V́ sao sau một ngàn năm đô hộ,
bá quyền Trung Quốc vẫn không
Hán hoá được Việt Nam?
Từ thượng cổ, người Trung Hoa đă
tự tạo cho ḿnh niềm tin rằng
vua chúa của họ là “Thiên tử”
(con Trời), được ban cho “thiên
mệnh” trị v́ bàn dân thiên hạ.
Từ khi vị hoàng đế đầu tiên (Tần
Thủy Hoàng đế) thống nhất các
nước nằm trong lưu vực sông
Hoàng, nơi này được gọi là Trung
Quốc – hàm ư quốc gia ở trung
tâm toàn cơi đất. Trăm họ tộc
Hoa người Trung quốc được coi là
thần dân. Những dân tộc không
cùng ḍng giống với người Hoa
sống ở những khoảng đất chung
quanh đều bị coi là man di như
Hung Nô phía Bắc, Bách Việt phía
Nam. Sau nhà Tần, các triều đại
nhà Hán vẫn lấy danh nghĩa làm
theo “mệnh trời”, tiếp tục chính
sách bành trướng của Tần Thủy
Hoàng chiếm hữu đất đai của các
dân tộc này sáp nhập vào Trung
Quốc. C̣n tinh vi hơn, đàn bà
con gái của các dân tộc này bị
ép lấy người Hán, để rồi con cái
họ trở thành người Hán v́ mang
huyết thống cha theo chế độ phụ
hệ một chiều của người Tàu; bằng
cách này, chỉ sau vài trăm năm,
các dân tộc này đều bị tuyệt
giống. Thật ra, đó là cách duy
nhất để cung cấp nhân công cho
một nền kinh tế có căn bản là
nông nghiệp, khi người Hán chỉ
là thiểu số so với toàn thể số
dân đại lục Trung Hoa thời đó (vào
khoảng 50 triệu, bằng dân số đế
quốc La Mă cùng thời). Trong
khoảng một ngàn năm gần như toàn
thể các tộc Bách Việt sống ở
phía Nam sông Dương Tử đều đă bị
Hán hoá và tuyệt chủng. Chỉ c̣n
lại duy nhất một dân tộc thoát
được nạn này là dân tộc Lạc Việt,
tổ tiên chủ yếu của dân tộc Việt
Nam sau này: không những không
bị đồng hoá mà, kỳ diệu hơn, c̣n
giành được độc lập, giữ được một
phần đất phía Bắc và tiếp tục
bành trướng về phía Nam để tạo
thành một quốc gia riêng, biệt
lập với Trung Quốc, điều đă
khiến cho cuộc Nam tiến của
người Hán xuống cực Nam của vùng
Đông Nam Á bị khựng lại từ hơn
một ngàn năm nay.
Tôi đă thử t́m hiểu v́ sao lại
có được cái phép lạ đó. Theo tôi
suy nghĩ, đó là nhờ ở bốn nhân
tố:
•Ư thức quốc gia của người Lạc
Việt đă rất sớm nẩy nở, đủ sức
chống lại ư thức bá quyền Đại
Hán ngay từ khởi đầu.
•Tinh thần dân tộc của người Lạc
Việt đă vượt qua được giới hạn
bộ tộc để đủ sức đương đầu với
chủng tộc Đại Hán.
•Truyền thống mẫu hệ của người
Lạc Việt đă vô hiệu hoá phương
thức đồng hoá bằng hôn nhân của
người Hán theo chế độ phụ hệ,
giúp cho dân Việt Nam bảo tồn
được giống ṇi.
•Thể chế lạc tướng - lạc hầu
được tồn lưu dưới h́nh thức cơ
chế làng xă đă giúp dân Việt bảo
vệ được nền tự chủ của ḿnh.
Tôi cũng xin nói cho rơ hơn là
cái nghĩa của từ “quốc gia” tôi
bàn luận ở đây không cùng nghĩa
với từ “quốc gia” bây giờ, và
cũng không đồng nghĩa với chữ
“quốc” trong “liệt quốc” thời
Chiến quốc, mà có nghĩa “quốc
gia Nam Việt” đối lập với “Trung
Quốc” nhà Hán.
Theo tôi, chính Triệu Đà, để
phục vụ tham vọng của ḿnh, đă
là người tạo cho dân Việt ư thức
quốc gia và tinh thần dân tộc
theo cái nghĩa đó. Trong lịch sử
nhân loại có nhiều trường hợp
như vậy: Alexandre Đại đế người
Macédoine làm dạng danh nước Hi
Lạp. Guillaume le Conquérant
người Pháp lập ra nước Anh,
trong quá khứ luôn luôn thù địch
với Pháp. Napoléon người Corse
đă đưa nước Pháp tới tột đỉnh
vinh quang. Không kể những hung
thần như Thành Cát Tư Hăn người
Mông Cổ lập ra nhà Nguyên,
Staline người Georgie, Hitler
người Áo v.v...
Ư thức quốc gia
Khi Tần Thủy Hoàng mất, Triệu Đà
chỉ là một viên lệnh úy tầm
thường gốc người nước Ngụy thuộc
tộc Hoa, nhưng là người có chí
khí, đă biết lợi dụng thời thế
hợp quần một số tộc Việt để xưng
đế lập ra nước Nam Việt cùng
thời với Trung Quốc của Hán Cao
Tổ. Theo các nhà sử học phương
Tây, sở dĩ nước Tần thắng được
các nước khác, không phải v́ có
Tần Thủy Hoàng mà v́ nước Tần là
nước có thể chế, có hành chính
qui củ, có quân đội mạnh, vũ khí
tân tiến hơn các nước khác thời
bấy giờ. Từng là một viên tiểu
lại của nhà Tần, Triệu Đà đă lấy
kinh nghiệm nước Tần để gây dựng
nước Nam Viêt thành một quốc gia
tân tiến ngang, nếu không nói là
hơn Trung Quốc của nhà Hán thời
sơ khai, nhất là về quân sự (đánh
chiếm Trường Sa). Có thể nói
trên lục điạ Trung Hoa và gần
như cả Đông Nam Á thời đó, chỉ
có hai quốc gia ngang sức đương
đầu với nhau là Trung Quốc và
Nam Việt. Cả hai đều có cơ cấu
phỏng theo nước Tần. Nhờ vậy
người Bách Việt trong nước Nam
Việt của Triệu Đà có ư thức quốc
gia rất sớm và sau một ngàn năm
bị đô hộ vẫn giữ được ư thức đó
để tái lập lại nước Việt sau này.
Người Hán cho đó là khi quân,
một thế giới không thể có hai
nước, một điều phạm đến “thiên
mệnh” của Trung Quốc, nên dùng
đủ mọi phương kế kể cả phương kế
bỉ ổi nhất là mỹ nhân kế Cù thị
để xoá bỏ cho bằng được nước Nam
Việt. Khi tiêu diệt được nhà
Triệu, nước Nam Việt bị đổi
thành Giao Chỉ bộ và bị chia nhỏ
thành 9 quận cho mất tang tích
một quốc gia đă dám đương đầu
với Trung Quốc. Tuy vậy người
Trung Hoa cho tới ngày nay vẫn
luôn luôn bị ám ảnh bởi một quốc
gia đă dám chống đối ḿnh ngay
từ sơ khởi, nên không có ǵ lạ
khi nhà Thanh v́ mặc cảm đă bắt
Gia Long phải đổi quốc hiệu mà
ông dự kiến “Nam Việt” thành
“Việt Nam”. Trong thâm tâm,
người Tàu vẫn coi Việt Nam là
Giao Chỉ quận hay An Nam đô hộ
phủ. Chứng cớ là khi người Pháp
mới đặt chân xuống miền Nam, hỏi
mấy chú Chệt tên nước này là ǵ,
mấy chú vẫn nói tên là “Giao Chỉ”.
Tây nghe âm Tàu đọc trại là
“Cochin”. Lại sợ lầm với tên đất
Cochin bên Ấn Độ, nên đặt lại là
“Cochinchine” để phân biệt (từ
tố “-chine” có nghĩa là “Trung
Quốc”).
Tinh thần dân tộc
Là một nhà chính trị khôn ngoan,
Triệu Đà đưa ra chủ trương liên
kết mọi tộc Việt trong nước Nam
Việt với nhau (như trong câu
“người trong một nước phải
thương nhau cùng”), điều đă
khiến cho mọi tộc Việt vượt qua
được giới hạn bộ tộc của ḿnh,
đi đến một ư niệm cao hơn là ư
niệm về dân tộc Việt. Tinh thần
dân tộc lại càng thêm vững mạnh
khi Triệu Đà đem lại cho dân tộc
Việt vinh quang đầu tiên bằng
chiến công đánh chiếm Trường Sa
[1] của Trung Quốc. Hơn một ngàn
năm sau Lư Thường Kiệt noi gương
đem quân tràn qua Tàu đánh phá
các châu Khâm, Liêm. Rồi lại gần
1000 năm sau nữa, sau trận Đống
Đa làm nhà Thanh khiếp đảm,
Thanh đế Càn Long sợ Quang Trung
sang đánh và đ̣i đất, phải vội
vàng hứa gả con gái cho và hứa
trả lại Lưỡng Quảng (Quảng Đông
và Quảng Tây).
Chế độ mẫu hệ và truyền thống
lạc tướng - lạc hầu
Khi lập Văn vương [2] , cháu
đích tôn con Mị Nương và Trọng
Thủy, lên kế nghiệp ḿnh, Triệu
Đà có ư muốn nương theo chế độ
mẫu hệ của người Lạc Việt để
Việt hoá ḍng giống ḿnh, ngơ
hầu triều đại nhà Triệu trở
thành triều đại quy mô đầu tiên
của dân Việt và sau này có thể
dựa vào dân tộc Việt chống lại
được sự bành trướng của Trung
quốc. Trong lịch sử nhân loại,
những dân tộc yếu muốn bảo vê
được sự sống c̣n của ṇi giống
ḿnh trước những dân tộc mạnh
hơn đều chỉ có cách là duy tŕ
liên hệ gia đ́nh theo mẫu hệ.
Thí dụ điển h́nh nhất là dân tộc
Do Thái, 2000 năm mất nước, phải
di tản đến mọi nơi trên thế giới,
trước đó đă bao lần bị lưu đầy
qua nhiều nước khác mà vẫn bảo
tồn được dân tộc (cùng truyền
thống văn hoá) của ḿnh nhờ –
không cần biết cha là thuộc ḍng
giống nào – tự coi ḿnh là người
Do Thái nếu mẹ là người Do Thái.
Người Hán cũng biết vậy nên đă
mưu tính đưa Cù thị vào làm vợ
lẽ Anh Tề để con của Cù thị (có
với t́nh nhân của thị là Thiếu
Quư) là thái tử Hưng máu Tàu
100% sau này lên ngôi đem đất
nước dâng lại cho nhà Hán. Quả
nhiên là như vậy: khi Minh vương
Anh Tề mất, Hưng lên ngôi (tức
Ai vương) tính cùng mẹ đem nước
dâng cho nhà Hán. Khi tể tướng
Lữ Gia biết, giết mẹ con Cù thị
và sứ giả nhà Hán, đưa Dương
vương có mẹ người Việt lên thay
th́ đă quá muộn. Lại gặp tướng
giỏi nhà Hán là Phục Ba tướng
quân nên dân Việt đành chịu thua.
Một ngàn năm sau, khi phản công
lại Lư Thường Kiệt ở Khâm châu
và Liêm châu, nhà Tống lại đem
tích “Cù thị vị quốc hi sinh”
như một Chiêu quân cống Hồ ra ca
tụng nhằm cổ vơ quân sĩ. Đủ biết
là sự hiện hữu của nước Nam Việt
đối lập với Trung Quốc vẫn là
một mối hận trong tâm thức người
Tàu.
Cũng có lẽ nhờ giữ được truyền
thống mẫu hệ trong phong tục nên
đă có những cuộc khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng và Bà Triệu. Noi
gương Triệu Đà, nhiều quan lại,
sĩ tử người Hán, được cử qua
“Hán hoá” dân Giao Chỉ, đă lấy
vợ Việt không chịu trở về Trung
quốc và con cháu không những đều
trở thành người Việt mà c̣n nổi
lên chống lại người Hán như
trường hợp Sĩ Nhiếp, hoặc trường
hợp Vạn Xuân vương Lư Bôn...
Ngoài ra, nhiều tăng thống gốc
Việt hay mẹ Việt như Tăng Khương
Hội c̣n trở về Trung Quốc thuyết
giảng đạo Phật theo văn hoá và
tư tưởng Việt. Có thể suy luận
là trong 1000 năm bị đô hộ, sở
dĩ dân Việt Nam không bị đồng
hoá là v́ chính sách Hán hoá
“lấy vợ Việt để đẻ con Hán” lại
có hậu quả ngược lại, “gậy ông
đập lưng ông”, là các con cháu
có “mẹ Việt” đều trở thành người
Việt, giữ ǵn huyết thống Giao
Chỉ và truyền thống văn hoá Việt,
nhờ vậy đă không những không bị
Hán hoá mà ngược lại, c̣n “Việt
hoá” người Tàu qua đô hộ. Khả
năng “Việt hoá” mạnh mẽ đó không
những đă giúp dân Việt bảo vệ
được ṇi giống của ḿnh trước
người phương Bắc mà c̣n có thể,
trong cuộc bành trướng về phương
Nam, đồng hoá những dân tộc khác
từng một thời hưng thịnh như
Chiêm Thành, Chân Lạp, cũng như
sau này đă “Việt hoá” những
người Tàu Minh Hương để mở mang
miền Nam.
Truyền thống lạc tướng - lạc hầu
ẩn ḿnh dưới những cơ chế làng
xă cũng đă giúp cho dân Việt bảo
tồn được nền tự chủ của ḿnh
trong suốt thời kỳ bị đô hộ, v́
“phép vua thua lệ làng”: phép
tắc của các quan thái thú Tàu
cũng không thể vượt qua được lũy
tre làng. Nhờ vậy mà “ư thức
quốc gia” vẫn tiếp tục trường
tồn tuy bị thu hẹp trong ư thức
“làng nước”: làng chỉ là nước
được thu nhỏ lại, và vị Thần
Hoàng được thờ ở đ́nh làng như
những anh hùng dân tộc, những
bậc thánh linh thiêng sẽ phù hộ
cho người dân giữ làng giữ nước;
c̣n làng là c̣n nước, bảo vệ
làng là bảo vệ nước.
Để kết luận
Trong lịch sử thế giới từ cổ chí
kim, từ Đông qua Tây, không một
dân tộc nào như dân tộc Việt
Nam, sau một ngàn năm bị đô hộ
bởi một nước lớn và mạnh như
Trung Quốc, không những vẫn bảo
tồn được ṇi giống mà c̣n vẫn
giữ được cơ cấu quốc gia, và lại
tiếp tục duy tŕ nền tự chủ của
ḿnh trong suốt thời gian một
ngàn năm nữa. Đó là nhờ ở những
nhân tố mà tôi đă nêu ở trên,
cũng như nhờ ở sự khôn khéo của
ông cha ta đă biết lúc cương lúc
nhu, lúc tiến lúc lùi, tuy giữ
h́nh thức triều cống ba năm một
lần nhưng vẫn luôn luôn cảnh
giác, coi phương Bắc là giặc, là
kẻ thù, không bao giờ coi là bạn
cả.
Nguồn:
http://hoangsa.org/forum/showthread.php?t=17509
Tôi đồng ư rằng Lạc Việt đă
thành công trong việc duy tŕ
được bản sắc Việt tộc trước sự
xâm lấn và đồng hóa của Hán tộc.
Theo tôi, những nguyên nhân
chính giúp cho bộ này c̣n tồn
tại được là:
- Ư thức quốc gia được xây dựng
từ sớm: Nếu để ư có thể thấy là
không một nhóm Bách Việt (tên
gọi những nhóm cư dân phi Hán
cho đến trước thời Hán) có một ư
thức quốc gia-dân tộc đúng nghĩa.
Mặc dù đều là 'Việt', ư thức của
họ mới dừng ở mức độ bộ lạc hoặc
liên bộ lạc, một liên kết hết
sức lỏng lẻo. Một vài nhóm Việt
sau một thời ḱ dài bị Hán hóa
hoàn toàn, họa chăng có một vài
nhóm đạt được tŕnh độ phát
triển sớm như Ngô Việt, U Việt
v.v Cả cái gọi là nước Văn Lang,
Âu Lạc cũng không thoát khỏi
t́nh trạng lỏng lẻo đó. Nhưng,
sau khi diệt Âu Lạc, dù là kẻ
chiến thắng nhưng là nhóm
Hoa-Hán thiểu số trong một cộng
đồng Việt tộc đông đảo, Triệu Đà
đă khôn khéo lấy ḷng những lực
lượng người Việt thuộc Âu Lạc đă
diệt vong. Những người Việt này
được liên kết lại dưới trướng
của Triệu Đà, dần dà giúp họ
vượt qua phần nào giới hạn bộ
lạc của ḿnh (dù vẫn bị chế độ
lạc hầu, lạc tướng cản trở).
- Văn minh quốc gia: Như trên đă
nói, không một nhóm Bách Việt
nào có tổ chức hành chính, thể
chế một quốc gia, kể cả Bách
Việt. Khi Triệu Đà đến, mang
kiến thức tân tiến về tổ chức,
quản lí, điều hành một quốc gia
thay thế cho một bộ lạc, lúc ấy
dân Lạc Việt mới có được sức
mạnh về tổ chức kinh tế, chính
trị, xă hội, hành chính, quân sự,
đủ làm nền tảng cho một quốc gia
về sau. Giống như đất Triều Tiên
không có Cơ Tử (người nước Yên
thời Xuân Thu-Chiến Quốc) th́
không mặc mũ áo (theo văn minh
Hoa Hạ), sẽ không có một nước
Việt Nam đúng nghĩa văn ḿnh như
ngày nay nếu không tiếp thu cơ
cấu văn minh quốc gia của người
Hán. Cũng chính nhờ điều này mà
Việt Nam, cũng như Triều Tiên,
mới đủ sức đương đầu với sự bành
trướng của Hán tộc.
- Dân số và huyết thống: Dân số
Lạc Việt, thời đó là Âu Lạc rồi
Nam Việt, lớn gấp nhiều lần dân
số Hán tộc di cư đến. Thời Nam
Việt dân Việt áp đảo dân Hán dù
người cai trị là Triệu Đà. Phải
vài thế kỉ sau người Hán mới di
cư đến đông đảo hơn, nhưng vẫn
không thể vượt dân Việt. Chính
điều này đă giúp bảo tồn phần
nào huyết thống Việt tộc, thể
hiện qua việc đặc điểm di truyền
của người Việt hiện đại giống
với người Hoa Nam mà có phần
khác người Hoa Bắc. Nếu để ư, có
thể thấy hầu hết những vùng ảnh
hưởng của Hán tộc là những vùng
mà người Hán chiếm đa số, kể cả
Tây Tạng, Tân Cương, rằng chính
sự áp đảo về dân số và huyết
thống này đảm bảo sự thống trị
của người Hán. Sau thời Triệu Đà
và bắt đầu Bắc thuộc, sự ḥa
huyết gia tăng giữa hai tộc Hán
Việt, tạo ra một tầng lớp trung
lưu lai Hán-Việt mà ḷng trung
thành của họ gắn liền với phương
Nam (Việt Nam) thay v́ phương
Bắc (Hoa Hán). Chính điều này,
chứ không phải chế độ mẫu hệ chi
cả (v́ xă hội mẫu hệ đă gần như
tuyệt chủng từ lâu), đă giúp bảo
tồn ḍng máu và bản sắc Việt.
- Vị trí địa lí: Khoảng cách đến
địa phận Lạc Việt tính từ trung
tâm của đế quốc Trung Hoa (vùng
đồng bằng Hoa Bắc), ở thời điểm
bị xâm lược, là rất xa. Điều đó
khiến chính quyền Trung Hoa khó
khống chế được hoàn toàn khu vực
này. Hiện tại th́ những khu tự
trị dân tộc ở Trung Quốc chính
là minh chứng cho điều này:
chúng quá xa hoặc quá hẻo lánh
để có thể thiết lập sự thống trị
của Hán tộc. Khoảng cách địa lí
giữa một thuộc địa bị đô hộ tính
từ trung ương đế quốc tạo cơ hội
để dân bản địa được hưởng quyền
tự trị với nhiều mức độ. Mặc dù
về sau người Hán đă đến đông đảo,
nhưng những người Hán di cư dần
gắn bó với vùng đất mới đến hơn
là nơi họ ra đi, phần nhiều v́
giữa hai vùng quá xa xôi. Chính
khoảng cách này đă tạo ra một
khoảng cách mà chính quyền đế
quốc đă không thể nào khỏa lấp,
tạo điều kiện để khu vực Lạc
Việt phát triển một ư thức độc
lập so với chính quốc.
- Bản sắc văn hóa: Nói là bản
sắc th́ hơi xa vời, nhưng không
thể phủ nhận một bản sắc về phạm
trù văn hóa: lịch sử, ngôn ngữ,
nghệ thuật, triết học, tôn giáo,
phong tục-tập quán v.v đă tách
rời Việt tộc khỏi Hán tộc. Sự
tồn tại và duy tŕ của Việt ngữ,
thứ ngôn ngữ đă được người Việt
ǵn giữ suốt hàng thế kỉ, là một
phần của bản sắc đó. Tiếp đó kể
đến nghệ thuật: những loại h́nh
nghệ thuật bản địa của người
Việt như hát tuồng, chèo, múa
rối, tranh dân gian, thơ lục bát,
những lễ hội địa phương v.v đă
được phối quyện với văn hóa
phương Bắc để tạo thành một nét
văn hóa đặc sắc. Về tôn giáo, sự
tồn tại và phát triển mạnh mẽ
của Phật giáo trong suốt 400 đầu
của thời ḱ tự chủ đă thêm thắt
vào bản sắc đó một nét đặc trưng
khác. Không dám nói điều này đủ
để kéo giăn khoảng cách về ư
thức tâm tưởng giữa hai dân tộc,
nhưng sự tự nhận thức về nét
khác biệt kể trên trong suốt
1,000 năm đă tạo một đặc trưng
văn hóa giúp h́nh thành một dân
tộc Việt hiện đại, cùng với dân
tộc Hàn, Nhật, thoát khỏi ṿng
cương tỏa của dân tộc Hán.
Bài của Chưa Đặt Tên
Post ngày:
10/19/17