|
Ngôn
ngữ Việt trong thế giới phẳng
Theo ḍng thời gian, đời sống ngôn ngữ lại nảy sinh một số từ mới, một
số thành ngữ, một số câu hát nhại theo câu hát chính thống, hoặc để châm
biếm hoặc tạo nên tiếng cười. Chúng chỉ sống một thời gian rồi tự biến
mất, nhường chỗ cho đoạn đời "tiếng lóng" khác. Nhưng giờ đây cách nói
chệch, nói lóng đang trở nên lan tràn và được sử dụng một cách bừa băi.
Nó làm mất đi những nét đẹp, sự trong sáng của tiếng Việt và có nguy cơ
trở thành căn bệnh khó chữa.
Tôi có một anh bạn là giáo viên người Nhật Bản. Anh
kể không ít lần anh đă không hiểu người trong nước nói ǵ khi đă lâu mới
về nước. Các câu chữ bị biến dạng, hoặc gộp với nhiều từ tiếng Anh để
tạo ra một từ mới.
Tiếng
Anh theo kiểu Nhật, và các kiểu viết tắt trong ngôn ngữ thoại trên mạng
Internet giờ đă được Chính phủ Nhật Bản công nhận và đưa vào từ điển.
Tôi cũng nói với anh, lâu nay tôi chẳng đi đâu, vậy mà cũng trở nên "mù
chữ" v́ không đọc và hiểu được hết những ǵ người Việt nói và viết. Tuy
chưa chính thức được công nhận, nhưng dường như những lối nói chệch, nói
quá, nói lóng, nói đệm tiếng Anh cũng trở nên rất phổ biến ở Việt Nam .
Chúng ta dễ dàng bắt gặp ngay chính trên các phương
tiện thông tin đại chúng những từ tiếng Anh như: em-xi (người dẫn chương
tŕnh); cát-xê (tiền bồi dưỡng), sô (biểu diễn), lai-vờ-sâu (biểu diễn
trực tiếp), nhạc clat-xích (nhạc cổ điển), nhạc căn-tri (nhạc đồng quê),
các fan (người hâm mộ), hu-li-gân (côn đồ), teen (tuổi thiếu niên), top-hít
(đứng đầu)... Họ dùng những từ ngữ ấy một cách tự nhiên như thể đó là
những từ tiếng Việt mà ai cũng hiểu.
Cách nói nửa Tây nửa ta lại càng phổ biến hơn, đặc
biệt là giới văn pḥng có tiếp xúc với người nước ngoài. Họ sử dụng
ắp-đết (cập nhật), búc (đặt pḥng), chếch ao, chếch in (nhận trả pḥng),
prồ (chuyên nghiệp), prốc-lầm (vấn đề); sua (chắc chắn), đít-cao (thảo
luận)... một cách thành thạo và coi đó là thước đo của sự chuyên nghiệp.
Việc sử dụng các từ nước ngoài trong lĩnh vực khoa
học công nghệ là không tránh khỏi v́ có quá nhiều thuật ngữ mới chưa
được định nghĩa trong tiếng Việt. Nhưng với những từ vừa nêu trên, chúng
ta dễ dàng t́m ra được từ thay thế, ngay như với từ "teen", ở tiếng Việt
có thể kể ra những từ thay thế như: tuổi thiếu niên, tuổi mới lớn, tuổi
ô mai, tuổi dậy th́, tuổi chanh cốm, tuổi xanh, tuổi học tṛ, tuổi trăng
tṛn, tuổi mười bảy, tuổi vị thành niên...
Nhưng với xu hướng hiện nay, nếu dùng đúng nghĩa
một cách quy chuẩn như vậy sẽ bị coi là "lúa" (tức là nhà quê). Phải
dùng xen vào các từ nước ngoài, hoặc có thể ghép nghĩa, ghép âm vần mới
được coi là mốt, là "sành điệu".
Chỉ trong vài năm trở lại đây, tiếng Việt đă bị bóp
méo và sử dụng một cách bừa băi. Càng nói lùng bùng, khó hiểu càng được
coi là lạ, sành điệu. Người sử dụng sẵn sàng ghép thêm những vần mới
chẳng liên quan ǵ tới câu chính, hoặc những từ có nghĩa khác mang tính
phản cảm và trần trụi. Như khi khen ai đẹp th́ được dùng là "đẹp dă man"
hoặc "hơi bị ngon".
Những từ như "sến" (t́nh cảm ướt át), "chuối" (hành
động nhàm chán không đâu vào đâu), "leng keng", "chập cheng" (thần kinh
có vấn đề), "mít ướt" (dễ mủi ḷng, dễ khóc), "dở hơi ăn cám lợn" (kỳ
cục) được dùng quen thuộc đến độ khi yêu cầu người nói phải thay bằng
một từ tương đương đă khiến không ít người lúng túng.
Đă từng có thời những từ lóng: sức mấy, cực kỳ, bóc
lịch, ổ quỷ, sách ba xu, trái cấm, xế hộp, âm lịch, xưa rồi Diễm ơi,
chảnh, xù... đă được được coi là những từ rất mới. Nhưng giờ đây đă được
thay thế bằng những từ không thể đoán hết nghĩa, đặc biệt là những từ
dùng theo kiểu nói chệch: đúng roài (đúng rồi), khoái lém (khoái lắm),
sao dị (sao vậy), chít ĺn (chết liền), bít rùi (biết rồi), iu (yêu),
d́a (về), đâu g̣i (đâu rồi), ch́u (chiều), dị (vậy), ù (ừ), mừ (mà), bùn
(buồn), hic hic (thể hiện trang thái buồn), ha ha (thể hiện trạng thái
vui), trùi ui (trời ơi), wen (quen), thik (thích), bb (tạm biệt)...
Trước đây ngôn ngữ này được giới trẻ dùng để chat
hoặc nhắn tin cho nhanh, nhưng hiện nay nó lan nhanh trong ngôn ngữ đời
thường. Lúc đầu cũng nhiều người phản ứng, cho là không thuận tai, khó
đọc, nhưng dần dần cũng thấy ngộ ngồ rồi học theo một cách dễ dăi.
Trong chiều hướng hiện nay, nó đang dần vượt qua
khuôn phép và mang ư nghĩa xấu, khiến nhiều người lo ngại, cho đây là sự
"ô nhiễm" trầm trọng của tiếng Việt. Tuy nhiên xét theo một khía cạnh
khác, nó đă phản ánh sự thay đổi trong lối sống của giới trẻ, là sự giao
thoa của các nền văn hóa mà trong đó ngôn ngữ là điều dễ thấy nhất.
Thời gian có mặt của tiếng lóng chưa lâu, nó mới
chỉ là một trào lưu mới, nên chưa thể khẳng định sự tồn tại lâu dài của
nó. Hơn nữa, sự vay mượn từ ngữ tiếng nước ngoài luôn xảy ra đối với mọi
ngôn ngữ, nên nếu có sự kiểm soát của cơ quan hay tổ chức có đủ quyền
lực để quyết định về những trường hợp vay mượn cụ thể, sẽ bảo vệ được sự
trong sáng của tiếng nói dân tộc.
Mẹ chồng tôi dạo gần đây hay có cách nói chuyện
thêm vào phía sau mỗi câu nói: "Nói cho vuông". Tôi không hiểu lắm nghĩa
của từ này, nhưng có vẻ nó giống với từ "nói thế cho nhanh". Tôi cũng
nghe đâu đó một vài bạn trẻ sử dụng từ này, nhưng sự lặp lại thường
xuyên của một người lớn tuổi khiến tôi không khỏi băn khoăn. Nó giống
như một thứ "gia vị", gia giảm tùy theo người nói, nhưng nếu quá đậm th́
sẽ khó được chấp nhận.
Thằng cháu nội của bà mới qua tuổi tập nói cũng
đang dùng những từ như thế để đối đáp với bà. Nó nói: "Buồn như con
chuồn chuồn", "chán như con gián", hay "nhỏ như con thỏ", "lớn như con
lợn"... người lớn nghe chỉ cười, có khi c̣n khen là "thông minh" nữa.
Vẫn biết là cháu giỏi bắt chước theo người lớn,
nhưng cứ nếu thế này th́ con tôi sẽ mất dần đi khả năng cảm thụ vẻ đẹp
của ngôn ngữ Việt. Tôi sợ rằng một ngày kia hai bà cháu sẽ nói chuyện
không c̣n những từ "dạ", "thưa" mà theo ngôi xưng "You" (bạn) và "I"
(tớ) kiểu rất Tây. Một thế giới phẳng đang hiện hữu ngay ở nhà tôi
Tường Hương
|