|
Chùa Giác Lâm
Tân B́nh
Chùa Giác Lâm (chữ Hán 覺林寺: Giác Lâm tự) c̣n có các tên khác: Cẩm Sơn,
Sơn Can[1] hay Cẩm Đệm; là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Thành
phố Hồ Chí Minh. Đây chính là tổ đ́nh của phái Thiền Lâm Tế tông ở miền
Nam Việt Nam [2].
Chùa tọa lạc tại số 565 (số cũ 118) đường Lạc Long Quân, thuộc phường
10, quận Tân B́nh, Thành phố Hồ Chí Minh, và đă được Bộ Văn hóa (nay là
Bộ Văn hóa - Thông tin) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia
của Việt Nam theo quyết định số 1288-VH/QĐ ngày 16 tháng 11 năm 1988.
Giới thiệu sơ lược
Chùa được cư sĩ Lư Thụy Long, người Minh Hương, quyên tiền xây dựng
vào mùa xuân năm Giáp Tư (1744) đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Ban đầu chùa
có tên là Sơn Can (sơn là núi, cang là g̣ nông), về sau c̣n được gọi là
Cẩm Sơn do chùa tọa lạc trên g̣ Cẩm Sơn. Ngoài ra, chùa c̣n có tên là
Cẩm Đệm v́ cư sĩ Thụy Long có tên riêng là Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán,
người địa phương gọi là ông Cẩm Đệm [3].
Từ năm 1744 đến năm 1774, chưa rơ có vị tăng sĩ nào đến trụ tŕ chùa hay
không, v́ thiếu tài liệu [4]. Chỉ biết vào năm 1774, Thiền sư Phật Ư-Linh
Nhạc (trụ tŕ chùa Từ Ân) đă cử đệ tử của ḿnh là Thiền sư Tổ Tông-Viên
Quang (gọi tắt là Viên Quang) về trụ tŕ chùa, đồng thời đổi tên chùa
thành Giác Lâm.
Dưới thời thiền sư Viên Quang, chùa Giác Lâm trở thành một trung tâm đào
tạo về kinh điển, giới luật đầu tiên cho chư tăng ở Gia Định và cả Nam
Bộ. Đến năm 1873, dưới sự trụ tŕ của Thiền sư Minh Khiêm, chùa c̣n là
nơi in ấn, sao chép kinh sách, khắc bản gỗ kinh, luật và diễn Nôm một số
sách Phật giáo [5].
Danh sĩ Trịnh Hoài Đức trong quyển Gia Định thành thông chí đă miêu tả
cảnh chùa lúc bấy giờ như sau: "Chùa tọa lạc trên g̣ Cẩm Sơn, cách phía
Tây lũy Bán Bích ba dặm..., cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều
mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhă thú!"...
Kiến trúc
Tháp Xá lợi của chùa Giác Lâm
Chùa đă được trùng tu lớn ba lần. Thiền sư Tổ Tông-Viên Quang cho xây
lại chùa lần thứ nhất vào năm 1798[6]–1804. Đến năm 1906–1909, Hoà
thượng Hồng Hưng với sự giúp sức của Hoà thượng Như Pḥng, đă cho tôn
tạo lại ngôi chùa một lần nữa. Các sự kiện này được ghi lại trong đôi
liễn mừng lạc thành, nay c̣n treo trong chánh điện. Đầu năm 1999, chùa
hoàn thành đợt trùng tu lần thứ ba.
Chùa Giác Lâm nh́n chính diện
Chùa Giác Lâm hiện nay có lối kiến trúc chữ Tam (Ξ) gồm ba dăy nhà
ngang nối liền nhau (không kể các nhà phụ): chính điện, giảng đường và
nhà trai (c̣n gọi là nhà Ông Giám). Chùa nguyên thủy không có cổng tam
quan (cổng tam quan chỉ mới được xây dựng vào năm 1955), mái chùa gồm 4
vạt và các sống mái đều thẳng. Năm 2007, khởi công xây dựng khu giảng
đường và tăng xá (phía bên phải chùa - theo hướng nh́n từ trong ra).
Chính điện với kiểu nhà dân gian truyền thống một gian hai chái, bốn cột
chính hay c̣n gọi là tứ trụ. Bên trong điện khá rộng và sâu, có 56 cột
to hơn ṿng tay ôm màu nâu sẫm. Cột nào cũng được chạm khắc câu đối,
thiếp vàng công phu. Giữa các hàng cột là các cửa vơng, cũng được thiếp
vàng, chạm trổ các đề tài trang trí truyền thống như tứ linh, tứ quư,
hoa điểu....
Trong chính điện bày trí theo kiểu "tiền Phật, hậu Tổ". Phía trước chính
điện thờ các tượng A Di Đà, Thích Ca, Di Lặc. Hai bàn thờ hai bên phải
trái, có tượng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí. Ngoài ra, ở đây c̣n có tượng
cửu long, dọc hai bên tường có bộ tượng Thập Bát La Hán, bộ tượng Thập
Điện Diêm Vương, tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma và tượng Long Vương.
Đằng sau chính điện là bàn thờ Tổ, thờ các vị Ḥa thượng đă trụ tŕ tại
chùa Giác Lâm. Đối diện với bàn thờ Tổ là các bàn thờ: Phật Chuẩn Đề,
Phật A Di Đà, và sau cùng là bàn thờ Thập Điện Diêm Vương. Ở gian này,
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, được dùng làm cơ sở
hậu cần, nuôi chứa cán bộ, làm công tác trinh sát nội thành [7].
Trước chùa là bảo tháp xá lợi gồm 7 tầng h́nh lục giác. Tháp được khởi
công xây dựng từ năm 1970 theo bản vẽ của kiến trúc sư Vĩnh Hoằng, đến
năm 1975 th́ tạm ngưng cho đến 1993 mới được tiếp tục. Từ năm 1994 tầng
7 của tháp thờ Xá Lợi Phật.
Một số pho tượng trong chùa Giác Lâm
Bên trái cùa chùa là khu mộ tháp của các vị ḥa thượng đă trụ tŕ ở đây,
trong số ấy có tháp Tổ Phật Ư-Linh Nhạc, tháp Thiền sư Tổ Tông-Viên
Quang. Ngoài ra, trước sân chùa có đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát dưới
bóng cây bồ đề. Cây này do Đại đức Narada mang từ Sri Lanka (Tích Lan)
sang trồng vào ngày 18 tháng 6 năm 1953 [8].
Hiện vật quư
Trong chùa có 113 pho tượng cổ, chủ yếu là tượng gỗ, chỉ có 7 tượng đồng.
Có nhiều tượng có giá trị như: Tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Di Lặc
Bồ Tát; Thế Chí Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, bộ
tượng Cửu Long (đúc bằng đồng), bộ tượng Mười Tám Vị La Hán, tượng Thập
Điện Diêm Vương, tượng Tổ Sư Đạt Ma, tượng Long Vương, v.v...
Trên các cột chính của chùa đều có khắc câu đối (gồm 86 câu) thếp vàng
công phu. Đáng chú ư có câu đối của Hiệp trấn Trịnh Hoài Đức (treo ở
gian thờ Tổ) và câu đối của Mộc Ân đệ tử phụng cúng vào năm Gia Long thứ
3 (1804). Ngoài ra ở đây c̣n có 9 bao lam, 19 hoành phi, một bàn thờ cổ
và đồ thờ cổ [9].
Sách tham khảo chính
-
Vương Hồng Sển, Sài G̣n năm xưa. Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, 1991.
- Huỳnh Minh, Gia Định xưa (1973), NXB Thanh
Niên in lại năm 2001.
- Giáo tŕnh Kiến thức phục vụ du lịch, Nxb TP. HCM,
1995.
- Vơ Văn Tường – Huỳnh Như Phương, Danh lam nước
Việt, NXB Mỹ Thuật, 1995.
- Sổ tay văn hoá Việt Nam, Đặng Đức Siêu, Nhà Xuất bản
Lao Động 2006.
- Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng Trong,
Nxb TP. HCM, 1995
Chú thích
-
^ Ghi theo bản
tiểu sử tại chùa, có nguồn ghi là Sơn Cang.
-
^ Nguyễn Hiền
Đức, sách ở mục tham khảo, tr. 282.
-
^ Huỳnh Minh,
Gia Định xưa, tr. 246.
-
^ Theo Nguyễn
Hiền Đức, sách đă dẫn, tr. 283.
-
^ Theo website
Tri thức Việt
[1].
-
^ Nhiều tác giả
trong đó có HT.
Thích Thanh Từ (Thiền sư Việt Nam, tr.
483) đều ghi là năm
Mậu Ngọ (1798).
Tuy nhiên, bảng tóm tắt di tích tại chùa Giác Lâm
lại ghi năm khởi sự trùng tu là
1799.
-
^ Theo Giáo
tŕnh Kiến thức phục vụ du lịch, tr. 50.
-
^ Giáo tŕnh
Kiến thức phục vụ du lịch, tr. 50.
-
^ Các con số
này đều căn cứ theo bản tiểu sử ghi tại chùa.
Post ngày:
11/09/17
Nguồn: Wikipedia
|