Home Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Cổng làng - một phần hồn cốt làng quê

Có phải người thân xưa đã "hoá" vào lớp gạch trơ mòn năm tháng. Sương muối chiều đông cuối năm nhạt nhoà hay là mắt mình nhoè ướt?

Từ khi ta lọt lòng, máu thịt đã thấm bao nhiêu hương vị làng quê. Mùi đất ải, mùn hoai, trấu tro hay mùi khói rơm cứ ngấm dần vào tận chân tơ, kẽ tóc, kết đọng trong tâm chí. Khi lớn khôn, dù đi tới tận góc trời lạ vẫn không sao quên được. 

Mỗi mùa, mỗi độ, đất làng lại có những mùi vị riêng biệt, khó trộn lẫn. Trùm lên tất thảy, đó là " mùi" lam lũ, cơ cực. Mùi mồ hôi lưng áo mẹ, mùi tóc em bồ kết hương nhu. Thấm sâu nhất vẫn là mùi khoai lùi, ngô nướng, thóc nếp rang. Vào cữ mưa phùn gió bấc, cả nhà túm tụm trong ổ rơm, bên bếp than củi tí tách. Nghe từng giọt mưa rụng buồn trên những tầu chuối ngoài vườn...

Cổng làng - một góc khuất riêng

Lại có cả những thứ tưởng như vô tình, vô vị đã ngấm dần vào đầu óc, ký ức làng quê không biết từ bao giờ. Cây đa, giếng nước, sân đình, gốc gạo già cô độc đầu làng và nhất là chiếc cổng làng. Mỗi thứ đều mang nặng một phần hồn cốt làng quê, khó có thể tách bạch rạch ròi. Giếng nước, cây đa, sân đình là chốn nơi quần cư, tụ hội. 

Mỗi sáng mỗi chiều, cả làng soi mặt vào gương giếng thơi, cùng nhau sẻ chia nguồn nước trong lành. Ðêm trăng, nhiều khi ra bờ giếng gánh nước chỉ là cái cớ để mà gặp gỡ, hẹn hò. Lòng giếng có khi vơi khi đầy, nhưng tình làng, nghĩa xóm thì cứ nguyên vẹn, không bao giờ cạn. Bao nhiêu dấu ấn thăng trầm của làng quê và kiếp người còn ghi dấu ấn nơi sân đình.

Ngày hội làng, chiếu chèo sân đình làm ngả nghiêng bao ánh mắt, nụ cười lúng liếng. Ngày mùa, từng gánh lúa cao lút đầu chất đầy một góc sân đình. Chưa kịp ráo mồ hôi, uống vội bát nước chè xanh sóng sánh ánh mắt, lại hối hả néo từng bó lúa, vỗ đập thì thụp cối đá lỗ...

Ðứng riêng một góc, xa khuất, tưởng chừng chẳng dính dáng gì đến số phận làng quê và thân phận mỗi con người, chiếc cổng làng lại chiếm một chỗ sâu kín nhất, lặng thầm nhất trong đáy sâu tâm hồn. Có làng rồi mới có cổng, nhưng không phải làng nào cũng có cổng.

Có lẽ chiếc cổng làng chỉ hiện hữu và tồn tại trên những vùng đất châu thổ sông Hồng. Ðó là nơi đất lề, quê thói, làng đã đủ tuổi để cất dựng nên một chiếc cổng. Dù to dù nhỏ, dù xây bằng gạch hay ghép đá, chiếc cổng làng chính là dấu ấn minh chứng cho một nếp làng bề thế, chỉn chu. Cửa nhà có thể xộc xệch, sơ sài; con người có thể lam lũ nhếch nhác nhưng cổng làng thì phải đàng hoàng, chững chạc. Ðơn giản chỉ là chiếc cổng xây bằng gạch mộc hoặc đá xẻ cuốn vòm, cổng làng là bộ mặt của làng quê.

Chưa cần bước sâu vào làng, chưa đặt chân tới sân đình, đứng trước cổng làng, người xa lạ cũng có thể đoán định phần nào cốt cách của làng xóm, tư chất của mỗi người dân. Bởi thế chiếc cổng phải được đặt ở vị trí trang trọng nhất, để từ xa dõi tầm mắt là có thể nhận ra ngay. Ðể người làng dù có tha phương cầu thực nơi đất khách quê người, trở về một đêm không trăng, không sao chỉ khẽ chạm tay cũng biết.

Làng giầu thì cổng lớn, rồng chầu, hổ phục. Mái cổng đứng lên một nấc, nóc mái đầu đao có khi kết đôi chim phượng. Bảo đấy là sự khoe giầu sang, phú quý là không phải. Ông cha ta xưa không có ý đua nhau xây cổng rõ to, rõ lớn để choáng ngợp mắt thiên hạ. "Ăn trông nồi, ngồi trông hướng". Xây cổng cũng phải nhìn sang làng bên, trông lên cao hơn. Dẫu chỉ là cái cổng mà cũng phải xứng với vị thế làng. Không thể cậy tiền, cậy của để dựng cổng gật ngưỡng, to bè. Thời phong kiến, nhiều khi danh giá của làng quyết định tầm cỡ cổng làng. Thời ấy, làng nào có nhiều người đỗ đạt, làm quan to thường được vua ban cho quyền xây cổng lớn nhưng tuyệt nhiên không được vượt qua những luật lệ nghiêm ngặt. 

Bề thế nhất là cổng "tam môn" - có tới ba cửa. Một cửa chính giữa, hai bên tả hữu là hai cửa nhỏ. Thường ngày, dân làng, người lạ chỉ được qua lại đôi bên cửa ngách ấy. Khi làng có việc trọng đại như hội hè, đình đám hay đón rước quan sang, cửa chính mới được rộng mở thênh thang. Hai bên cổng thường gắn đôi vế đối chữ nho. Có thể là câu đối vua ban nhưng đa phần là những câu đối đúc kết những tinh hoa của làng quê hay cầu mong những điều tốt lành. Năm tháng qua đi, đời người nối tiếp đời, mưa gió bào mòn, những con chữ có thể mờ phai, mất nét nhưng lòng người vẫn hằn sâu. Ngựa xe sang trọng, người quyền cao chức trọng, mũ cao áo dài, đến trước cổng làng đều phải dừng chân bước xuống, kính cẩn cúi đầu qua cổng...

Cổng làng gắn với mỗi phận đời

Ở những chốn quê nghèo, cổng làng mộc mạc và cô đơn lắm. Hai bên trụ gạch thấp nhỏ, khiêm nhường đỡ một tấm xà cũng bằng gạch, thế là thành cổng làng. Nó cũng nhỏ bé như thân phận mỗi con người sống trong đó. Không một nét vẽ trang điểm, không màu mè, thậm chí không một nét chữ tên làng. Vậy mà chính những chiếc cổng vô danh như thế lại trở
nên thân thiết gắn bó vô chừng.

Lưỡi dao thời gian khoét sâu vào từng viên gạch, trơ mòn, trũng lõm sâu hút như hốc mắt người già. Ðôi chỗ, nước mưa ngấm lâu ngày, gạch chảy dài từng vệt đỏ như huyết ngỡ như lệ xót thương giỏ thành máu...

Xót xa nhớ về những chiều tan học, sách bút quẳng vội, túm tụm bên cổng làng. Chỗ đất ấy đã mòn nhẵn dấu tay trẻ những bận chơi ô ăn quan, đánh bi, đánh đáo. Chỗ đất ấy mịn êm như tấm chiếu cho lũ trẻ làng tha thẩn, lê la đứng ngồi ngóng mẹ về những buổi chợ quê.

Trên thân cổng không biết bao nhiêu dấu vết của tuổi thơ. Cổng làng cũng là nơi dừng chân đặt gánh, trở vai lúa nặng trĩu nước đồng những ngày mùa bận rộn. Dăm ba câu chuyện, mấy lời góp nhặt cũng đủ vợi nỗi cực nhọc. Ở đấy rất nhiều gió từ ngoài đồng lùa về, bao nhiêu mồ hôi tự nhiên ráo khô.

Ai có đi xa trở về làng cũng không quên dừng chân bên cổng. Khuất sau thân cổng thể nào cũng khép nép một quán nước. Chiếc chõng tre trỏng chơ vài hũ kẹo bột, kẹo vừng, bánh đa khoai hay dăm tấm bánh nếp, bánh gai. Lèo tèo mấy củ khoai lang, khoai sọ. Về đến làng rồi có gì mà vội, cứ nhẩn nha. Hai tay bưng bát nước chè xanh đặc sánh, thơm thảo, bao nhiêu
mệt nhọc, bụi đường cùng những bận lòng bỗng nhiên tan theo khói nước... Dưới đáy nước, gương mặt những người thân xưa chợt hiện về, chầm chậm xoay quanh làn nước. Những ký ức, kỷ niệm làng xóm buồn vui từ xa xăm cũng ùa về bồng bềnh. Phía sau tất cả, không thể che khuất chiếc cổng làng đầy vơi thương nhớ...

Nguyễn Chí Thành (Theo Tư vấn tiêu dùng)

 

Ấn tượng những chiếc cổng làng ở vùng ven Hà Nội

 

Dân trí Trên đoạn đường chỉ 2km dọc sông Tô Lịch, tồn tại hàng chục cổng làng lớn nhỏ khá bất ngờ ở một vùng ven Hà Nội. Đây chính là những lối vào xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, nằm giáp với quận Hoàng Mai.

 

Dù cách gọi vẫn mang vẻ “quê mùa” nhưng Thanh Liệt đã thành “phố” từ lâu, khi kiến trúc nhà ống cùng hàng chục cao ốc xung quanh phát triển với tốc độ chóng mặt.

 

Dù chiếm không gian khiêm tốn, những chiếc cổng đã trở thành biểu tượng của làng quê Bắc Bộ vẫn được giữ gìn cho thấy sự gắn bó của người dân với truyền thống lâu đời.

 

Ấn tượng những chiếc cổng làng ở vùng ven Hà Nội

Cổng vào xóm Vực là cổng lớn nhất trọng loạt cổng vào xã Thanh Liệt. Trước đây Thanh Liệt có 9 xóm, nay sáp nhật lại chỉ còn 5 xóm bao gồm: thôn Thượng; thôn Nội; thôn Tràng; thôn Vực; thôn Văn.

 

Ấn tượng những chiếc cổng làng ở vùng ven Hà Nội

Thanh Liệt xưa còn có tên Quang Liệt, người dân quen gọi là làng Quang, là một làng cổ chạy dọc sông Tô Lịch kéo dài khoảng 2 km.

 

Ấn tượng những chiếc cổng làng ở vùng ven Hà Nội

Cổng xóm Bơ (tên gọi cũ). Thông thường đường vào mỗi xóm lại có một cổng, các cổng này đều hướng ra sông Tô Lịch.

 

Cổng vào thôn Thượng, được trùng tu vào tháng 8/2000.

 

 

Cổng vào thôn Thượng, được trùng tu vào tháng 8/2000.

Cổng vào thôn Thượng, được trùng tu vào tháng 8/2000.

 

Cổng vào xóm chùa Nhĩ, được xây từ năm 1942.

Cổng vào xóm chùa Nhĩ, được xây từ năm 1942.

 

Cổng vào xóm chùa Nhĩ, được xây từ năm 1942.

Cổng vào thôn Cự Đông. Mật độ cổng dẫn vào thôn xóm của xã Thanh Liệt khá dày, có đoạn chỉ vài chục mét lại có một cổng.

 

Cổng vào xóm Mụ.

Cổng vào xóm Mụ.

 

Cổng vào xóm Mụ.

Tính riêng những cổng hướng ra sông Tô Lịch thì xã Thanh Liệt có 8 chiếc cổng chưa kể những cổng nhỏ ở phía trong các xóm.

 

Cổng vào thôn Nội cũng là một cổng lớn của Thanh Liệt.

Cổng vào thôn Nội cũng là một cổng lớn của Thanh Liệt.

 

Cổng vào xóm Giữa thôn Tràng.

Cổng vào xóm Giữa thôn Tràng.

 

Cũng lại có một cổng khác vào thôn Tràng.

Cũng lại có một cổng khác vào thôn Tràng.

 

Đây là cổng sau của thôn Tràng, người dân còn gọi là cổng đồng (cổng để đi ra đồng).

Đây là cổng sau của thôn Tràng, người dân còn gọi là cổng đồng (cổng để đi ra đồng).

 

Cổng vào các xóm nhỏ ở bên trong.

 

 

Cổng vào các xóm nhỏ ở bên trong.

Cổng vào các xóm nhỏ ở bên trong.

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17