NHỮNG TRÒ CHƠI DÂN
GIAN
Nhún
đu (Đánh đu)
Trong các ngày hội, các làng thôn thường trồng một vài cây đu ở giữa thửa
ruộng gần đình để trai gái lên đu với nhau.
Cây đu được trồng bởi bốn, sáu hay tám cây tre dài vững chắc để chịu đựng
được sức nặng của hai người cùng với lực đẩy quán tính. Hai cây tre làm cần đu
nhỏ vừa tay cầm.
Lên đu có thể là một hay hai người. Càng nhún mạnh, đu càng lên cao, cần
đu đưa lên vun vút, bên nọ sang bên kia. Cần đu lên ngang với ngọn đu là hay
nhất, nhiều khi đu bay ngang ngọn đu một vòng. Nhiều nơi treo giải thưởng ở
ngang ngọn đu để người đu giật giải.
Nhún đu cũng là một sinh hoạt giao đãi tình cảm của trai gái.
Kéo
co
Tục kéo co ở mỗi nơi có những lối chơi khác nhau, nhưng bao giờ số người
chơi cũng chia làm hai phe, mỗi phe cùng dùng sức mạnh để kéo cho được bên kia
ngã về phía mình. Có khi cả hai bên đều là nam, có khi bên nam, bên nữ. Trong
trường hợp bên nam bên nữ, dân làng thường chọn những trai gái chưa vợ chưa
chồng.
Một cột trụ để ở giữa sân chơi, có dây thừng buộc dài hay dây song, dây
tre hoặc cây tre, thường dài khoảng 20m căng đều ra hai phía, hai bên xúm nhau
nắm lấy dây thừng để kéo. Một vị chức sắc hay bô lão cầm trịch ra hiệu lệnh. Hai
bên ra sức kéo, sao cho cột trụ kéo về bên mình là thắng. Bên ngoài dân làng cổ
vũ hai bên bằng tiếng "dô ta", "cố lên".
Có nơi người ta lấy tay người, sức người trực tiếp kéo co. Hai người đứng
đầu hai bên nắm lấy tay nhau, còn các người sau ôm bụng người trước mà kéo. Ðang
giữa cuộc, một người bên nào bị đứt dây là thua bên kia. Kéo co cũng kéo ba keo,
bên nào thắng liền ba keo là bên ấy được.
Ðánh roi múa
mộc
Roi bằng tre vót nhẵn và dẻo, đầu bịt vải đỏ, còn mộc đan bằng tre sơn
đỏ. Các đấu thủ đấu tay đôi với nhau: vừa dùng roi để đánh, dùng mộc để đỡ, ai
đánh trúng địch thủ vào chỗ hiểm và đánh trúng nhiều thì thắng, thường đánh
trúng vào vai và sườn mới được nhiều điểm.
Các hội lễ ở miền Bắc thường được tổ chức thi đấu vào những ngày đầu
tháng giêng.
Ném
cầu (Đá Cầu)
Xã Phú Sơn, Hà Tĩnh cử hành hội mùa xuân tại chùa xã ngày 14 và ngày rằm
tháng giêng. Khi trong chùa đang lễ Phật, ngoài sân trai chưa vợ, gái chưa chồng
tụ họp nhau dự trò chơi ném cầu để "bói" hôn nhân. Hai quả cầu dùng để ném vào
lồng tre là hai quả chanh ngoài có lớp vỏ bện bằng mây bọc quanh: sơn màu xanh
gọi là âm cầu và sơn màu đỏ trắng gọi là dương cầu. Trai và gái chia làm hai
bên, mỗi bên có người cầm đầu. Hai bên hẹn ước với nhau rằng: "Trong hai nhóm
chúng ta, hễ ai đã kết hôn mà ném được quả cầu vào trong lồng thì chỉ được
thưởng; còn cặp nào chưa kết hôn mà ném trúng thì không những được thưởng mà còn
hẹn sẽ cưới nhau. Nếu ai sai lời sẽ có Phật trời chứng giám". Giao hẹn xong, mấy
cặp bắt đầu trò chơi. Trước khi ném cầu, trai gai lần lượt hát:
Cầu này là
cầu thiên duyên Ðôi ta mà trúng, kết nguyền cùng nhau
Trò vui kéo dài từ sáng đến chiều. Tuy là trò chơi nhưng mỗi lần một cặp
trai gái có tình ý mà cùng ném trúng đều hứa hôn với nhau
Tập tầm
vông
Bài đồng dao này phổ biến khắp Bắc, Trung, Nam nhại theo âm
trống tầm vông / tâm vinh (gọi theo Nghệ An) tức trống cơm:
Tập tầm
vông Chị có chồng Em ở vá Chị ăn cá, Em mút
xương.
........................ |
Chị ăn kẹo, Em
ăn cốm Chị ở Lò Gốm, Em ở Bến Thành. Chị trồng hành, Em trồng
hẹ. Chi nuôi mẹ Em nuôi
cha |
Cách chơi hiện nay của trò này là hai nguời chơi ngồi đối mặt
nhau, vừa hát vừa theo nhịp đập lòng bàn tay vào nhau: hoặc đập thẳng, hoặc đập
chéo, hoặc một cao một hạ thấp, hoặc kết hoẹp nhiều cách khác nhau. Nói chung,
cách chơi rất giống trò Thìa la thìa lảy đây.
Nu na nu nống
Nu na nu
nống Cái cóng nằm trong Cái ong nằm ngoài Củ khoai chấm mật Bụt ngồi
bụt khóc |
Con cóc nhảy
ra Ông già ú ụ Bà mụ thổi xôi Nhà tôi nấu chè Tè he chân
rụt |
Ðám trẻ ngồi thành hàng ngang, duỗi hai chân ra trước. Một đứa
ngồi đối diện, lấy tay đập vào từng bàn chan theo nhịp từng từ một của bài hát
trên. Dứt bài, từ "rụt" đúng vào chân em nào thì phải rụt nhanh. Nếu bị tay của
cái đập vào chân thì em đó thua cuộc: ra làm cái ván chơi kế tiếp, hoặc chịu
hình phạt (nhảy lò cò một vòng, trồng chuối...) hay phải đứng ra làm cái cho một
trò chơi khác (bịt mắt bắt dê, ú tìm, cá sấu lên bờ...)
Tùm nụ, tùm nịu
Tùm nụ, tùm
nịu Tay tí, tay tiên Ðồng tiền, chiếc đũa Hột lúa ba bông ăn trộm,
ăn cắp trứng gà Bù xa, bù xít |
Con rắn, con rít
trên trời Ai mời mày xuống? Bỏ ruộng ai coi? Bỏ voi ai giữ? Bỏ chữ
ai đọc ................. |
Ðánh trống nhà
rông Tay nào có? Tay nào không? Hổng ông thì bà Trái mít
rụng ................... |
Căn cứ vào hai câu "Tay nào có? Tay nào không?", đây là một
trò đố: nắm một vật vào đó trong một tay và chìa hai nắm tay. Mở tay ra: đúng
sai, có không....biết liền
Thả đỉa ba
ba
Trò chơi thể hiện việc qua sông, qua bưng, ruộng...ngập nước.
ở dưới nước có đỉa. Cả nhóm làm sao xuống nước mà đỉa không bắt chước. Trước
hết vẽ hai đường song song cách nhau độ 2m (hay qui định khoảng trống nào đó)
giả định là sông nước. Một em ra giữa vòng vừa hát vừa lấy tay ra đập nhịp vào
vai các bạn:
Thả đỉa / ba
ba Chớ bắt / đàn bà Tha tội / đàn ông Cơm trắng / gạo trắng Gạo
thuyền như nước |
Ðổ mắm
/ đổ muối Ðổ chuối / hạt tiêu Ðổ niêu / nước chè Ðổ phải nhà nào Nhà
ấy.... chịu |
Từ "chịu" trúng em nào thì em ấy xuống sông làm "đỉa". Bọn trẻ
đứa chạy đầu này, đứa băng qua sông góc nọ. "Ðỉa" rượt để bắt. Bọn trẻ lại hát
bài hát ghẹo Sang sông / về sông / trồng cây / ăn quả / nhả hạt. "Ðỉa" rượt
bên này thì bên kia xuống sông. "Ðỉa" quay lại bên kia thì lũ bên nọ lại réo
lên: "ăn quả / nhả hạt" rồi ào xuống. Chẳng may ai bị "đỉa" vớ phải thì trở
thành "đỉa".
Thìa la thìa
lảy
Là trò chơi luyện tập sự nhịp nhàng. Giống như trò tập tầm
vông, song bài ca lại là bài vè Con gái hư - chê tật xấu của các cô gái lười:
Thìa la thìa
lảy, Con gái bảy "tài" Ngồi lê là một, Dựa cột là hai. Thày lay là
ba |
ăn quả là
bốn Trốn việc là năm Hay nằm là sáu Láu táu là
bảy ............... |
TRÒ CHƠI CON TRẺ
Đánh chuyền (Đánh Đũa):
Trò
chơi của con gái. Số người chơi 2-5 người. Đồ chơi gồm có 10 que nhỏ và một quả
tròn nặng (quả cà). Cầm quả cà ở tay phải tung lên không trung và nhặt từng que.
Lặp lại cho đến khi quả cà rơi xuống đất là mất lượt. Chơi từ bàn 1 (lấy một que
một lần tung cà) bàn 2 (lấy hai que một lần) cho đến 10, vừa nhặt quả chuyền vừa
hát những câu thơ phù hợp với từng bàn. Một mốt, một mai, con trai, con hến,…
Đôi tôi, đôi chị… Ba lá đa, ba lá đề v.v. Hết bàn mười thì chuyền bằng hai
tay: chuyền một vòng, hai vòng hoặc ba vòng và hát: “Đầu quạ, quá giang, sang
sông, trồng cây, ăn quả, nhả hột…” khoảng 10 lần là hết một bàn chuyền, đi
liền mấy ván sau và tính điểm được thua theo ván.
Đánh khăng (Đánh Căng):
Một trò
chơi của trẻ nhỏ. Hai bên đứng đối diện nhau. Một người cầm hai đoạn tre, một
ngắn một dài. Đào một hố nhỏ, dài dưới đất, đặt đoạn tre ngắn lên miệng hố, lấy
thanh tre dài hất đoạn tre ngắn lên cao đánh thật mạnh văng ra xa. Nếu người
đứng đối diện bắt được thanh tre, người đó sẽ được vào chơi thay.
Đánh quay
(Chơi Vụ):
Trò chơi
của trẻ nhỏ. Đồ chơi là con quay bằng gỗ hay sừng hình nón cụt, có chân bằng sắt.
Dùng một sợi dây, quấn từ dưới lên trên rồi cầm một đầu dây thả thật mạnh cho
quay tít. Con quay của ai quay lâu nhất, người đó được. Có thể dùng một con quay
khác bổ vào con quay đang quay mà nó vẫn quay thì người chủ của con quay đó được
nhất.
Đánh Đáo
Nhong Nhong Cưỡi Ngựa "Bình Kho"
(Kính tặng các ông đã từng làm mưa làm gió trong làng đáo)
Ai đã sống quãng đời từ sáu, bảy, đến mười hai, mười ba tuổi, trên dải đất
Việt Nam, từ Bắc vào Nam, chắc đều biết vài ba kiểu đáo.
Ðáo là trò chơi của con trai. Con gái thì nhảy giây, đánh chuyền... Còn gì
vui nhộn cho bằng một sân trường trong giờ ra chơi. Dưới bóng mát của cây
bàng, cây sấu hay cây phượng, cây me, chỗ này một nhóm đánh đáo, chỗ kia một
đám đá cầu, bắn bị Reo hò cứ như là mổ bò... Giờ chơi bao giờ cũng quá ngắn
ngủi. Lũ trẻ còn tiếc rẻ ván đáo dở dang, hẹn nhau hôm sau tiếp tục. Nếu hôm
sau là chủ nhật thì sao? " Eo ơi ! lâu thế thì làm sao đợi được? ". Phải hẹn
tới nhà nhau mà " đánh " tiếp chứ.
Trẻ con ham mê đánh đáo lắm... Chả cứ gì trẻ con, ngay cả người lớn cũng có
nhiều người mê tơi vì đáo ! "Ðáo" là cái trò gì mà quyến rũ như vậy? Muốn
biết là trò gì thì ta chỉ việc lật ... Mà thôi hãy khoan ... Chuyện chữ
nghĩa lát nữa hãy bàn...
Mời bạn đi xem đánh đáo kẻo muộn ((2).
Huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú, hàng năm tổ chức chơi "đáo đá" vào ngày mồng
6 tháng giêng, để chọn người làm chủ tế ở đình cho suốt năm. Những người
được làng cử ra chơi phải hội đủ mấy điều kiện: trên 50 tuổi, đông con cháu,
gia đình đạo đức, không tang chế.
Tại sân đình, người ta đào một cái hào. Ðào xong, chính ông lí trưởng tự tay
trồng hai cái cọc trong hào. Lúc chơi đáo, cứ hai cụ một ra chơi. Từ bờ hào,
mỗi cụ được dùng sáu viên đá để ném vào cọc của mình. Cụ nào ném trúng giữa
thân cọc, chỗ có dán tờ giấy điều là thắng cuộc, sẽ được làm chủ tế.
Làng Lũng Ngoại, tỉnh Vĩnh Yên chơi "đáo hú", gần giống đáo đá. Người chơi
vừa hú vừa ném viên đá sao cho trúng chân cọc. Mỗi người chỉ được ném một
viên đá.
Làng Vọng Nguyệt, tỉnh Bắc Ninh có tục tổ chức đánh "đáo lỗ" tại sân đình
vào ngày mồng 4 tháng giêng.
Tại mỗi đầu sân người ta đào 4 lỗ đủ rộng và sâu để có thể ném một viên gạch
vào. Làng chọn 8 người có chức sắc ra chơi đáo. Những người này mặc bộ quần
áo tế, chia làm hai phe, mỗi phe 4 người. Một hồi chiêng trống nổi lên báo
hiệu bắt đầu trò chơi. Mỗi người cầm một viên gạch nhắm ném vào lỗ của đối
phương. Ai ném trúng, được vào ngồi chiếu cỗ của làng. Ném không trúng thì
phải lấy tà áo bọc viên gạch, đem đến bỏ vào lỗ. Bỏ rồi, đến trước bàn thờ
thành hoàng làng khấn : "Con trót vụng về để thua ván đáo, vạn lạy ngài, xin
ngài xá tội cho con".
Nổi tiếng và bình dân nhất có lẽ là "đáo đĩa" được tổ chức tại Bắc Ninh và
Bắc Giang.
Người chơi đáo đứng ở vạch cấm, ném đồng tiền vào một chiếc đĩa đặt trong
một cái mẹt. Nếu đồng tiền nằm trong đĩa thì người chơi (nhà con) thắng giải.
Văng ra mẹt thì thua, người tổ chức (nhà cái) ăn đồng tiền ấy. Văng ra khỏi
mẹt, rơi xuống đất thì hòa, người chơi được lấy lại đồng tiền.
Ðáo đĩa khó hay dễ, tùy theo đĩa nhỏ hay lớn, vạch cấm xa hay gần. Giải
thưởng có thể bằng tiền hay gói trà tàu, hoặc vuông nhiễu điều.
Có nơi thay đổi cách chơi, biến đáo đĩa thành "đáo ô". Chiếc đĩa được thay
bằng chiếc khay kẻ ô. Mỗi ô được sơn màu trắng hay đen để phân biệt ô được,
ô thua. Người chơi đứng ở vạch cấm ném đồng tiền vào khay. Tiền nằm trong
khay thì theo màu ô mà định được thua. Tiền văng ra ngoài khay thì hòa.
Ðáo đĩa, đáo ô là hai trò chơi thường có ăn thua tiền bạc giữa nhà cái và
nhà con. Nếu chỉ muốn mua vui, thử thời vận đầu năm, hay chỉ muốn khoe tài
giữa bạn bè thì chơi "đáo cọc" của làng Lũng Ngoại, tỉnh Vĩnh Yên.
Người ta trồng một cái cọc ở một mé sân đình. Ðầu cọc cắm cờ ngũ sắc, vừa
đẹp vừa dễ thấy từ xa. Sáng mồng 3 Tết, ông tiên chỉ của làng làm lễ tại
đình, rồi ra ném viên đá đầu tiên, khai mạc cuộc chơi. Người chơi đáo đứng ở
vạch cấm, ném những viên đá tròn tới chân cọc. Viên đá của ai nằm gần chân
cọc nhất thì người đó thắng cuộc. Trò chơi càng hào hứng, vui nhộn mỗi khi
có ai nhắm đánh văng bật viên đá của người khác ra xa chân cọc!
Chơi đáo tại hội làng là thú vui của người lớn, đúng hơn là của các ông. "Phép
vua thua lệ làng". Lệ làng là như vậy ! Trẻ con chỉ được quyền chầu rìa, vỗ
tay. Nghĩ cũng tức thật ! Chẳng lẽ con cháu cứ đứng nhìn cha ông vui chơi?
Bỗng một ngày nào đó, trong đám trẻ nảy ra một bộ óc thông minh đầy sáng tạo,
dám nghĩ rằng " Lệ làng phải hàng ... luật trẻ". Bộ óc này đã cả gan cải
tiến, đổi mới những kiểu chơi của người lớn thành những trò tiêu khiển hoàn
toàn của trẻ con: đó là những lối đánh đáo ngoạn mục và hào hứng. Phổ biến
nhất phải kể hai món "đáo lỗ " và "đáo tường ".
Ðáo lỗ chơi chỗ nào cũng được, bao nhiêu người chơi cũng được, trừ ... chơi
một mình ! Chỉ cần khoét một cái lỗ dưới đất, to nhỏ, nông sâu tùy theo thỏa
thuận giữa người chơi. Muốn dễ chơi thì khoét lỗ to và sâu nằm giữa bãi đất.
Những tay lão luyện thì chỉ cần một lỗ vừa khít kích thước đồng cái, thường
là đồng hai hào ngày xưa, xấp xỉ bằng đồng 1 euro (tiền của Cộng đồng Châu
Âu). Ðể làm tăng thêm khó khăn, các bậc đàn anh thường chọn chỗ đất nghiêng,
khoét lỗ gần một chướng ngại vật, cạnh một gốc cây, sát một mảnh chai chẳng
hạn ! Cạnh lỗ kẻ một lằn mức. Cách lằn mức này độ hai, ba mét là vạch cấm.
Ðáo lỗ có nhiều luật lệ, tùy theo giao ước giữa người chơi.
Bắt đầu phải "đi cái" để định thứ tự chơi. Từ vạch cấm, ai thảy đồng cái gần
lỗ nhất (trường hợp lí tưởng là ... bít kín lỗ), được chơi trước. Người chơi
đứng ở vạch cấm thảy tiền đáo (tiền góp) lên quá lằn mức. Nếu có đồng nằm
dưới lằn mức thì bị thua hoặc bị phạt, phải góp thêm tiền. Ðồng nào chạm
hoặc rơi vào lỗ thì người khác được quyền đặt lại vào bất cứ vị trí nào.
Trường hợp có nhiều đồng chồng dính lên nhau, người khác được tùy ý xếp lại
thành đống lớn. Nếu người chơi đánh tan hết đống tiền thì thắng ván đáo,
đánh tan một phần thì chỉ được những đồng đánh tan này. Ðây là lúc phải "bày
binh bố trận " sao cho khéo, phải nghĩ ra những mẫu kiến trúc tân kì, đụng
đến là văng tung toé, va chạm lung tung, người chơi sẽ bị phạt. Nếu không có
tiền chồng dính nhau, thì người khác được chỉ định bất cứ đồng nào, người
chơi phải đánh trúng đồng đó. Ðặc biệt là đồng nằm đụng lằn mức, đánh trúng
nhưng vẫn còn phải nằm đụng lằn mức ! Lúc đánh, nếu chạm bất cứ đồng nào
khác, ngoài những đồng được chỉ định, là bị phạt. Ðánh văng xuống dưới lằn
mức hoặc chạm vào lỗ cũng bị phạt !
Lúc bắt đầu một ván đáo, mỗi đứa góp vài ba hào. Sau vài lần phạt, số tiền
cứ tăng dần. Thỉnh thoảng có ván lên đến mấy đồng, bàn tay trẻ con cầm không
hết, cả bọn phải đồng ý lấy bớt để ra ngoài ! Bắt đầu hồi hộp, gay cấn rồi
đấy !
Có những cú đánh "thần sầu quỷ khốc ", đáng được ghi vào sách vở ! Có những
ván "bất phân thắng bại ", cuối cùng đành phải hòa. Cao thủ gặp nhau mà lị !
Kẻ mới nhập môn làng đáo, còn e ngại đáo lỗ khó chơi, thường bắt đầu bằng "đáo
điệu", còn gọi là "đáo thủ". Ðáo điệu dễ hơn đáo lỗ ở chỗ ... không có lỗ.
Chỉ có lằn mức và vạch cấm. Giản dị hơn nữa thì chỉ khoét lỗ, không vạch lằn
mức. Từ vạch cấm, thi nhau thảy đồng tiền vào lỗ. Trò chơi này có nơi cũng
gọi là "đáo lỗ", có nơi chỉ gọi trống không là đáo để phân biệt với đáo lỗ
có nhiều luật lệ kể ở trên.
Tại các thành phố lớn, vỉa hè được tráng xi măng, nhiều lúc không tìm ra
khoanh đất để khoét lỗ, đành phải vẽ một vòng tròn con con thay vàọ Cách
chơi tuy không thay đổi nhưng trò chơi đã giảm mất đôi phần thú vị. Thảy
đồng cái vào lỗ là cả một tích lũy kinh nghiệm, kết quả của luyện tập lâu
ngày. Ðất mềm hay cứng, nhẵn hay mấp mô? tùy địa hình mà đưa ra lối chơi
thích hợp. Thảy tiền trên nền xi măng thì còn gì là hứng thú, hấp dẫn ! Còn
đâu cái khoảnh khắc hồi hộp nhìn đồng tiền lướt nhẹ trên mặt đất, từ từ bít
kín lỗ đáo? Ðứa khó tính bĩu môi "Chán bỏ xừ". Thế là cả bọn nhao nhao "Ử,
chán bỏ xừ, chơi đáo tường thích hơn".
"Ðáo tường ", còn gọi là "đáo đập ", chỉ cần một lằn mức. Lúc chơi đập đồng
tiền vào tường cho văng ra. Ðồng nào nằm gần lằn mức là hơn, vượt quá là
thua. Ðứa thứ nhất được lấy đồng của mình chọi đồng của đứa thứ nhì. Chọi
trúng thì được ăn đồng ấy và được chọi tiếp đồng của đứa thứ ba...Nếu chọi
không trúng đồng nào thì đến lượt đứa có đồng ấy được chọi những đồng tiếp
theo. Cứ lần lượt như vậy cho đến hết.
Ðáo tường chơi mau chán vì có ít luật lệ. Nếu chán thì còn "đáo móc ", gần
giống đáo tường, chỉ khác ở chỗ lúc đập đồng tiền vào tường, bắt buộc phải
đập móc, nghĩa là phải vung tay theo chiều từ dưới lên trên. Ðồng tiền văng
theo đường cầu vồng trước khi chạm mặt đất.
Khó khăn lớn nhất của đáo tường, đáo móc là kiếm cho ra một bức tường để
chơi mà không bị người lớn xua đuổi ! Nhiều khi không kiếm ra tường phải đập
tạm vào cột, vào gốc câỵ "Cười gượng còn hơn mếu "!
Sau một buổi đáo sôi nổi, bức tường được trang điểm lấm tấm, đẹp như mặt rỗ
hoa ! Bọn trẻ không hiểu nổi tại sao các bậc cha mẹ lại không ưa, không
thích, thậm chí còn ghét hai món đáo này?
Thỉnh thoảng gặp cơn khó khăn, cả bọn trần như nhộng, không có đồng xu dính
túi, hoặc bị mẹ cấm đánh bạc, chỉ còn nước rủ nhau giải trí lành mạnh, đánh
đáo bằng một nắm xèng. Ðồng xèng là cái nắp bia bằng sắt được đập cho thành
hình tròn bằng phẳng. Ðồng cái là một mảnh ngói hay một miếng gạch con con.
Mấy đứa thua phải làm ngựa cõng đứa được, chạy nhong nhong quanh gốc cây,
hay chạy rồng rắn lượn qua lượn lại một vòng. Ngô Quý Sơn gọi con ngựa của
trẻ con này là "ngựa Bình Kho " (le cheval Bình Kho)(2). Nhưng ông không cắt
nghĩa, không nói tại sao lại gọi như vậy? Ngô Quý Sơn đã treo lủng lẳng một
cái dấu hỏi trước mặt mọi người.
Ðã từng một thời mê đánh đáo, khoái chí quất ngựa nhong nhong bù lại những
lúc phải cong lưng chở nặng chạy loanh quanh, tôi cứ bứt rứt, muốn tìm cho
ra con ngựa Bình Kho này.
Tôi tự đặt câu hỏi :
Bình Kho là tên người, tên một giống ngựa, hay tên một nơi nuôi ngựa nổi
tiếng?
Tìm kiếm trong mấy bộ sách sử kí, địa lí, phong tục đang có thì không thấy
tên Bình Kho.
2) Bình Kho là do đọc trại từ tên nào khác?
Tôi tìm được ba tên phát âm gần giống Bình Kho :
- Bình khấu, một chức quan đi dẹp quân làm loạn (Huỳnh Tịnh Của, Ðại Nam
quốc âm tự vị).
- Bình khung, một loại giường (Nguyên Hồng, Sóng gầm).
- Bình Khang, nơi nổi tiếng nuôi "ngựa người " của ... người lớn (Nguyễn Du,
Kiều).
Trong ba tên, chỉ có "bình khấu " là tương đối sát nghĩa. "Ngựa bình khấu "
có thể tạm hiểu là ngựa của ông quan có nhiệm vụ đi dẹp loạn. Hình ảnh ông
quan cưỡi ngựa, có lính đi hầu, rất thích hợp với trò chơi của trẻ con. Mặc
dù thuở nhỏ chúng tôi chỉ biết con ngựa :
Nhong nhong ngựa ông đã về
Cắt cỏ Bồ Ðề cho ngựa ông ăn.
Thật là may ! Phải reo lên là thích quá, sướng quá, gần đây tôi đã tìm ra
tông tích con ngựa Bình Kho, trong bộ tranh dân gian Oger. Tấm tranh vẽ trẻ
con làm ngựa chơi đùa. Tên tranh được viết là "Làm ngựa Bình Vu" (hai chữ
Bình Vu tôi tạm đọc theo chữ hán).
Vậy Bình Vu là gì?
a) Tên Bình Vu cũng như Bình Kho, không có trong sách.
b) Chữ Bình có thể đọc ra tiếng nôm thành Bằng. Nếu vậy, phải trả lời câu
hỏi: trẻ con làm ngựa bằng...gì? Chỉ có thể bằng vai, bằng tay, bằng lưng,
hay bằng kiệu. Mấy chữ nôm vai, tay, lưng, kiệu viết hoàn toàn khác chữ vu
trong tranh.
c) Chúng ta thử tra nghĩa của hai chữ bình vu.
- Chữ bình , nghĩa là bằng phẳng, yên ổn. Chữ bình có rất nhiều chữ đồng âm.
Ngoài những chữ bình được ghi trong cả hai cuốn Hán Việt từ điển của Ðào Duy
Anh (3) và Hán Việt tự điển của Thiều Chửu (4), cuốn Thiều Chửu còn có thêm
một chữ bình mà cuốn Ðào Duy Anh không có. Ðó là chữ bình (bộ nhân) , nghĩa
là sai khiến, bắt làm một việc gì.
- Chữ vu (cũng đọc là hu, Thiều Chửu), nghĩa là quanh cọ Chữ này có đánh dấu
cá, báo hiệu là không được đọc theo tiếng hán.
Bình vu đọc theo nghĩa, có thể là :
- Bằng phẳng, quanh co. Tên tranh trở thành " làm ngựa chạy quanh co trên
một mặt phẳng" (sân, vỉa hè). Rất đúng với hình học không gian! Nhưng đặt
trong bối cảnh bộ tranh dân gian, tả một trò chơi của trẻ con, tôi nghĩ rằng
nghệ sĩ bình dân không giàu tưởng tượng, cầu kì đến mức đó!
- Sai khiến, quanh co. Tên tranh bây giờ có nghĩa là "làm ngựa (bị sai khiến)
chạy quanh co". Ðúng là con ngựa nhong nhong thân yêu của chúng tôị Ðứa được
bắt đứa thua cõng chạy một vòng. Nhóc nào đã chơi đáo giải trí hẳn đều biết
con ngựa này.
Theo tôi, chữ bình trong tranh viết thiếu bộ nhân, thiếu cả dấu cá để lưu ý
người đọc!
Tại sao Ngô Quý Sơn lại đọc chữ vu thành chữ kho? Tôi phỏng đoán có thể Ngô
Quý Sơn nhầm chữ vu của tranh với chữ vu nghĩa là khoai(bộ thảo), rồi đọc âm
khoai thành kho.
Trở lại chuyện đáo.
Ðáo có từ thời nào? Không ai trả lời đích xác được. Nhưng chắc chắn là đáo
đã xuất hiện từ lâu, được chơi trong lễ hội cổ truyền của nhiều làng quê
miền Bắc. Có giả thuyết cho rằng "đáo hú" của làng Lũng Ngoại được tổ chức
để tưởng nhớ bà Lê Ngọc Trinh, một nữ tướng của Hai Bà Trưng, người đã bày
ra trò chơi trong khi luyện tập binh sĩ (.
Tên đáo từ đâu mà ra? Rất có thể là từ chữ đáo của tiếng hán, nghĩa là đến,
đến nơi đến chốn. Chơi đáo chính là ném một vật gì đến cái đích.
Ðịnh nghĩa của đáo là gì? Chúng ta lật tự điển :
- Ðáo : cuộc chơi, đào lỗ dưới đất, đứng xa xa mà thảy vật gì nhằm lỗ (Huỳnh
Tịnh Của) (5).
- Ðáo : Jeu d'enfants consistant à lancer une sapèque contre un but (Gustave
Hue) (6).
- Ðáo : Trò chơi của trẻ em, ném đồng tiền hoặc vật tương tự vào một cái
đích (Hoàng Phê) (7).
Ðịnh nghĩa của Hoàng Phê gần giống định nghĩa của Gustave Huẹ
Cả ba định nghĩa trên đều còn thiếu sót. Huỳnh Tịnh Của chỉ nói đến đáo lỗ.
Gustave Hue và Hoàng Phê lại bỏ quên mất ... người lớn. Vâng, chính người
lớn, các ông lớn ở làng, đã bày ra trò chơi đáo trước trẻ con.
Văn Tân (8) định nghĩa một cách tổng quát hơn :
- Ðáo : Trò chơi quăng đồng tiền hay một vật gì vào một cái đích.
Non nửa thế kỷ rồi mà đôi lúc còn bùi ngùi mường tượng đến cái đám tí nhau,
được người đời liệt vào hàng thứ ba, sau quỷ và ma ... Ðứa còn đứa mất. Ðứa
lên ông, đứa xuống thằng. Phiêu bạt nơi đất Mỹ, trời Tây hay vẫn ngày ngày
đi về mấy con đường năm xưa.
Gặp lại, chắc chắn mấy mái tóc hoa râm chẳng ai nhận ra ai. Nhưng nếu gợi
lại những buổi trưa hè, đánh đáo vã mồ hôi, thì có lẽ tất cả sẽ cười ồ lên,
ôm chầm lấy nhau !
(- Phan Thanh Hiền và một nhóm :Trò chơi dân gian Việt Nam NXB TP Hồ Chí
Minh, 1990.
(2)- Ngô Quý Sơn : Jeux d'enfants du Vietnam Sudestasie, Paris, 1985 (in lại).
(3)- Ðào Duy Anh : Hán Việt từ điển NXB Trường Thi, Sài Gòn, 1957.
(4)- Thiều Chửu : Hán Việt tự điển NXB TP Hồ Chí Minh, 1993.
(5)- Huỳnh Tịnh Của : Ðại Nam quốc âm tự vị NXB Rey, Saigon, 1895.
(6)- Gustave Hue : Tự điển Việt-Hoa-Pháp NXB Trung Hòa, 1937.
(7)- Hoàng Phê và một nhóm : Từ điển tiếng Việt NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
1988.
(8)- Văn Tân và một nhóm : Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
1977.
oOo
Cờ người là tên gọi cuộc chơi cờ tướng, gồm 32 quân (như cỗ bài tam
cúc), mỗi phe 16 quân(trong mỗi phe có một Tướng. Tướng nam gọi là
tướng Ông, trang phục đen hoặc xanh; tướng nữ còn gọi là tuớng Bà,
trang phục đỏ). Chơi cờ tướng là chơi trên bàn cờ. Ba mươi hai quân
cờ bằng gỗ, sừng, hay ngà tiện tròn, đường kính 2cm, dày 1cm. Chơi
cờ người cũng vẫn là luật lệ của cờ tướng. Nhưng quân cờ là người
thật, và bàn cờ là sân đất rộng, đủ đường đinước bước cho 32 người.
Cuộc đấu cờ người thường được tổ chức trong các hội hè. Ở các hội
làng, bàn cờ là sân đình, sân chùa, hay bãi ruộng khô phẳng gần nơi
đình chùa, tức là gần diễn chùa trường chính của hội. Cuộc đấu cờ
người được chuẩn bị chu đáo hàng tháng trời. Ðịnh được bàn cờ -sân
bãi-chỉ mới là việc phụ. Ðầu tiên là việc tuyển tìm người. Những
người được chọn làm quân cờ phải là những trai thanh gái lịch, con
cái của những gia đình có nề nếp được dân làng quý trọng, đồng tình.
Số lượng cần thiết là 16 nam,16 nữ. Trong số này phải chọn ra hai
tướng: một nam, một nữ tướng Ông, tướng Bà. Ngoài ra, không thể
thiếu người thứ 33 là tổng cờ (trọng tài) trực tiếp giúp ban giám
khảo theo dõi cuộc đấu. Ba người này (tổng cờ và hai tướng) là thuộc
loaị gia đình khá giả, phong lưu, có thể "khao quân" khi cần thiết.
Chọn xong, tổng cờ họp hai đội nam, nữ thông báo về trang phục, dặn
dò về phong thái trong lúc làm nhiệm vụ "quân cờ". Quần áo mỗi người
tự sắm, song phải thống nhất trong từng phe (quân đen, quân đỏ) khi
ra sân bãi, bàn cờ được tạo ra một màu sắc rực rỡ nhiều màu dưới
trời hội xuân.
Mỗi "quân cờ" có ghế đẩu ngồi có thể có đội nón nếu trời nắng to.
Trước ngực mỗi "quân cờ" có treo tên quân cờ bằng chữ hán. Còn tướng,
trang phục như hình vẽ, hoặc gần như thế, trong quân bài; đó là quân
phục cấp tướng đời xưa, có lọng che. Hai đấu thủ có chỗ ngồi riêng...
Bên cạnh sự náo động của các trò chơi khác như đánh đu đầy tính chất
hào hứng và lãng mạn; hay cuộc chọi gà "ăn thua"; hoặc cuộc đấu vật
thiên về sức mạnh cơ bắp và dũng khí, thì cái đẹp của sân cờ người
là sự tinh tế, trầm tĩnh, có giá trị di dưỡng tinh thần, và như muốn
tạo sự cân bằng đối với các cuộc đua tài ào ạt kia, đồng thời bổ
xung và nâng cao giá trị văn hoá truyền thống của cá lễ hội qua
nhiều thế kỷ lưu truyền. |
This article comes from VN.NET
http://www.vn.net
Xem thêm
|