho ông, ngày mai ông sẽ nhận được, chỉ vậy là
đủ, không cần phải các để chỉ số nhiều và chúng để bổ nghĩa cho động từ
nhận. Người Việt nói (và viết): Lùa vịt ra đồng, chứ không Lùa những
con vịt ra đồng, hoặc: Hắn rút một điếu thuốc châm lửa hút, chứ không
Hắn rút một điếu thuốc, châm lửa nó và hút nó. Có lẽ cũng nên nhớ
lại rằng trước kia, khi chưa tiếp xúc với văn minh, văn hoá và ngôn ngữ
Pháp, rồi chịu ảnh hưởng của tiếng Pháp, trong tiếng Việt, cái đại từ nhân
xưng số nhiều chúng hiếm khi được dùng hoặc nếu có, th́ thường chỉ dùng
cho người và loài vật, chứ không cho đồ vật. Và nhiều khi đại từ nó được
dùng cho cả số ít lẫn số nhiều. Ta hăy cùng cụ Tú Xương nghe thiên hạ chúc
nhau:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con
Sinh năm đẻ bảy được vuông tṛn
Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non...
Xin lưu ư: nó chứ không chúng, mặc dù rơ ràng đó là số nhiều.
3. Có một điều nghịch lư là sau khi thống nhất nước nhà, hàng loạt từ địa
phương ở miền Nam tràn ra miền Bắc, dần dần lấn lướt, thậm chí thay thế
những từ đă chuẩn hoá từ nhiều đời. Lợn lành chữa thành lợn què, đang
trương biển Công ty gạch hoa, lại sửa thành Công ty gạch bông, đang thiếp
mời lại sửa thành thiệp mời, đang kem cốc lại sửa thành kem ly. Trên thực
đơn các cửa hàng ăn, các chữ rang và rán biến mất, nhất loạt thay thế bằng
chữ chiên: cơm chiên thay v́ cơm rang; cá chiên, đậu chiên, khoai tây
chiên thay v́ cá rán, đậu rán, khoai tây rán... Trong ngôn ngữ mọi nước,
tiếng dùng ở thủ đô thường được coi là chuẩn mực, không thể đem tiếng địa
phương thay thế. Hiện tượng này nếu diễn ra theo chiều ngược lại, đem
những từ miền Bắc thay thế lối nói quen thuộc của miền Nam, cũng là vô lối,
không chấp nhận được.
4. Cuối cùng, xin tạm nêu dưới đây một số từ dùng sai thường gặp trong
khẩu ngữ hằng ngày cũng như trên sách báo:
Cứu cánh: Cứu cánh, nghĩa là mục đích tối hậu, hợp với phương tiện
thành một cặp khái niệm. Bởi có từ tố “cứu” trong đó nên rất nhiều người,
kể cả một số người viết chuyên nghiệp, dùng từ này với nghĩa cứu giúp,
giải cứu.
Đảo ngũ: Từ này vốn không có, mà do đọc sai từ đào ngũ, nghĩa là bỏ
trốn khỏi quân đội trong khi đang tại ngũ. Cho đến nay, vẫn c̣n nhiều
người, kể cả các phát thanh viên trên đài, mắc lỗi thô thiển này.
Thực sự - thực thụ: Thực sự có nghĩa là đích thị như vậy, không
phải là giả; c̣n thực thụ nghĩa là đă chính thức nhận cương vị, nhiệm vụ
hay chức trách của ḿnh, không c̣n là tạm thời nữa. Một giám đốc thực thụ
là một giám đốc đă chính thức nhậm chức. Không ít người thường dùng từ
thực thụ theo nghĩa thực sự.
Đảo - ốc đảo: Đảo là một khoảng đất đá nhô lên giữa một vùng nước
rộng lớn hơn (sông, hồ hoặc biển), c̣n ốc đảo là một khoảng có cây và nước
ở giữa sa mạc. Hai từ hoàn toàn khác nhau về cả nghĩa cụ thể lẫn hàm ư,
nhưng rất nhiều người thường dùng ốc đảo với nghĩa là đảo. Thậm chí, Đài
Truyền h́nh Việt Nam có lần phát một vở kịch (tôi không nhớ tên v́ mở đài
giữa chừng) với cốt truyện diễn ra trên một ḥn đảo, nhưng suốt các màn,
lớp, các nhân vật đều gọi đảo là ốc đảo?
Quyền - thẩm quyền: Quyền là những ǵ có thể đ̣i hỏi hoặc được phép
hưởng (lợi ích vật chất và tinh thần) theo quy định của pháp luật hay quy
ước đạo lư, c̣n thẩm quyền là tư cách về chuyên môn để xem xét nhận định,
đánh giá. Rất nhiều người đă dùng từ thẩm quyền ở những chỗ lẽ ra phải
dùng từ quyền.
Sưu tầm - sưu tập: Sưu tầm là t́m kiếm, thu thập và tập hợp lại một
cách có hệ thống. Các bộ sưu tập là kết quả của công việc đó. Cách nói
đúng là: nhà sưu tầm và bộ sưu tập, thí dụ: Nhà sưu tầm X nổi tiếng với
những bộ sưu tập quư hiếm. Nhưng gần đây, trên sách báo, thuần thấy gọi là
nhà sưu tập như thể chữ nhà sưu tầm chưa bao giờ tồn tại vậy.
Răn đe hay ngăn đe? Về điểm này, cần phải giải thích một chút về từ nguyên:
cặp từ này mới chỉ xuất hiện vào giữa thập kỷ 1960 khi Mỹ đẩy mạnh cuộc
chiến tranh không quân phá hoại miền Bắc. Giới quân sự Mỹ gọi hành động
này là deterrence response, tức là đánh phủ đầu để cảnh cáo và ngăn chặn
việc miền Bắc đưa quân vào miền Nam. Cánh biên dịch chúng tôi (hồi đó tôi
là cán bộ biên dịch ở Ủy ban điều tra tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở
Việt Nam) bàn với nhau, tham khảo cả ư kiến của Giáo sư Đặng Chấn Liêu,
một chuyên gia hàng đầu về tiếng Anh, và cuối cùng thống nhất dịch là phản
ứng ngăn đe (hàm ư vừa ngăn chặn vừa đe dọa). Vậy là từ ngăn đe có trước,
rồi sau đó người ta đọc chệch thành răn đe và viết rập theo như thế luôn.
Đời sống ngôn ngữ có những phát triển thật bất ngờ: về sau, bất cứ khi nào
tôi viết ngăn đe, người ta đều sửa thành “răn đe”! Tôi ṭ ṃ giở Đại từ
điển tiếng Việt của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Trung tâm Ngôn ngữ và Văn
hoá Việt Nam ra tra: hỡi ôi, trong đó chỉ có từ mục răn đe mà không có
ngăn đe!
Điệu nghệ hay diệu nghệ? Hiển nhiên, điệu nghệ là do đọc chệch từ diệu
nghệ mà ra. Diệu nghệ là từ Hán-Việt, trong đó diệu (cũng là thành tố của
các từ tuyệt diệu, huyền diệu, diệu kỳ, diệu kế...) nghĩa là hay, giỏi,
khéo, tài và nghệ nghĩa là nghề. Diệu nghệ là giỏi nghề, có kỹ thuật tài
t́nh. C̣n điệu nghệ là một ghép nối giữa một thành tố thuần Việt (điệu)
với một thành tố Hán (nghệ), tựa như “very giỏi” vậy. Vậy mà khốn thay,
thiên hạ hầu như chỉ một mực nói và viết điệu nghệ thay v́ diệu nghệ! Một
lần nữa, tôi giở Đại từ điển tiếng Việt để kiểm tra và một lần nữa tôi lại
sửng sốt và thất vọng đến ngao ngán: không hề có từ mục diệu nghệ mà chỉ
có điệu nghệ mà thôi! Song tôi cũng có một an ủi: tất cả các Từ điển
Việt-Anh của Giáo sư Bùi Phụng đều có từ mục diệu nghệ và không có điệu
nghệ.
Khi mà một bộ sách tra cứu như Đại từ điển tiếng Việt do các cơ quan có
thẩm quyền như Bộ Giáo dục và Đào tạo và Trung Tâm Ngôn ngữ và Văn hoá
xuất bản, cũng mắc những sai sót sơ đẳng đến thế th́ rành là chỉ c̣n nước
phát tín hiệu S.O.S. thôi! Thiết tưởng, có nói người ta đang tàn sát tiếng
Việt cũng không ngoa.
2/2002
Nguồn: Dương Tường, Chỉ tại con chích choè, tạp luận, Nhà xuất bản Hội Nhà
văn, Hà Nội 2005, tr. 179-185. Bản đăng trên talawas với sự đồng ư của tác
giả.
talawas.org
|