Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
TRẦU  CAU QUA THI  CA
 
                                                                              Nguyễn Quư Đại  
 
                                   
 
Duyên anh sánh với t́nh anh tuyệt vời
Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh
 
 
 Ngày xưa người Việt thường có thói quen ăn trầu trở thành phong tục, chuyện thần thoại Trầu Cau ( truyền tụng qua dân gian nêu lư do tại sao có tục ăn trầu. Thời đó đàn ông hay đàn bà thường có mang theo túi trầu, trong nhà có giỏ trầu cau, b́nh vôi bằng sứ hay bằng sành, con dao nhỏ để bổ cau, rọc trầu, cái khay gỗ h́nh vuông cẩn ốc xa cừ để diă trầu mời khách.
 
Qua thi ca trầu cau liên quan đến t́nh duyên, về hôn nhân đôi khi không đ̣i hỏi mâm cao cổ đầy, bạc vàng châu báu, nhưng tuyệt đối phải có trầu cau, các vùng thôn quê đôi khi hai gia đ́nh nhận lễ vật trầu cau, chai rượu trở thành suôi gia. Mặc dù ngày nay, con người đă tiến xa hơn trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xă hội - văn hóa, nhưng đây là một phong tục đẹp, thể hiện bản sắc riêng, lưu lại mỹ tục đó, trầu cau làm sính lễ tăng thêm phần long trọng, nhà gái nhận lễ vật tặng bà con, hàng xóm gói trà, cái bánh, trái cau lá trầu, dù ít người c̣n ăn trầu chẳng ai từ chối.
 
            Tuy nhiên đời sống tại Việt Nam các vùng quê ít người lớn tuổi c̣n ăn trầu có hàm răng đen. Các quốc gia Âu Châu không trồng trầu cau, như Việt nam và các nước Tích Lan, Lào, Cambodia, Thái Lan, c̣n tục ăn trầu và trồng trầu cau. Nguồn gốc cây cau dây trầu ở Mă lai, được ảnh hưởng nhiều người sinh sống vùng bán đảo Đông Nam Á. từ đó du nhập vào Việt Nam (2) Các nước Cambodia, Mă lai. Indonesia, Ấn độ c̣n ăn trầu. Tôi phỏng vấn một số sinh viên du học từ các nước trên, được biết ở vùng quê của họ c̣n tục lệ ăn trầu. Tích Lan (Sri lanka) ngày nay mọi nghi lễ đều dùng trầu; ngay cả việc dâng cau trầu lên cúng Phật  (3)
 
            Sự Tích Trầu Cau của Việt Nam có thể hoang đường? câu chuyện ấy dù sáng tạo nhưng khuyên người đời sống phải thủy chung, đạo đức gia đ́nh luôn được đề cao, phong tục thời xa xưa đàn bà dù không ăn trầu nhưng phải nhộm răng đen “bỏ công trang điểm má hồng răng đen “ Dù giàu hay nghèo tại thôn quê đều có trồng trầu cau. Qua ca dao hay các hội hè đ́nh đám, xướng họa nhiều đề tài về trầu cau, được các nhạc sĩ phổ thành những ca khúc bất hủ. Ca dao phản ảnh t́nh cảm, gia đ́nh và xă hội. Ḥa hợp giữa con người với thiên nhiên, thi ca phát xuất tận đáy ḷng đơn sơ, bóng bẩy, ấm áp như ánh nắng ban mai, mát mẽ như ngọn gió chiều dịu dàng như ánh trăng non.
 
            Trầu cau không phải thứ đắt tiền, dùng nó làm lễ vật hôn nhân như là giao ước giữa hai họ. Trong vườn miền quê thường trồng cau ngay hàng thẳng lối, thân cây cau có dây trầu leo quanh. Từ Saigon theo quốc lộ 1 về phía Tây Bắc khoảng 10km, qua cầu Tham Lương, rẽ trái một đoạn vào tỉnh lộ 14 là đến địa danh 18 Thôn Vườn Trầu gọi là (Thập Bát Lưu Viên)  (Hóc Môn Bà Điểm)
 
                                            
           
                                    Em về, anh  gởi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy
           
Lịch sử ghi lại vua Lê Đại Hành ngồi trên ḿnh ngựa mời sứ giả nhà Tống cùng ăn trầu, đó cũng là nghi lễ ngoại giao.Trầu cau giúp cho nhiều người nên vợ chồng. Ngày xưa quan niệm hôn nhân cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Cha mẹ hai bên quyết định rồi con cái không thể căi lại. Chàng yêu nàng tha thiết “t́nh trong như đă mặt ngoài c̣n e”  Cha mẹ nàng nhận lễ vật trầu cau qua lễ hưá hôn của người khác. Chàng trách em sao vội lấy chồng, để anh chờ đợi biết mặn nồng cùng ai ? Nhưng nàng nhẹ nhàng giải th́ch
 
Ba đồng một mớ trầu cây
Sao anh không hỏi những ngày c̣n không
Bây giờ em đă có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thưở nào ra
 
Tục lệ trao trầu cau là một trong những nghi lễ không thể bỏ qua trong việc biểu lộ t́nh yêu của thanh niên nam nữ . Đó cũng là một trong những lệ làng được quy định trước khi đôi trai gái tiến đến hôn nhân. Trầu cau làm sính lễ, người con gái băn khoăn muốn từ chối ngay từ lúc đầu trong lễ cầu hôn
 
Ai bưng cau trầu đến đó
Xin chịu khó mang về ,
Em đang theo chân thầy gót mẹ
Để cho trọn bề hiếu trung
 
 Miếng trầu là đầu câu chuyện, gặp nhau thường mời trầu, để dễ dàng gợi chuyện thăm hỏi 
           
                                    Tiện đây ăn miếng trầu
Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là ?
Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau th́ làm
 
            Nhưng người con gái khi đă yêu đôi lúc giấu cha giấu mẹ, têm trầu đưa cho bạn trai ngầm nói với bạn trai khi vào nhà, biết cách cư xử.
 
Miếng trầu có bốn chữ ṭng
Xin chàng cầm lấy vào trong thăm nhà
Nào là chào mẹ chào cha
Cậu cô chú bác... mời ra xơi trầu
 
Vườn  quê thơm mùi hoa của những buồng hoa cau đang nở rộ dưới nắng ấm miền quê  đôi trai tài gái sắc qua một lần gặp gỡ, để rồi nhớ rồi thương t́nh yêu chân thành thiết tha
 
Vào vườn hái qủa cau xanh
Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu
Trầu nầy têm những vôi tàu
Ở giửa đệm quế, đôi đầu thơm cay
Mời anh sơi miếng trầu này
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù mồng
Dù chẳng nên đạo vợ chồng
xơi năm ba miếng kẻo ḷng nhớ thương
 
khi bước vào tuổi trưởng thành, con trai, con gái được tự do trong t́nh yêu đôi lứa. Họ biết nhau rồi quen nhau nhờ các buổi làm nương rẫy hay những lần gặp nhau trong dịp lễ hội của làng, và miếng trầu đă làm môi giới cho t́nh yêu của họ để rồi hứa hẹn mơ ước tương lai tươi sáng, hay để rồi tuyệt vọng ngẩn ngơ
                         
Cho anh một miếng trầu vàng
Mai  sau  anh trả cho nàng đôi mâm
Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già
 
Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ké dây trầu một bên
Mai sau trăm họ lớn lên
Cau kia ra trái làm nên cửa nhà.
 
Tùy theo phong tục mỗi địa phương sính lễ thường khác nhau, tuy nhiên không thể thiếu được buồng cau, anh chàng kín đáo với nghệ thuật tán gái tinh tế hoặc với giọng bông lơn như chuyện nhờ khâu áo nhờ khâu hộ chỉ đường tà để khi nào lấy chồng sẽ trả công, người t́nh nguyện giúp từ lễ nghi cho đến việc ăn ở chiếu nằm, chăn đắp ..chàng không nói rơ mà người con gái đó thừa hiểu chú rể là chàng rồi     
 
Giúp em một thúng xôi ṿ
Một con lợn béo một ṿ rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăng em đắp đôi tằm em đeo.
Giúp em  quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau
 
            Nếu chẳng may t́nh duyên không thành mà t́nh cảm c̣n nguyên vẹn,  lời chàng cũng xót xa đưa
 
Nụ tầm xuân nở ra xinh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay
 
            Các bà mẹ thường răn dạy con gái lúc trưởng thành, phải có những đức tính : công-dung-ngôn-hạnh, không nên vội vàng lẫn lơ nhận trầu cau của người khác, luân lư gia đ́nh được xem là một nền tảng vững chắc 
 
Đi đâu cho đổ mồ hôi
Chiếu trăi không ngồi trầu để không ăn
Thưa rằng bác mẹ tôi răng
Làm thân con gái chớ ăn trầu người
 
            Có thể nàng từ chối miếng trầu, cũng có nghiă từ chối sự tiếp xúc để tiến đến t́nh yêu với thái độ dè dặt, kín đáo nghi kỵ
 
Sáng nay tôi đi hái dâu
Gặp  hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu
Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn.
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người
 
Trầu cau dù gói đẹp xanh tươi hấp dẫn, nhưng cần cẩn thận  khi ăn phải kín đáo mở ra xem có nhiều vôi hay bùa mê thuốc độc trong đó chăng ?
 
Ăn trầu th́ mở trầu ra
một là thuốc độc hai là mặn vôi
 
Miếng trầu ăn nặng bằng ch́
Ăn rồi em biết lấy ǵ đền ơn
Miếng trầu ăn chẳng là bao
Muốn cho đông liễu, tây đào là hơn
 
Người ghiện trầu đôi khi run tay dù đói no phải ăn một miếng trầu cau. Nhưng với t́nh yêu  mời nhau ăn trầu có những băn khoăn thương nhớ đợi chờ ? có khi lời nói th́ b́nh tĩnh nhưng không che giấu mối cảm t́nh nồng nhiệt đang như ch́m xuống để thấu tâm can nàng Miếng trầu như là một phương tiện mở đầu, là chất keo cố kết những t́nh cảm thiêng liêng, thầm kín mà cả đôi bên không thể nói bằng lời. Miếng trầu quả cau sẽ là "người mối" nói hộ t́nh yêu cho họ.
 
Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu
Trầu này têm những vôi tầu
Giữa thêm cái cánh hai đầu quế cay
(Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay)
Trầu này ăn thật là say
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng
Dù chẳng nên vợ nên chồng
Xơi dăm ba miếng kẻo ḷng nhớ thương
 
 
Trầu bọc khăn trắng cau tươi
Trầu bọc khăn trắng đăi người xinh xinh
Ăn cho nó thỏa tấm ḷng
Ăn nó thỏa sự ḿnh sự ta
 
 
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu
Một thương  hai nhớ , ba sầu
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.
 
Những giao tiếp giữa nam nữ thời phong kiến thường bị giới hạn, t́nh yêu trai gái tưởng như xa xôi rời rạc.. nhưng t́nh  yêu  chân thành và nồng nhiệt  tương tư
 
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ, quên cha
làm cho quên cửa, quên nhà
làm cho quên cả đường ra, lối vào
làm cho quên cá dưới áo
quên sông tắm mát, quên sao trên trời
 
 
Con gái xa gia đ́nh về nhà chồng làm dâu, ngày xưa thường va chạm sinh hoạt gia đ́nh « mẹ chồng nàng dâu », hay bị ép buộc lấy nhau để rồi đêm nằm cạnh chồng thở than cuộc t́nh
 
Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau khô ăn với trầu vàng xứng không ?
 
Người đời thường nói thương nhau bỏ chím làm mười, hay thương nhau trái ấu cũng tṛn, ghét nhau trái bù ḥn cũng méo, trái cau cũng được phân chia cho sự ghét thương 
  
                                    Thương nhau cau sáu bửa ba
Ghét nhau cau sáu bửa ra làm mười
 
Yêu nhau trầu vỏ cũng say
Ghét nhau cau đậu đầu khay chẳng màng
 
 
 
Các hội hè đ́nh đám trai tài gái sắc dùng đề tài trầu cau hát đối nhau hồn nhiên trong sáng, lời hát đối đáp ngọt ngào trong lễ giáo gia đ́nh không sàm sở, nhưng vượt qua ảnh hưởng lâu đời của nho giáo Nam nử thụ thụ bất thân   
 
                                    Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là nghiă cũ về sau mà chào
Miếng trầu đă nặng là bao
Muốn cho đông liễu tây đào là hơn!
Miếng trầu kể hết nguồn cơn
Muốn cho đây đăy duyên nào hợp duyên
Hay là
                                    Trầu nầy trầu quế, trầu hầu
Trầu loan trầu phượng, trầu tôi lấy ḿnh
Trầu nầy, trầu nghiă, trầu ḿnh lấy nhau
Trầu nầy têm tối hôm qua
Giấu cha giấu mẹ đem ra cho chàng
Trầu nầy không phải trầu hàng
Không bùa không thuốc sao chàng không ăn
Hay là chê khó chê khăn
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.
 
 
Nữ sỉ Hồ Xuân Hương lận đận t́nh duyên, đời sống t́nh cảm kém may mắn, làm cho bà nghi ngờ màu xanh của lá trầu, màu trắng của vôi (lạt như ốc bạc như vôi)   
 
                                    Qủa cau nho nhỏ miếng trầu ôi
Này của Xuân Hương đă quẹt vôi
Có phải duyên nhau th́ thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi
 
Tiếng hát ru con của mẹ hiền, đề cập đến trầu cau nhu cầu không thể thiếu trong những lần đi chợ,
 
                                    Ru con con thét cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam phổ mua trầu chợ Dinh
(Tùy theo mổi điạ phương có thể thay đổi tên chợ )
 
Các cụ bà nhai trầu khó khăn, nên dùng cối đá nhỏ giả trầu, hay cái ống xoáy bằng đồng, có chià dài phần dưới 3 cái răng nhỏ, bỏ trầu cau vào đó xoáy nhỏ. Ăn trầu cũng có nghệ thuật, chọn lựa cau tươi vỏ mỏng ruột nhiều, trầu tươi kèm theo quế hay vỏ của loại cây chay, ăn kèm với cục thuốc lá nhỏ vôi phải màu hồng.. Trần Tú Xương thi hỏng măi, bất măn với đời nghe người ta chúc tết sống lâu hưởng phước lộc cho đến đầu bạc răng long .Làm thơ trào phúng
 
                                    Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu ra
Phen nầy ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giả trầu
 
            Ngày xưa đàn ông hay đàn bà thường bới tóc, họ quan niệm “cái răng cái tóc là vóc con người”, thời ấy hàm răng đen như huyền th́ sang trọng quư phái. Nhưng vào thế kỷ thứ 19 .Văn hóa Tây phương du nhập vào Việt nam, đời sống văn minh thay đổi. Phong trào Duy Tân phát xuất từ Quảng nam (1905-1908) khởi đầu cuộc cách mạng khai trí dân sinh đă phá các hủ tục, kêu gọi đàn ông hớt tóc ngắn, cắt móng tay dài lá răm, mặc âu phục…..Mỹ phẩn nhập vào Việt Nam như son, phấn dầu thơm..giúp đàn bà trang đ́ểm cho nét đẹp, sống ở thành phố phần nhiều bỏ hẳn tục nhộm răng đen ăn trầu.. Bởi vậy khuynh hướng thay đổi qua thi ca
 
                                    Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen
 
           
Đời sống thay đổi đàn ông ít mặc áo dài khăn đóng, hay khăn nhiễu bịt đầu được thay thế bộ Âu phục gọn gàn, khăn điều vắt vai đôi guốc gổ từ từ biến mất thay vào đó đôi giày da, thêm chiếc cà vạt xinh đẹp. Hàm răng của các nàng trắng đẹp như hạt bắp, môi son đỏ tươi nở nụ cười đẹp như hoa . Làm cho các chàng say đắm nên hỏi nàng rằng
 
                                    Người  về có nhớ ta chăng ?
Ta về ta nhớ hàm răng người cười
 
            Ca dao được ca tụng qua dân gian, hiện hữu trong đời sống của người dân Việt. Chúng ta rời quê hương, khó t́m được lại kỷ niệm như những ngày sống tại quê nhà trong những buổi trưa hè, đêm trăng thanh gió mát mùi hương cau từ những buồng non mới nứt thơm ngát, nghe tiếng hát ru con của mẹ hiền với những câu ca dao quen thuộc len lỏi vào hồn.
 
 Nguyễn Quư Đại
                                                                         Munich Germany 
 
 
1/ lượt truyện Trầu Cau theo Lĩnh nam chích quái ghi rằng:
 
ngày xưa gia đ́nh họ CAO sinh đôi  được hai người con trai đặc tên là Tân và Lang được gia đ́nh gởi theo học người thầy giáo họ LƯU.
Nhà người thầy có một người con gái xinh đẹp gọi là Liên, Nàng thấy hai chàng đẹp trai chăm học đêm ḷng yêu mến. và muốn lập gia đ́nh với người anh, nhưng không thể phận biệt được v́ hai người giống nhau..Một hôm Liên đem bát cháo và đôi đủa ra mời hai người, để thử xem ai là anh. Lang mời Tân ăn trước.( người em nhường cho anh. Liên nhận ra người anh nên xin thân phụ kết hôn với Tân)
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng người em là Lang cảm thấy buồn v́ t́nh anh em bị san sẽ với Lang  phần nào khi người anh lập gia đ́nh sống riêng với hạnh phúc. Lang âm thầm bỏ nhà đi về quê. Đi măi , Lang gặp một ḍng suối lớn chận ngang phía trước. Lang ngồi buồn bên bờ suối khóc cho đến chết, rồi hóa ra một cây CAU. Tân thấy vắng em qúa lâu lên đường đi t́m em. Đến bên bờ suối thấy xác em, Tân thương em, và nghĩ rằng v́ ḿnh xảy ra việc nầy nên liền đập đầu vào cây CAU để chết hóa thành Tảng Đá vôi, người vợ thấy chồng đi t́m em không trỡ về. lại đi t́m chồng gặp xác chồng bên bờ suối cạnh cây CAU , Liên vật ḿnh vào tảng đá từ trần rồi hóa thành Dây trầu , bám vào Tảng đá leo lên Cây cau.
Thân phụ của bà Liên xúc động trước t́nh cảm thiên liêng, cho lập miếu thờ ba người đă ra đi trong T́nh yêu và Đạo nghiă làm người. Măi cho đến một hôm vua Hùng Vương di qua xứ đó, ngồi bên bờ suối , thấy cây xanh lá mọc  bên Tảng đá bu quanh cây .Liền hỏi người điạ phương biết được sự tích. sai người bổ qủa cau ,lấy một miếng nhai với trầu, và nhổ nước hổn hợp trầu cau lên tảng đá, bổng nhiên tảng đá vội có màu đỏ. Vua truyền mọi người lấy giống về trồng để dùng từ đó nước ta có tục ăn trầu
 
 2/ Trần gia Phụng sđd Quảng nam trong lịch sử trang 21 .trích theo tài liệu trong mục Betelnut. Encyclopaedia Britannica q.3 trang 551 USA 1972
 3/  Giữa chốn cung vàng của Thích Như Điển  trang 169

 Mời xem Giai Thoại Trầu Cau:

Năm bà Đoàn Thị Điểm 25 tuổi (1730) th́ thân phụ mất ở nơi dạy học. Bà cùng mẹ và anh đưa linh cữu về quê mai táng, rồi từ đó ba mẹ con lại tới ngụ cư ở làng Vô Ngại, huyện Đường Hào (Mỹ Hào) tỉnh Hưng Yên.

Bấy giờ bà Điểm thường thay anh trong việc tiếp các tân khách. Bà vốn là cô gái tài sắc, lại giỏi về khoa giao tế, nên tiếng tăm bà lừng lẫy khắp nơi. Người ta đồn rằng: khi bà Điểm giúp anh tiếp khách tuy “dâng rau muối mà hơn cả trân tu”. Do đó, khách đến thăm anh bà đă nhiều, mà những khách “phong lưu công tử” đến để ḍm ngó bà cũng lắm.

Khi ấy có hoàng giáp Vũ Diệm, người làng Thổ Vượng (Hà Tĩnh) với các bạn là tiến sĩ Nhữ Đ́nh Toản ở xă Hoàng Trạch (Hải Dương) và tiến sĩ Nguyễn Công Thái ở làng Kim Lũ (Hà Đông) cùng kéo nhau đến nhà bà Điểm. Các “thầy giám” được bà Điểm tiếp đăi rất lịch sự, bà cho người bưng khay trầu ra mời, trên khay có để một bức hoa tiên viết một câu đối:

Đ́nh tiền thiếu nữ khuyến tân lang

Hai chữ thiếu nữ ở đây có hai nghĩa: “gió nhẹ” hoặc “cô gái”. Hai chữ tân lang là “cây cau” th́ đồng âm với hai chữ tân lang là “chàng rể”. Bởi vậy vế đối cũng có thể hiểu theo hai nghĩa.

Một là: Trước sân gió thoảng phất cây cau.

Hai là: Trước sân cô gái mời chàng rể.

Các thầy đọc xong vế đối, rồi sáu mắt ngó nhau, chẳng ai đối lại được. Thế là trầu cũng chẳng kịp ăn, ư định cḥng ghẹo cũng tiêu tan hết, các thầy đành nhă nhặn gửi lời chào bà chủ rồi vội vă rút lui...

 

Một Góc cạnh khác của 18 Thôn Vườn Trầu:

 

Một thuở làng Hương

Phóng sự của Hoàng Tùng

---o0o---

  

Nhắc đến Hóc Môn - Bà Điểm, người ta dễ nhớ đến cái tên Mười tám thôn vườn trầu. Dễ mấy ai biết, nơi đây c̣n là xuất xứ của nghề trồng lài, điểm cung cấp hương liệu ướp trà gần như cho cả miền Nam.

NHỮNG NHÁNH LÀI ĐẦU TIÊN

VỀ HÓC MÔN

... Ở An Phú Đông (Hóc Môn), người ta gọi ông Huỳnh Văn Đặng (Ba Đặng) là ông tổ trồng lài. Ông năm nay đă 78 tuổi và đă gần 70 năm trong nghề trồng lài. Câu chuyện về nguồn gốc  cây lài ở Hóc Môn theo vào tâm trí tôi cùng với hương lài thắm đượm trong vị trà ngọt, giữa những ngày thu hoạch lài đang rộ của năm 2001.

Niềm đam mê lài của ông bắt đầu từ những năm 1938-1939. Trong một dịp rất t́nh cờ, những khóm lài giống đầu tiên lọt vào tay ông từ một người bà con làm thuê cho chủ vườn hoa G̣ Vấp. Ôạng mang về Hóc Môn ươm được 30 cây. Lài gặp đất tốt, phát triển nhanh, vài tháng sau ra hoa, thơm vô cùng.

Lúc đó, ông chỉ nghĩ trồng chơi, ngờ đâu có người biết lại hỏi mua 20 cây, trả mỗi cây một “cắc” (một cắc thời đó mua được 5 tô ḿ bây giờ, ông cụ giải thích). Biết người ta cần lài để nhân giống, trồng hái hoa bán cho các tiệm trà, ông nhân giống thành 300 cây nữa.

Được hơn năm, lài ra bụi, ra hoa. Ngày nào ông cũng hái bán cho tiệm trà Hiệp Mậu gần chợ Xóm Củi. Mà ngày đó, ra Chợ Lớn khó lắm, chỉ có đường đi bằng xe lửa, cách một hai tiếng có một chuyến. Những ngày Nhật ném bom, xe lửa không hoạt động, ông cũng vẫn một ḿnh đi bộ mang lài bán.

Thấy ông làm được, cả gia đ́nh làm theo. Thậm chí có ông người Tàu ở Chợ Lớn tên là Tàu Hủ cũng đến t́m ông Ba Đặng mua giống để trồng... Cứ thế lâu dần, cả một làng An Phú Đông, lan sang đến Thạnh Lộc, Thạnh Xuân thành những làng hoa lài.

MẢNH ĐẤT LÀNH

CHO HOA LÀI NỞ

“Đất xứ này thích hợp với cây lài”, ngồi bên ly trà thơm ngát hương lài, cụ Ba Đặng tự hào: “Lài ra bông, trắng và thơm ngát. Đành rằng ở Bến Tre, Long An, hoặc gần như B́nh Dương, Củ Chi cũng có trồng, nhưng bông không thể tốt và thơm được như bông ở đây. Năm trước, có một phái đoàn người Pháp qua nghiên cứu về lài. Đến đây, họ cũng mê nhất loại lài này, bởi hương thơm của nó. Ḿnh ở đây chỉ biết cân kư hoa lài, chứ nghe nói bên Pháp, một kư lài chiết xuất được 10cc tinh dầu, giá trị thị trường là hơn 200 USD”.

Thật vậy, loại đất pha sét đen ở Hóc Môn (nay là quận 12) đă thành nơi trú chân lư tưởng cho cây lài. Lài mọc dễ dàng đến nỗi, lúc nó được giá, nhà nào cũng trồng. Khi mất giá, người ta lại bỏ đi.

Trồng lài mau thu hoạch. Nếu cây trà phải ba năm mới bắt đầu thu hoạch th́ trồng lài chỉ sáu tháng đă có huê lợi. Và cứ thế, một năm 365 ngày, chỉ trừ ba ngày Tết là nghỉ, ngày nào chủ nhân của vườn lài cũng được gặt hái thành quả của ḿnh. Lài trổ hoa mỗi ngày mà! Khi lài đă ra bụi không cần phải chăm sóc  nhiều nữa. Chỉ khi nắng lắm mới cần tưới, một ngày sáng chiều hai lần là đủ. Như lời của cụ Ba Đặng: “Nghề trồng lài, nói cực th́ cũng chẳng cực... chỉ phải cái dăi nắng dầm mưa. Nắng mưa ǵ cũng phải hái lài, sợ bông nở. Khi lài c̣n nhỏ, chăm sóc như con mọn. C̣n khi lài lớn, đâu cần chăm nhiều. Cây lài sống tới 20 năm, chỉ trừ khi bị úng lâu ngày lắm mới thối rễ mà chết”.

Lài ra bông quanh năm, nhưng rộ nhất là mùa nắng nóng, đó là đặc tính của cây lài. Cây lài không chịu được lạnh, chỉ ưa nóng. V́ vậy, Đà Lạt, Lâm Đồng tuy trồng trà rất tốt, nhưng lại không thể trồng lài. Cây lài trồng ở Đà Lạt lên xanh tốt nhưng quanh năm xanh ŕ, thỉnh thoảng mới điểm được vài nụ. Gần như toàn bộ trà Lâm Đồng cùng ướp bằng nụ lài của Hóc Môn.

NHỮNG NGƯỜI

LÀM HƯƠNG CHO LÀI

H́nh như cứ nói đến hoa là có bóng dáng phụ nữ. Trồng lài cũng là công việc của phụ nữ. Công cán hái lài ở xă An Phú Đông, Thạnh Lộc, Thạnh Xuân hiếm khi gặp một người đàn ông trong vườn lài. Chỉ thấy những chiếc nón lá, áo sơ mi dài tay che nắng, và những ngón tay thoăn thoắt hái nụ hoa lài.

Công cụ lao động cũng thật đơn giản, chỉ cần một cái giỏ đeo ngang hông đựng nụ vừa hái. Người giỏi, một ngày hái 7,8 kư. Có người là chủ nhân của vườn, có người rảnh việc nhà, đi làm thêm. “Một kư lài hái được, nhà vườn trả công em năm ngàn”. Một cô gái cho biết.

Sáng sớm mà chị Diệp Thị Huệ, một người trồng lài nổi tiếng trong xă đă lui cui trong vườn ươm của ḿnh. Chị vừa trồng lài vừa chiết cây con bán, lại vừa thương lái mua bán với các tiệm trà ở Chợ Lớn, các công ty chế biến trà. Căn nhà khang trang nằm giữa vườn lài rộng lớn. Chị đang cho đất vào các túi ni lông con, chuẩn bị ươm giống. Chị tận t́nh kể từng công đoạn ươm lài: nào là trộn đất, phân, trấu để vô bịch, cắt các “con lươn” (nhánh nhỏ) găm bịch ươm cây ra sao... Để một tháng rưỡi trong mát, thêm tháng rưỡi ra ngoài trời cho cây con cứng cáp, tổng cộng ba tháng. Sau đó bán lại cho các nhà vườn. Nhà vườn mang về “bấu lỗ”(đào rác hố) xé bịch trồng lài xuống đất v.v...

“Một cây con bán một ngh́n đồng. Năm rồi lài được giá. Lúc thời điểm cao, trước Tết, lài lên tới 60 ngàn đồng một kư. Sau Tết, mọi năm chỉ c̣n mười, mười mấy ngàn mà năm nay vẫn được tới bốn chục... V́ thế, dân ở đây rủ nhau trồng lài đại trà. Những nhà trồng lài lâu năm ở đây vừa rồi bán hàng triệu cây con”.

Năm nay chị Huệ đă 44 tuổi, 44 năm sống với cây lài. Khi sinh ra, nhà chị đă có nghề trồng lài gia truyền. Mỗi năm, thu nhập của gia đ́nh chị nhờ cây lài lên đến 100 triệu đồng.

MANG HƯƠNG CHO ĐỜI

Đi khắp xă, những gia đ́nh trồng lài lâu năm đều là những nhà khá giả: nhà tường khang trang, rộng răi, tiện nghi đầy đủ. Có nhà c̣n có xe hơi đời mới. Một ông cụ trồng lài ngồi nghe chuyện bên bàn trà cũng trầm ngâm nhớ đến thuở vàng son của lài: “Có một thời, giá lài đắt như vàng. Nhà vườn hái lài đếm nụ để bán. Vào thời điểm đó (khoảng năm 1982,1983) vàng bốn ngàn đồng một chỉ mà lài là ba ngàn một kư. Những nhà vườn có nghề lâu năm như bà Bích, Tám Cu, Chín Chè, Năm Lư... nhờ đó mà phát luôn.

Chị Huệ tâm sự: “Bông lài chỉ dùng trong công nghiệp ướp trà. Lài lại ra bông nhiều, trái mùa với trà. Mùa lạnh là khi trà trổ lá non, thu hoạch, khi ấy lại hiếm bông. Mùa nóng, lài ra bông nhiều, một ngày ở vùng này thu hoạch tới 400-500kg bông lài...,  nhưng trà lại khô cây. V́ sự tỉ lệ nghịch ấy nên giá lài cứ trồi sụt thất thường. Vào thời điểm này trong năm, của ta đă bắt đầu xuất khẩu nhiều. Nhờ đó mà lài cũng được lên giá theo.

ĐỂ LÀI HÓC MÔN

TỎA HƯƠNG ĐI XA

Suốt một đời sống với cây lài, vui buồn, thương yêu cây lài, điều đau đáu nhất của cụ Ba Đặng là ở nước ḿnh chưa chiết xuất được tinh dầu lài.

Năm 1995, nghe nói dưới Cửu Long có phương pháp lấy tinh dầu lài, ông lặn lội xuống tận nơi thử, nhưng không được. Ôạng mang xuống 25 kư chiết được có một phần tinh dầu. Hiện giờ chỉ có Pháp là làm được...

Những buổi chiều, những đêm trăng, các cặp t́nh nhân thường đưa nhau tới đây, t́nh tự bên các vườn lài, vườn ngâu. Những cuộc t́nh mang theo vào kư ức mùi hương ngâu, hương lài. Và v́ vậy, biết bao cặp đă gọi làng thành cái tên “làng Hương”. Thơm quá, mùi thơm nhè nhẹ cứ d́u dịu trong gió. Đi đến đâu, ngoài đường hay trong nhà cũng thoang thoảng hương thơm. Mùi hương thật quyến rũ...

 


___________

Source : Báo Giác Ngộ, số đặc biệt,  Xuân Nhâm Ngọ - 2002

Xem thêm bài Tục Ăn Trầu

Sự tích Trầu Cau (Trích Du Ca)

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17