|  | Chợ làng 
     Nhắc 
    đến văn hoá làng xă người ta không thể không nhắc tới chợ làng. Quả thật một 
    phần đời sống của những người dân quê được khắc hoạ qua sự phát triển của 
    chợ làng. Ngoài ư nghĩa trao đổi mua bán, chợ làng c̣n là nơi để thăm hỏi, 
    mời gọi, nói chuyện con trâu, cái cày, chuyện ruộng, vườn, đồi núi... Tất cả 
    cứ ồn ă, xôn xao và đậm đà t́nh làng, nghĩa xóm. Bởi thế, người xưa đă từng 
    ao ước: "Muốn cho gần chợ mà chơiGần sông tắm mát, gần nơi đi về".
 Chợ Nghè quê hương tôi cũng không nằm ngoài những ư nghĩa như 
    thế. Tên chợ gắn liền với tên làng như thể làng sinh ra chợ và nhắc đến chợ 
    người ta nghĩ ngay đến làng. Nằm ngay ở giữa làng, trên một khoảnh đất rộng 
    với cây đa đứng sừng sững ở góc chợ, phía trên là dải núi thấp dần xuống nên 
    nh́n từ xa, chợ như được treo trên cành đa. Vài túp lều tranh nho nhỏ, tường 
    vôi xám xịt, dường như bao đời nay chợ Nghè vẫn vậy. Năm tháng, thời gian, 
    mưa chan, nắng dội, rồi lửa đạn, bom rơi, chợ làng Nghè vẫn nguyên lành như 
    thế, nguyên lành cả trong kư ức những người con xa quê như tôi.
 Chợ Nghè họp theo phiên, tháng có 12 phiên. Mỗi phiên chợ họp từ sáng sớm rộ 
    lên bán mua vào khoảng 7, 8 giờ và đến gần trưa th́ chợ văn người. Nhất là 
    vào những ngày mùa th́ thời gian họp c̣n ngắn hơn, người ta tranh thủ đến 
    chợ rồi c̣n tất tả cho việc đồng áng. Ai ai cũng chân thấp chân cao lo đồng 
    sâu ruộng cạn. Hiền lành và chăm chỉ vẫn là phẩm chất rất đẹp của người dân 
    Việt Nam muôn đời. Ngày trước chợ Nghè chủ yếu chỉ có chè tươi, rau, cua, 
    gạo, thóc... phần đa là hoa trái vườn nhà. Nhiều nhất vẫn là chè, chè đi từ 
    chợ làng đến chợ Nga, chợ Sọng, chợ Huyện rồi xa hơn là Nam Định, Thái B́nh, 
    Hưng Yên... rồi từ các nơi đó, nhăn lồng, vơng đay, vải vóc được chuyển về. 
    Việc bán mua lưu chuyển cứ diễn ra không ngừng, ngay cả trong những năm 
    tháng kháng chiến gian khổ. Những năm tháng này, chợ được chuyển đến họp ở 
    sau đ́nh hoặc chùa để dễ dàng che mắt địch gọi là chợ lưu động. Chẳng có ǵ 
    ngăn nổi sức sống âm thầm, bền bỉ của chợ v́ chính những người dân b́nh dị, 
    thật thà quê tôi vẫn khao khát giữ cho ḿnh một thú vui đến chợ như là nét 
    sinh hoạt văn hoá cộng đồng đẹp đẽ và đáng trân trọng.
 Tuy là chợ lưu động nhưng những cửa hàng quanh chợ vẫn mở cửa 
    b́nh thường, nhất là vào ban đêm, có khi suốt cả đêm hàng nào cũng đỏ đèn. 
    Những ngọn đèn dầu ấm áp hắt ra từ các cửa hàng đó có sức lôi cuốn người mua 
    đặc biệt với lũ trẻ con chúng tôi. Ngày nhỏ, tôi không có ao ước ǵ hơn là 
    được mẹ cho mấy hào rồi xà vào hàng quà góc chợ. Măi măi không thể quên được 
    những sợi bún trắng ngần cuộn tṛn trong chiếc lá chuối, dở khẽ tàu lá đó ra 
    đă thấy nhè nhẹ mùi thơm của bột gạo. Mắm tôm thơm mùi đồng băi, vắt chút 
    chanh rồi đánh cho sủi bọt, cho mùi thơm bay lên nồng nồng, thêm một chút ớt 
    cay, chấm bún vào đó rồi đưa lên miệng sẽ thấy ngay cái ngọt của tinh gạo, 
    cái gịn của sợi bún tan trong vị cay của ớt, vị đậm của mắm tôm. ?n đến 
    căng tṛn bụng ra mà mắt vẫn tḥm thèm. Đặc sản của chợ Nghè quê tôi c̣n là 
    món bún riêu cua, món ốc vặn. Con gái đồng chiêm quê tôi chăm chỉ và có "tài 
    khêu ốc vặn, cắp chè bán rong" như ca dao truyền thống đă có lần nhắc đến. 
    Tôi nhớ măi cái ấn tượng khi ngồi cạnh nồi riêu cua nghi ngút khói mà chỉ 
    cần bà chủ quán ghé tay mở chiếc vung nồi là sẽ thấy ngay hương thơm quyến 
    rũ và màu gạch cua vàng óng ánh. Bánh đa chần qua nước sôi rồi chan nước 
    riêu cua lên, cho thêm ít rau và hành phi thế là đă muốn húp sột soạt, mặt 
    đỏ bừng và mồ hôi rịn ra trên trán. Nhâm nhi hơn có thể mua một bát ốc vặn, 
    bỏ vào túi xủng xoẻng, vừa đi vừa lấy đồng 5 xu cho vào thân con ốc, xoay 
    một ṿng rồi chúm môi mút một cái, thế là cái ruột con ốc đă chui tọt vào 
    trong cổ, mát, ngọt, thơm và khoan khoái vô cùng. Những món quà chợ quê giản 
    dị như thế nhưng hương vị của nó chính là hương vị của tuổi thơ, của đồng 
    băi quê nhà. Bàn tay tôi đến giờ vẫn như c̣n dọc ngang vết cua cắp, vết 
    ngạnh cá trê đâm, vết gai chà xước... xoè tay ra vẫn c̣n như thấy tiếng cá 
    quấy mơ hồ động cả chiêm bao. Từ cua cáy, cá tôm trên ḍng sông quê nghèo 
    đến với chợ đă trở thành nồi cơm độn sắn của cả nhà, thành thếp giấy, thành 
    lọ mực tím mồng tơi cho những ngày cắp sách đến trường làng, cho hồn tôi 
    thăng hoa cùng bè bạn. Tôi măi ngụp lặn giữa đôi bờ sông quê thương nhớ, tắm 
    bờ này và sưởi nắng bờ kia "nơi bền lâu là nơi lắng sâu" (An Thuyên) phải 
    chăng là như thế. Chợ làng Nghè c̣n gắn liền với những cái tên nôm na của mỗi 
    người dân quê như là kư ức chẳng thể mờ phai: Bánh đa bà Sảng, bánh đúc bà 
    Chạn, bánh lá ông Liễu, bánh xèo bà Lịch... rồi cửa hàng tạp hoá của bà Nha, 
    hàng bánh dầy gị chả của bà Khoán, quầy thuốc bắc của cụ Đồ Dỡn, cụ Đồ Vơn, 
    cụ Lang San, Lang Khoản... Dù bán mặt hàng ǵ th́ tất cả đều với mục đích 
    phục vụ nhà nông. Bởi thế nên ai cũng tận t́nh chu đáo với khách hàng. Người 
    dân quê tôi là thế, chẳng tranh chấp thiệt hơn, chẳng lời lăi giành giật, 
    cái cốt là t́nh làng nghĩa xóm sau trước đậm đà. Tôi nhớ có những lần mua 
    sắm ở Hà Nội. Đôi khi mất tiền mua mà vẫn cảm thấy bực ḿnh v́ thái độ chỏng 
    lỏn và thiếu văn hoá của người bán hàng. Biết đâu chính những người ấy mở 
    miệng ra là miệt thị dân quê. Họ có biết đâu rằng chính cái chất quê mùa 
    trong giao tiếp làng xă ấy lại là một nét đẹp của văn hoá truyền thống dân 
    tộc mà chính họ cần phải đến với chợ làng, đến với những người dân quê mà 
    t́m ṭi học hỏi.
 Trong thời mở cửa, chợ làng tôi cũng phong phú và sầm uất hơn xưa, nhưng nét 
    mộc mạc, b́nh dị thắm đượm nghĩa xóm, t́nh làng vẫn không hề phai nhạt. Vẫn 
    sân đ́nh, góc chợ thuở nào, vẫn hai gian mái ngói rêu phong giữa chợ và vẫn 
    tíu tít bán mua, xôn xao ân cần thăm hỏi. Chợ làng quê tôi chính là tâm điểm 
    cho nỗi nhớ của người xa quê, là kư ức trong vắt, ngọt ngào.
 Đỗ Xuân Thảo   |