Chùa Giác Viên Quận 11
Nơi đây, tại bến Hố Đất vào năm 1798 khi trùng tu
lần thứ nhất ngôi chùa Giác Lâm, Hoà thượng Viên Quang đă cho ông Hương
Đăng đến dựng lều ở tạm, trông coi gỗ trước khi kéo lên đồi, dùng làm
cột trùng tu chùa. Từ đấy, khi dưới bến lên, mọi người thấy có nơi thờ
tự bèn vào thắp nhang, lạy Phật và cúng dường. Măi đến khi việc chuyển
gỗ trùng tu chùa đă xong, làm lễ lạc thành năm Giáp Tư 1804, am nhỏ thờ
Quan Am tại đây được sửa chữa lại khang trang hơn, mang tên Quan Am các.
Khi ông Hương Đăng đă qui tịch, Hoà thượng Hải Tịnh cử một đệ tử của
ḿnh là Minh Vi sang trông coi Quan Âm các. Năm 1850, Hoà thượng Hải
Tịnh đổi Quan Am các thành chùa Giác Viên.
Cho đến nay, chùa trải qua hai lần trùng tu lớn vào những năm 1899 –
1902 dưới thời Hoà thượng Như Nhu trụ tŕ và 1908 – 1910 dưới thời Ḥa
thượng Như Pḥng.
Chùa Giác Viên c̣n giữ được sau chùa một
cây Bạch mai cành lá sum suê, một ngôi miếu Ngũ hành và mấy ngôi tháp tổ.
Với dạng kiến trúc mang tính tổng hợp của nhiều chất liệu, nhiều giai
đoạn khác nhau, trong đó ảnh hưởng Tây phương khá rơ qua mặt tiền xây
gạch với nữa ṿng cung, với trụ vuông cửa hàng rào trước chùa, nhưng
nh́n chung, chùa Giác Viên vẫn c̣n giữ được đường nét cổ kính trong cấu
trúc mặt bằng, kết cấu mái nhà, sườn nhà …
Tại chùa Giác Viên các bàn thờ được làm bằng gỗ quư, đen bóng, gờ mặt và
chân không có chạm trổ, chỉ có rèm phía trước là được chạm lộng khá công
phu. Chùa có 153 pho tượng, chủ yếu là tượng gỗ, tập trung tại chánh
điện. Đặc biệt, tại nhà tổ, ngoài các chân dung của tổ, chùa c̣n đặc thờ
tượng ba vị tổ khai sáng chùa. Tượng chùa Giác Viên đa số được tạo vào
cuối thế kỷ XIX nên phong cách nghệ thuật khác khác biệt so với chùa
Giác Lâm. Anh hưởng Hán đă nhạt dần, người xem chỉ thấy phảng phất nơi
đây khuôn mặt của người dân Nam Bộ.
Đặc biệt qua các tượng thờ, ta c̣n bắt gặp nét đặc sắc trong nghệ thuật
chạm khắc gỗ, thể hiện qua bộ sám bài. Đây là h́nh ảnh riêng biệt, độc
đáo, phản ánh cuộc sống, sinh hoạt buổi đầu của các thiền sư tại vùng
đất mới.
Chùa Giác Viên c̣n giữ được sau chùa một cây Bạch mai cành lá sum suê,
một ngôi miếu Ngũ hành và mấy ngôi tháp tổ. Với dạng kiến trúc mang tính
tổng hợp của nhiều chất liệu, nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó ảnh
hưởng Tây phương khá rơ qua mặt tiền xây gạch với nữa ṿng cung, với trụ
vuông cửa hàng rào trước chùa, nhưng nh́n chung, chùa Giác Viên vẫn c̣n
giữ được đường nét cổ kính trong cấu trúc mặt bằng, kết cấu mái nhà,
sườn nhà …
Tại chùa Giác Viên các bàn thờ được làm bằng gỗ quư, đen bóng, gờ mặt và
chân không có chạm trổ, chỉ có rèm phía trước là được chạm lộng khá công
phu. Chùa có 153 pho tượng, chủ yếu là tượng gỗ, tập trung tại chánh
điện. Đặc biệt, tại nhà tổ, ngoài các chân dung của tổ, chùa c̣n đặc thờ
tượng ba vị tổ khai sáng chùa. Tượng chùa Giác Viên đa số được tạo vào
cuối thế kỷ XIX nên phong cách nghệ thuật khác khác biệt so với chùa
Giác Lâm. Anh hưởng Hán đă nhạt dần, người xem chỉ thấy phảng phất nơi
đây khuôn mặt của người dân Nam Bộ.
Đặc biệt qua các tượng thờ, ta c̣n bắt gặp nét đặc sắc trong nghệ thuật
chạm khắc gỗ, thể hiện qua bộ sám bài. Đây là h́nh ảnh riêng biệt, độc
đáo, phản ánh cuộc sống, sinh hoạt buổi đầu của các thiền sư tại vùng
đất mới.
Ở các chùa cổ, chùa nào cũng có một số bao lam ở chánh điện nhưng đặc
biệt tại chùa Giác Viên có 60 bao lam lớn nhỏ, với những chủ đề như Thập
bát La Hán, Bá điểu, Tô Vũ chăn dê, Ngư tiều canh độc … đă mang lại cho
chùa Giác Viên một giá trị về nghệ thuật chạm khắc gỗ. Bao lam ở nhà tổ
được chạm lộng hai mặt cho thấy cùng một h́nh ảnh của các con vật, của
hoa lá … được khắc ở mặt trước, th́ mặt sau của bao lam cũng thể hiện
đúng như vậy. Đây là công tŕnh quư, tiêu biểu cho nghệ thuật chạm khắc
gỗ của Gia Định – Sài G̣n thế kỷ XIX.
Bao lam Thập bát La Hán là bao lam chạm lộng nhưng có kết hợp với tượng,
La Hán với tư thế ngồi, chân co, chân duỗi, tay cầm vật tượng trưng cho
tính cách của ḿnh, các La Hán trên bao lam chùa Giác Viên đă mang lại
nét tươi vui, sinh động cho người xem qua gương mặt hiền ḥa, phúc hậu.
Ta không t́m thấy nết ưu tư, phiền năo, khắc khổ trong tác phẩm … những
điều ấy góp phần nói lên tính chất no đủ, sung túc của cư dân vùng đất
mới. Với những con vật dùng để cuỡi như con ḅ, dê, heo, trâu, thậm chí
là những chú chó tinh nghịch… đă mang lại cho Phật giáo một tính cách
dân dă, đă được b́nh dân hóa.
Ở các chùa cổ, chùa nào cũng có một số bao lam ở chánh điện nhưng đặc
biệt tại chùa Giác Viên có 60 bao lam lớn nhỏ, với những chủ đề như Thập
bát La Hán, Bá điểu, Tô Vũ chăn dê, Ngư tiều canh độc … đă mang lại cho
chùa Giác Viên một giá trị về nghệ thuật chạm khắc gỗ. Bao lam ở nhà tổ
được chạm lộng hai mặt cho thấy cùng một h́nh ảnh của các con vật, của
hoa lá … được khắc ở mặt trước, th́ mặt sau của bao lam cũng thể hiện
đúng như vậy. Đây là công tŕnh quư, tiêu biểu cho nghệ thuật chạm khắc
gỗ của Gia Định – Sài G̣n thế kỷ XIX.
Bao lam Thập bát La Hán là bao lam chạm lộng nhưng có kết hợp với tượng,
La Hán với tư thế ngồi, chân co, chân duỗi, tay cầm vật tượng trưng cho
tính cách của ḿnh, các La Hán trên bao lam chùa Giác Viên đă mang lại
nét tươi vui, sinh động cho người xem qua gương mặt hiền ḥa, phúc hậu.
Ta không t́m thấy nết ưu tư, phiền năo, khắc khổ trong tác phẩm … những
điều ấy góp phần nói lên tính chất no đủ, sung túc của cư dân vùng đất
mới. Với những con vật dùng để cuỡi như con ḅ, dê, heo, trâu, thậm chí
là những chú chó tinh nghịch… đă mang lại cho Phật giáo một tính cách
dân dă, đă được b́nh dân hóa.
Đặc biệt là bao lam Bá điểu : cùng trên một bao lam có chiều dài 3m và
ngang 2,2m mà 94 con chim lớn nhỏ đă được chạm khắc. Trong thế giới chim
muông ấy, không hiếm những con thường thấy xuất hiện trên họa tiết điêu
khắc như : Loan, Phụng, Công, Trĩ … nhưng đặc biệt qua bao lam, người
xem như gần gũi hơn với ruộng đồng Nam Bộ, qua h́nh ảnh của chim sẻ,
chim bói cá, chào mào, họa mi, le le … Mỗi con một tư thế : con bay, con
đậu, con ngủ, con rỉa mồi, chim mẹ mớm con, thậm chí có những đôi chim
đang âu yếm bên nhau…
Chùa Giác Viên c̣n là một trung tâm ứng phú của vùng Gia Định, cuối thế
kỷ XIX. Thiền sư Hải Tịnh đă đứng ra tổ chức trung tâm này. Thiền sư
được triều đ́nh Huế mời ra kinh đô dạy đạo cho nội cung hoàng gia, được
phong Tăng cang, ban cho vơng, lọng, trang phục… những di vật này một
phần vẫn c̣n lưu giữ tại chùa. Tăng cang Hải Tịnh đă tổ chức tại chùa
nhiều khóa ứng phú, thu hút tăng sĩ các nơi về tu học, kể cả vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Bên cạnh trung tâm đào tạo tăng sĩ chuyên sâu vào
kinh điển và giới luật là chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên cũng góp vào
sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo Nam Bộ thế kỷ XIX, XX một nét độc đáo.
Dưới thời tổ Minh Khiêm, chùa Giác Viên, c̣n là nơi in ấn, trùng khắc
những kinh sách quư hiếm. Bộ luật Trường Hàng đă được diễn Nôm và in ấn
tại đây. Hiện các bản khắc gỗ của bộ luật Trường Hàng vẫn c̣n lưu giữ
tại chùa. Vào những năm sau này, chùa Giác Viên c̣n là nơi khai mở
trường Phật học Lục Ḥa ( 1952 ), một trường thuộc Giáo Hội Lục Ḥa Tăng
Việt Nam. Sau nhiều năm từ 1968, trường đă góp phần đào tạo nhiều tăng
tài, được bổ về trụ tŕ các chùa ở Nam Bộ. Một phần công lao đó là của
Thượng tọa Huệ Chí, nhiều năm đă phụ trách ngôi trường này.
Là một trong những ngôi chùa cổ c̣n lưu giữ được giác trị nghệ thuật độc
đáo về điêu khắc tượng thờ, chạm lộng trên bao lam … chùa Giác Viên với
những hiện vật này đă góp phần minh chứng cho một nền Phật giáo nhập thế,
mang tính thực tiễn cao, đi vào cuộc đời, một đạo Phật đă được dân gian
hóa, trở về gần gũi hơn với cuộc sống con người.
Đặc biệt là bao lam Bá điểu : cùng trên một bao lam có chiều dài 3m và
ngang 2,2m mà 94 con chim lớn nhỏ đă được chạm khắc. Trong thế giới chim
muông ấy, không hiếm những con thường thấy xuất hiện trên họa tiết điêu
khắc như : Loan, Phụng, Công, Trĩ … nhưng đặc biệt qua bao lam, người
xem như gần gũi hơn với ruộng đồng Nam Bộ, qua h́nh ảnh của chim sẻ,
chim bói cá, chào mào, họa mi, le le … Mỗi con một tư thế : con bay, con
đậu, con ngủ, con rỉa mồi, chim mẹ mớm con, thậm chí có những đôi chim
đang âu yếm bên nhau…
Chùa Giác Viên c̣n là một trung tâm ứng phú của vùng Gia Định, cuối thế
kỷ XIX. Thiền sư Hải Tịnh đă đứng ra tổ chức trung tâm này. Thiền sư
được triều đ́nh Huế mời ra kinh đô dạy đạo cho nội cung hoàng gia, được
phong Tăng cang, ban cho vơng, lọng, trang phục… những di vật này một
phần vẫn c̣n lưu giữ tại chùa. Tăng cang Hải Tịnh đă tổ chức tại chùa
nhiều khóa ứng phú, thu hút tăng sĩ các nơi về tu học, kể cả vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Bên cạnh trung tâm đào tạo tăng sĩ chuyên sâu vào
kinh điển và giới luật là chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên cũng góp vào
sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo Nam Bộ thế kỷ XIX, XX một nét độc đáo.
Dưới thời tổ Minh Khiêm, chùa Giác Viên, c̣n là nơi in ấn, trùng khắc
những kinh sách quư hiếm. Bộ luật Trường Hàng đă được diễn Nôm và in ấn
tại đây. Hiện các bản khắc gỗ của bộ luật Trường Hàng vẫn c̣n lưu giữ
tại chùa. Vào những năm sau này, chùa Giác Viên c̣n là nơi khai mở
trường Phật học Lục Ḥa ( 1952 ), một trường thuộc Giáo Hội Lục Ḥa Tăng
Việt Nam. Sau nhiều năm từ 1968, trường đă góp phần đào tạo nhiều tăng
tài, được bổ về trụ tŕ các chùa ở Nam Bộ. Một phần công lao đó là của
Thượng tọa Huệ Chí, nhiều năm đă phụ trách ngôi trường này.
Là một trong những ngôi chùa cổ c̣n lưu giữ được giác trị nghệ thuật độc
đáo về điêu khắc tượng thờ, chạm lộng trên bao lam … chùa Giác Viên với
những hiện vật này đă góp phần minh chứng cho một nền Phật giáo nhập
thế, mang tính thực tiễn cao, đi vào cuộc đời, một đạo Phật đă được dân
gian hóa, trở về gần gũi hơn với cuộc sống con người.
Post ngày:
11/09/17
Nguồn: Internet (My tour Viet Nam)