“Nhà” cũng là nơi đùm bọc, chở che,
lưu trữ bao nhiêu giá trị về mặt tinh thần cũng như cất giữ bao
nhiêu vốn liếng về mặt vật chất. Đó là khởi điểm để mỗi sáng mai con
người cất bước ra đi, vừa là tụ điểm để khi chiều xuống con người
quay gót trở về.
Đối với người Việt, nhà có ý nghĩa quan trọng chừng nào! “Sống cái
nhà, già cái mồ”, nhà là điểm tựa, là dinh lũy trong cuộc sống, nhà
bảo vệ con người trước những đe dọa thiên nhiên từ cái thời tiết bốn
mùa mưa nắng đến thú dữ các loài.
Giá trị của nhà có thể biến đổi, nhưng không suy giảm theo với thời
gian: nhà mới thường được thiên hạ ăn mừng với những quà tặng và
những mâm cơm hoan hỉ, nhưng nhà xưa luôn được sự trìu mến, kính yêu.
Được quay trở về với mái nhà xưa là niềm hy vọng và nguồn an ủi vô
cùng sâu đậm.
“Nhà tôi” là một danh xưng bình đẳng cho vợ và chồng. Tính bình đẳng
ấy vốn là đặc điểm ở trong gia đình Việt Nam ta xưa, trước khi tập
nhiễm quan niệm chồng chúa, vợ tôi vay mượn từ ngoài. “Nhà tôi” còn
là tiếng nói của lòng âu yếm, của sự kính nể. “Nhà tôi” ám chỉ mỗi
một cá nhân nhưng lại bao hàm cả một cộng đồng.
Tiếng “nhà tôi” ấy như muốn khẳng định một niềm chung thủy. Ai cũng
quyến luyến ngôi nhà đã ấp ủ mình, và dầu có việc đi xa vẫn mong
quay về chốn cũ, tìm lại hơi hướng quen thân. Không ai có thể phản
bội lại ngôi nhà mình. Trái lại, con người luôn có ý hướng vun bồi,
tô điểm cho ngôi nhà ấy thêm vẻ tươi đẹp, khang trang - tô lại nền
gạch, xây thêm bờ tường, treo những bức tranh, sắp xếp, trưng bày
sao cho vừa bụng của mình mà cũng đẹp mắt cho thiên hạ.
Có lần trong cuộc trao đổi với kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, nhà thơ Cù
Huy Cận đã nói về tiếng “nhà tôi” mà ông cho rằng có một ý nghĩa
nhân bản sâu xa. Hẳn rằng đa số chúng ta đều đồng ý với nhà thơ lớn.
Và tiếng “nhà tôi” còn đó, trong ngôn ngữ Việt, như một chứng tích
của một quan niệm vợ chồng, của một liên hệ lứa đôi, cần được trân
trọng bảo tồn.
Ngoài tiếng “nhà tôi” ở ngôi vị thứ ba, ngày xưa người Việt quen
dùng tiếng “mình” ở ngôi vị thứ hai, giữa vợ và chồng. Tiếng “mình”
cũng mang tính cách bình đẳng, ra ngoài đẳng cấp và ngoài giới tính.
Dĩ nhiên, vợ chồng không thể gọi nhau bằng “đầu” - chẳng hạn: “Đầu
ơi! anh yêu đầu lắm” - vì tuy quan trọng nhưng đầu ở trên thượng
đỉnh cao vời, có tính năng động của sự xét nét, khó mà gần gũi.
Cũng không thể gọi nhau bằng “tay chân”, vì nó lèo khoèo, lòng thòng,
có vẻ bất ổn và không đủ sức bảo đảm cho một tin yêu. Chỉ có tiếng “mình”,
với cái khối lượng lớn lao trong một con người, mang nhiều cơ năng
trọng yếu cho sự tuần hoàn, hô hấp, dinh dưỡng và cả truyền lưu dòng
giống, tiếng “mình” thân mật và êm đềm ấy, gần gũi và ổn định ấy, là
tiếng xưng hô riêng biệt của người Việt Nam vốn muốn thấy trong hôn
nhân một sự hòa đồng, hòa nhập, một sự kết hợp đầy tính thống nhất
giữa hai con người, có thể ở những hoàn cảnh, ở hai trình độ, ở hai
chân trời rất cách biệt nhau, nhưng đã chấp nhận phối hợp để thành
một người duy nhất đầy đủ giá trị cũng như quyền năng.
Trên vài thập niên vừa qua, trong khi tiếng Việt xuống cấp, thể hiện
qua nhiều hiện tượng như lầm lẫn tiếng Hán Việt với tiếng Việt (chẳng
hạn điểm yếu lại viết yếu điểm); như sự lặp đi lặp lại những tiếng
thừa thãi (chẳng hạn nói chung, nói riêng); hoặc sự đảo ngược ngôn
ngữ một cách quái gở (chẳng hạn một thời dấu yêu); và xấu hổ nhất là
trộn ngoại ngữ vào tiếng Việt, trong khi chúng ta có thừa những
tiếng đẹp hơn để dùng (chẳng hạn sống hot, tuổi teen...) và cái
tiếng mình lại được lạm dụng vào ngôi thứ nhất một cách tồi tệ.

Ảnh mang tính minh họa. (Nguồn
ảnh: honviet)
Ai cũng thừa biết trong sự giao
tiếp thân tình, với những đối tác bình đẳng, người Việt mới dùng
tiếng mình để nói về mình. Nhưng điều kỳ quặc hiện nay là thường
nghe, thấy trên đài những người lại dùng tiếng mình để nói về mình
trước một số đông, với những đối tác không phải thân quen, có những
đối tượng cao niên hơn mình. Có lần tôi hỏi anh Cao Xuân Hạo - vì
biết anh chuyên về ngôn ngữ học - tại sao lại có hiện tượng đó thì
anh suy nghĩ rồi mới trả lời: “Có lẽ họ bắt chước các dân tộc thiểu
số”.
Chúng ta thông cảm đồng bào dân tộc thiểu số khi dùng tiếng mình
thay cho riêng tôi, vì sự hiểu biết tiếng Việt của họ có hạn chế,
nhưng với những người Việt Nam - dầu là thất học - cũng không được
phép lầm lẫn như thế. Sự lầm lẫn này còn làm thương tổn đến một đặc
tính của ngôn ngữ Việt, ở sự xưng hô trong các quan hệ gia đình.
Bởi người Việt Nam qua các vị trí và những tương quan gia đình không
có những tiếng gọi chung nhưng được phân biệt khá rõ, và ngoài hai
bên nội, ngoại còn có chú, bác, cô, dì, cậu, mợ… đòi hỏi có sự chính
xác trong khi giao tiếp, xưng hô. Với những con người ở xa, lâu ngày
mới có dịp gặp gỡ lại bà con thân tộc dễ thấy lúng túng trong khi
chào hỏi vì không rõ được vị thế, danh xưng từng người.
Một đặc điểm nữa là người Việt Nam không chỉ trao đổi ý tưởng bằng
những ngôn từ mà còn sử dụng cung bậc trong cách phát âm làm một yếu
tố diễn đạt. Nếu nghe một người lớn gọi, người trẻ “dạ” tiếng gọn,
nhẹ thì có nghĩa là “đã nghe rồi, và xin chấp hành”, nhưng nếu tiếng
“dạ” được cất cao lên thì có nghĩa như chất vấn trở lại, rằng “tôi
chẳng hiểu nói gì” và nếu tiếng “dạ” kéo dài nặng nề rồi trầm hẳn
lại thì có nghĩa là “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.
Có lẽ vì tiếng Việt đậm tính thanh nhạc, là một bản sắc của ngôn ngữ
Việt nên trong giao tiếp không thể không biết đến đặc điểm ấy. Tuy
rằng không nhiều, nhưng trong gia đình, có đôi vị thứ giống nhau
nhưng ở đẳng cấp khác nhau đòi hỏi phải phân biệt rõ cung bậc trong
cách phát âm.
Xin được kể lại một kỷ niệm nhỏ minh họa cho điều vừa nói: Thời
chống Pháp, sau một chuyến đi công tác vùng xa, tôi trở về lại quê
nhà, đang lủi thủi băng qua một dãy rừng hoang vắng bỗng thấy trước
mặt một người đi tới và tôi vui mừng nhận ra là người chú họ của tôi,
cùng trạc tuổi tôi, đã có một thời cùng học chung trường. Tôi hớn hở
bước nhanh đến, kêu lên: “A! Chú!” nhưng ông lặng lẽ đi qua như một
con người xa lạ khiến tôi cảm thấy hụt hẫng, ngỡ ngàng.
Về sau, qua một người thân, tôi được nghe rằng ông chú đã trách móc
tôi vô lễ, vì khi gặp ông đã gọi “A! Chú!”, xem ông như một người em.
Tôi rất khó chịu khi biết sự việc như thế, nên lần sau đó, trong
ngày giỗ của tộc họ khi nhìn thấy ông, tôi liền chắp tay, bước tới
cúi đầu nói rất nhỏ nhẹ “Thưa chú”, thì ông kêu lớn tên tôi, rồi
cười toe toét và đến ôm tôi, vỗ nhẹ vào lưng, hỏi han tới tấp đủ
điều. Bấy giờ tôi vẫn nghĩ rằng mình đang diễn một vai hề và nói ông
chú quý trọng hình thức không ngờ rằng đang vồ vập thằng cháu đang
rủa thầm mình, trong khi lại quay mặt đi khi nó thành thật vui sướng
được gặp gỡ ông.
Về sau, nghĩ lại, tôi thấy rằng mình có lỗi vì lần gặp gỡ giữa rừng
tôi đã phát âm trật nhịp, không lưu ý đến vai trò người chú và cái
đặc tính tiếp cận nặng về hình thức của ông, vì ở trong gia đình
Việt tôi phải tuân phục quy định không thành văn ấy chứ không được
quyền đòi hỏi người chú hiểu được ý đồ của cháu.
Ngày nay chúng ta nói nhiều về sự bình đẳng nam nữ, một trong những
đòi hỏi quyết định cho sự phát triển nhân loại, và ở trong gia đình
Việt tồn tại khá nhiều danh xưng, di sản cửa thời phụ hệ xa xưa, như
sự phân biệt nội, ngoại, dầu trên thực tế chúng ta có thể yêu thương
bên ngoại nhiều hơn bên nội, và hẳn lớp trẻ ngày nay không hề cảm
thấy có sự phân biệt giữa hai tiếng đó, song nếu có thể gạt bỏ được
chữ nội, ngoại trong các gia đình và thay vào đó những tiếng thích
hợp thì sự bình đẳng nam nữ không phải vướng mắc chút thương tổn nào.
Bởi vì, ngày nay, khi gặp những người sao lục gia phả, vinh danh
dòng họ, chúng ta vẫn thấy còn đó một sự bất công, bởi lẽ trong các
gia phả, các dòng họ ấy, vai trò của người đàn ông luôn được vinh
danh còn người đàn bà khổ công sinh đẻ, nuôi dưỡng và đóng góp phần
không nhỏ cho sự dạy dỗ, xây dựng cuộc đời con cái thì chỉ là kẻ phụ
thuộc.
Trong xã hội vẫn có những người đàn ông biết điều, khi đặt tên con
đã ghép họ vợ vào sau họ mình, như ta vẫn gặp Đỗ Lê Thái Thụy, Phạm
Trần Minh Khanh..., nhưng sự kết hợp đầy ý nghĩa ấy vẫn không giúp
được cho dòng họ mẹ có một chỗ đứng ngang tầm với dòng họ cha.
Như thế, chuyện bình đẳng giới không chỉ thể hiện ở trên luật pháp
mà còn ở nhiều lĩnh vực khác nữa, trong đó văn hóa - với một nghĩa
rộng - phải được quan tâm đúng mức để khai thác được cả những vẻ đẹp
từ trong quá khứ, chứ không cho những bóng ma nào đó ở trong dĩ vãng
còn có cơ hội ẩn hiện giữa cuộc sống này.
Theo Hồn Việt