Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Cuộc chiến với ma rừng

 

Người Ba Na ở xă Đăk Pne, H.Kon Rẫy (Kon Tum) có tục khi sinh con ra chẳng may người mẹ bị chết th́ làng phải chôn đứa con xấu số theo mẹ, nếu không ma rừng sẽ bắt tội, cả làng vạ lây. 

Quá đau ḷng trước hủ tục này, thầy giáo A Trũi (ở làng Kon Go 2, xă Đăk Pne) đă chạy đôn chạy đáo thuyết phục, cứu các hài nhi vô tội thoát khỏi cái chết oan. Ngày một ngày hai, việc làm của ông được cả làng, cả xă ngộ ra: chẳng có con ma rừng nào bắt tội cả, đó chỉ là sản phẩm của hủ tục và mê tín.            

Ma rừng biết… mắc cỡ

Dạo đó, vào khoảng giữa năm 2000, anh ruột A Tương là A Kiên có vợ là Y Hyêt ở làng Kon Túc, xă Đăk Pne sinh con. Sau hai ngày hai đêm đẻ măi không ra, Y Hyêt ngày càng yếu đi. Có người bảo A Kiên: “Sao mày không đến thầy A Trũi”. Giữa đêm ấy, gió thổi trên sông Đăk Bla lạnh lùng. Ḷng A Kiên tan nát, chạy bộ gần 5 km t́m đến thầy A Trũi đập cửa: “Ớ thầy A Trũi, mày đến cứu vợ con tao với”. Nghe tiếng gọi, thầy A Trũi bật dậy và cùng theo chân A Kiên về nhà. Thầy A Trũi lắc đầu: “Thằng A Kiên kêu ḿnh chậm quá, giờ chỉ cứu được con thôi”. Rạng sáng hôm ấy, khi đứa bé gái ra đời th́ khoảng 30 phút sau, mẹ nó là Y Hyêt cũng về với tổ tiên.

 

 

Cuộc chiến với ma rừng 1
Thầy A Trũi (b́a trái) và A Bốc, đứa trẻ được cứu năm 1995 - Ảnh: Phạm Anh

 

Cứu sống được đứa bé, A Trũi về bàn với vợ (bà Y Bliên): “Nhất định làng Kon Túc sẽ chôn con bé. Ḿnh nhận nó về nuôi nhé!”. Y Bliên gật đầu, dù bà có đến 6 đứa con, cơm ăn c̣n chưa đủ. Thế là A Trũi vắt chân lên cổ chạy xuống làng Kon Túc lần nữa. Lúc này già làng ở Kon Túc đang tính chuyện chôn bé gái ấy theo mẹ Y Hyêt. Theo người Ba Na, cho con bé theo mẹ xuống dưới đó mới có sữa để bú. Ở thế giới của ma, đứa trẻ sẽ được mẹ chăm sóc tốt hơn. Nếu bây giờ không chôn theo mẹ, sau này nó cũng sẽ đi theo mẹ và làng ít nhất hai lần làm lễ cúng ma, rất tốn kém. Chi bằng chỉ một lần cúng ma thôi. Mặt khác, ai giữ đứa trẻ lại sẽ có tội với ma rừng và sẽ bị ma rừng phạt.

Cuộc chiến với ma rừng 2
Bằng khen Ban Tuyên giáo T.Ư tặng A Trũi vào tháng 8.2013

Biết vậy nên A Trũi bước vào nhà A Kiên bảo: “Chôn mẹ thôi, không chôn con. Tui nhận bé gái này. Ma rừng có bắt tui. Tui chịu”. Thấy có người nhận, người làng thở phào: ai nhận nuôi con bé th́ ma rừng bắt người đó. Dân làng không bị ma rừng bắt nữa rồi. Thế là từ đó, nhà thầy A Trũi có thêm một đứa con tên là Y Lan. Bây giờ bé Y Lan đang học lớp 8 Trường dân tộc nội trú ở thị trấn Đăkrve, H.Kon Rẫy.

Chỉ một thanh niên ngồi ở một góc nhà, A Tương bảo: “Nó là A Bốc, con rể tui cũng được A Trũi cứu”. Thầy A Trũi tiếp lời: “Thằng A Bốc c̣n có người anh em sinh đôi nữa. Năm đó là 1995, người nhà kêu tới tui th́ mẹ nó cũng vừa tắt hơi”. Vậy là cứ theo phong tục, làng Kon Gộp chôn hai đứa trẻ sơ sinh theo mẹ. Thầy A Trũi ra tay thuyết phục và đưa A Bốc về nuôi, c̣n bé trai đồng sinh th́ nuôi mấy tháng cứng cáp, A Trũi gửi cho cô nhi viện Kon Tum. Thời gian sau, cha của A Bốc đưa con ḿnh về nuôi, đến giờ đúng 18 tuổi, làm rể nhà A Tương. A Tương nhẩm tính rồi kết luận: “Thầy A Trũi cứu đến 6 đứa nhỏ, bây giờ một đứa mất đi, c̣n 5 đứa. Con ma rừng nó biết mắc cỡ với thầy giáo rồi. Người làng ḿnh không c̣n sợ nó bắt vạ nữa”. Nói xong, A Tương ngửa cổ uống cạn ly rượu, sảng khoái. 

Vừa dạy vừa đỡ đẻ

Kể từ ngày xung phong về vùng sâu, vùng xa dạy, tính đến nay, thầy A Trũi đă công tác được 37 năm và nơi bén duyên với A Trũi chính là đất lành Đăk Pne. Công việc hằng ngày của A Trũi là đi dạy học, chứ không phải… đỡ đẻ. Vậy mà song hành trong thời gian dạy học, thầy A Trũi c̣n “kiêm nhiệm” thêm việc đỡ đẻ không công. “Hồi đó, đi dạy ở làng nào là ngủ lại làng đó để vận động con em đi học. Tui thấy bà con đẻ tại nhà cứ chết hoài. Sau mỗi cái chết là chôn cả con lẫn mẹ tức tưởi. Tui mới lân la đi học nghề đỡ đẻ của y tá Dung ở bệnh viện huyện. Từ đó, tui đỡ đẻ luôn cho bà con...”, thầy A Trũi bộc bạch.

Ca đỡ đẻ đầu tiên của A Trũi là năm 1989 ở làng Kon Go 1, xă Đăk Pne. Hồi đó, thầy A Trũi vào làng vận động học sinh đi học. Tại đây, nghe Y Thiang ở đây đẻ ba ngày chưa ra đứa con. Có “nghề” đă học, A Trũi liền ra tay đỡ đẻ ca này. Tiếp cận sản phụ, A Trũi thấy đẻ ngược: cái mông bé trai ra trước. Xử lư xong phần này th́ cái tay và mắc cái cằm khó ra. A Trũi nhẹ nhàng xử lư và ca đỡ đẻ thành công, cứu được cả mẹ lẫn con.

Từ ngày đó, tiếng tăm A Trũi vang xa. Có lúc đang dạy, bỗng thấy người dân chạy ầm vào lớp: “Thầy giáo ơi! Mày cứu con tao với. Nó đẻ không được. Chết mất”. “Ban đầu hơi làm lạ, nhưng dần dần rồi quen, lănh đạo trường thông cảm nên cho tui đi đỡ đẻ luôn”, thầy A Trũi kể, miệng tủm tỉm. Rồi thầy giáo làng tâm sự, bà con hồi đó đau đẻ là ở nhà chứ đâu có chịu ra trạm xá hay bệnh viện. V́ vậy có rất nhiều ca đẻ khó, nếu ḿnh không có mặt kịp thời là chết cả hai mẹ con, hoặc nếu chỉ chết mẹ th́ dân làng cứ chôn theo phong tục. Nghĩ đến cảnh này nên dù giữa đêm hay trời mưa, gió lạnh, đường cao, dốc lầy lội thế nào, ai đến trường, đến nhà gọi là tui đi liền.

“Thầy đă đỡ được bao nhiêu ca đẻ rồi?”, tôi hỏi. A Trũi bảo: “Không nhớ hết đâu. Chỉ những ca khó, nếu ḿnh không trực tiếp đỡ đẻ th́ sẽ tử vong khoảng 50 ca”. “Đỡ đẻ xong, bà con có biếu tiền hay mang quà tới nhà không?”. “Ô, không có đâu. Bà con ḿnh nghèo th́ lấy tiền, quà đâu. Mà có cho ḿnh cũng không nhận. Có điều, đi xuống làng là khó về lắm. Bà con mời rượu uống say mèm mới cho đi…”, thầy A Trũi thật thà nói.

Thế nhưng, khi đỡ đẻ cho bà con xong, A Trũi nhẹ nhàng khuyên bảo là nên đi ra bệnh viện sinh chứ không ở nhà nữa. “Nói thiệt, ban đầu không ai nghe cả. Nhưng dần dần họ chịu…” với điều kiện: A Trũi phải đi ra trạm xá trực tiếp đỡ đẻ.

Niềm vui của ông giáo làng

Thực ra với người Ba Na, thầy A Trũi nhận nuôi trẻ là một việc, c̣n đứa trẻ ấy có sống không mới là việc khác. Những ngày đầu, ai cũng cho rằng, trẻ con không táng theo mẹ trước sau ǵ cũng theo mẹ v́ bị ma rừng bắt. Chứng minh “không có ma rừng”, thầy A Trũi nuôi Y Lan và A Lư tại nhà. A Lư được cứu năm 1993, nhờ lúc ấy bà Y Bliên mới sinh con nên cũng được bú sữa mẹ. C̣n với Y Lan, do thiếu sữa mẹ nên rất khó nuôi. “Một tuần ở nhà, một tuần nằm ở bệnh viện. Sau này 4 - 5 tuổi nó mới bớt đau yếu”, A Trũi cho biết.

Tṛ chuyện với thầy giáo này, mới biết t́nh thương ông dành cho bé Y Lan là vô bờ bến. Ông bảo, ḿnh một tay bồng ẵm, nâng niu nó nên người th́ làm sao không thương. Thậm chí, những ǵ ông dành cho bé Y Lan c̣n hơn anh chị của nó nữa. Ngày Y Lan ra học Trường dân tộc nội trú Đăkrve, H.Kon Rẫy, do Y Lan đau nên hai vợ chồng phải ra chăm sóc trực tiếp bé Y Lan. “Nó làm nũng. Tối ngủ phải có mẹ mới chịu. Giờ lên lớp 8 th́ hết rồi”, thầy A Trũi kể. Bây giờ, Y Lan vẫn gọi vợ chồng A Trũi bằng cha, mẹ, nhưng A Trũi vẫn khuyên con t́m về và tha thứ cho cha ḿnh là ông A Kiên ngày trước.

“C̣n A Lư bây giờ ở đâu?”, tôi hỏi A Trũi. Ông bảo: Hồi kinh tế khó khăn, bé A Lư 5 tuổi th́ gửi cho cô nhi viện Kon Tum. Sau đó A Lư được hai vợ chồng người Mỹ nhận làm con nuôi. Lâu lâu nó viết thư về thăm. Năm 2008 nó về thăm tui, hứa là 10 năm nữa sẽ về thăm lại.

Có thêm hai đứa con là niềm vui lớn, nhưng thầy A Trũi vui hơn khi đồng bào cũng bắt đầu bắt chước ḿnh “chiến đấu với ma rừng”. Như trường hợp A Bui ở Kon Gộp. Năm 2004, vợ khi sinh bị chết, A Bui đấu tranh với dân làng giữ con A Nhi để nuôi. Bây giờ A Nhi đă lớn, đang học lớp 4 tại Trường tiểu học làng Kon Gộp.

Phạm Anh

Hủ tục giết trẻ nhỏ rùng rợn nơi núi rừng

Người mẹ không may chết khi đang sinh con, hoặc sinh con ngoài giá thú th́ đứa trẻ sẽ bị giết chết một cách dă man.

“Dọ-tơm-amí” và “Joă ană” (chôn con theo mẹ và đạp cho chết) là 2 hủ tục hoang dă gây nên nhiều cái chết oan khốc cho trẻ sơ sinh. Khởi nguyên, tục “dọ tơm amí” chỉ quẩn quanh trong một số buôn làng của đồng bào Bana, Jơ rai, Jẻ Triêng, những sắc tộc bản địa đông đúc sinh sống lâu đời trên cao nguyên Gia Lai - Kon Tum, phía bắc Tây Nguyên. Nhưng sau đó, theo những nhóm người ly tán, giao thoa, tục “dọ tơm amí” lan nhiễm qua cả những cộng đồng Xêđăng, S’rá, và vài nhánh Ê đê ở những vùng nghèo khó nhất.

Theo hủ tục này, nếu người mẹ chẳng may chết khi vượt cạn th́ trẻ sơ sinh phải bị bỏ xuống huyệt chôn theo mẹ. Trẻ đă vài tuần, thậm chí đầy tháng tuổi mà mẹ ốm chết v́ kiệt sức, hậu sản, th́ đứa trẻ cũng bị chôn sống theo, hoặc bị vứt bỏ giữa băi tha ma cho chết ṃn, cho thú dữ ăn thịt.

Buôn làng càng thiếu thốn lạc hậu, hủ tục càng phổ biến v́ đồng bào không biết cách nuôi dưỡng hài nhi thiếu sữa mẹ, luôn tin đứa bé đă làm cho mẹ chết cần phải theo mẹ về cơi ma mới mong được chăm sóc tốt hơn... Trên nhiều ngôi mộ chôn chung những đôi mẹ con tội nghiệp người Ba Na, Jơ rai, Jẻ Triêng, nghệ nhân vẫn tạc tượng nhà mồ tạo h́nh mẹ ôm con, mẹ cơng con chan chứa t́nh thương nhưng trĩu nặng thảm sầu.

Văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Tây Nguyên tôn trọng quyền tự do yêu đương, chọn lựa bạn đời của các đôi trai gái, trừ trường hợp mặc định từ đầu không thể kết hợp sẽ bị cả gia tộc cấm đoán. Đồng bào Jơ Rai vùng Ia Le huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trước kia có tục "ngă mit", "ngă" là làm, "mit" là đêm tối, cho phép con gái vào tuổi dậy th́ được tự do chọn lựa ư trung nhân. Nếu cô gái đă lỡ “ăn cơm trước kẻng” th́ có quyền mời người làm chứng để giữ chân cho đối tác khỏi “xù”. Nhưng gặp kẻ Sở Khanh ngă mấy th́ ngă, xù vẫn xù, th́ sơn nữ lắm khi phải vài lần ngă mit!

Khi nàng lấy chồng, nếu người chồng nghi ngờ đứa bé đầu tiên ra đời không phải con ḿnh, anh ta có quyền yêu cầu vợ hoặc bà đỡ phải Joă ană (đạp đến chết), nếu không sẽ mời già làng xét xử, không những mất mặt với cộng đồng mà c̣n có thể bị đuổi khỏi làng, tựa đi đày biệt xứ. "Joă" là đạp, "ană" là con, "Joă ană" là đạp con cho chết. Hủ tục này nghiệt ngă tàn khốc hơn cả “dọ tơm amí”.

Buộc phải tự thi hành án "Joă ană", người phụ nữ vừa gượng dậy sau sinh nở sẽ phải bồng con vào rừng, dùng cây chụp loại chuyên đào củ mài đào một hố tṛn sâu, thả đứa con ḿnh vừa rứt ruột đẻ ra dốc ngược đầu xuống đáy hố để hồn ma bé khỏi biết đường về, rồi… đạp và …lấp. Hành động ấy được thực hiện trước sự chứng kiến của gă chồng, người cứ đinh ninh từ nay người vợ này mới hoàn toàn thuộc về ḿnh, đứa con tiếp theo mới chắc chắn là con của ḿnh.

Đến Kon Tum, đoàn du khách nào cũng được hướng dẫn ghé thăm nhà Rông, nhà thờ gỗ Kon R’Bang trăm tuổi nổi tiếng độc đáo số một của thành phố nhỏ bé xinh đẹp phía Bắc Tây Nguyên, rồi ṿng ra phía sau ṭa giáo đường lộng lẫy thăm một công tŕnh đầy ư nghĩa khác, là Tổ ấm Vinh Sơn thuộc ḍng Ảnh Phép Lạ (APL), ḍng tu duy nhất trên cả nước do các nữ tu người dân tộc thiểu số sáng lập. Nửa thế kỷ qua nơi đây đă cưu mang nuôi nấng mấy trăm trẻ nhỏ mồ côi tật nguyền, trong đó có nhiều em bé được giành khỏi tay tử thần “Dọ tom amí” và “Joă ană”.

Cuối tháng 8/2005, nữ y tá Y Ngum ở trạm xá xă Đăk Sao huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum, đón một phụ nữ người Xê Đăng ở làng Kạch Lớn 2 tên là Y Nel, bụng chửa vượt mặt lại bị rắn độc cắn trong lúc lên rừng hái măng. Y Nel tắt thở đúng lúc đứa con trai đầu ḷng chào đời. Cộng đồng làng Kạch nhất trí chôn con theo mẹ, anh A Huih, cha bé không dám căi, nhưng nữ y tá Y Ngum cương quyết không cho làng chôn sống cháu bé. Được chồng là anh Nguyễn Đức Thành Nam, thành viên đội trí thức trẻ t́nh nguyện ủng hộ, Y Ngum đă thuyết phục được làng Kạch trao cháu bé cho cô nhận làm con nuôi, đặt tên là A Công Sơn.

Bà đỡ hoặc người vợ đáng thương biết sinh linh trong bụng ḿnh sắp bị giết, đă trốn làng chạy đến tu viện cầu xin cứu vớt. Những thân phận "Dọ tơm amí", "Joă ană" đầu tiên về với ḍng APL từ năm 1947. Tiếng lành đồn xa, càng ngày số trẻ bất hạnh được đưa về Tổ ấm càng đông, các nữ tu phải tách cơ sở làm đôi. Tổ ấm I lặng lẽ nép ḿnh sau Nhà thờ gỗ. Tổ ấm II cách gần 2 cây số, nằm khuất sâu trong thôn Kon Harachot.

Y tá Y Ngum bế bé A Công Sơn cùng chồng con.

Xơ Y Blưih người dân tộc Bơhnar là mẹ cả của Tổ ấm Vinh Sơn I. Xơ Gông người dân tộc Xêđăng là mẹ cả của Tổ ấm Vinh Sơn II. Hai bà năm nay đều đă 63 tuổi, nhân từ phúc hậu, đi tới đâu đàn cháu nhỏ cũng vẫy gọi rối rít và giơ tay đ̣i bế. Để có đủ cơm áo nuôi nấng hàng trăm trẻ nhỏ, có tiền thuê thầy cô vào dạy học, các xơ phải vừa chăm trẻ vừa tổ chức lao động sản xuất.

Từ đây, nhiều thân phận bất hạnh đă có cơ hội học hành đỗ đạt. Vượt qua rào cản ngôn ngữ, theo kịp các bạn ở các trường công lập là cố gắng lớn. Thi đậu vào cao đẳng, đại học lại là kỳ tích của cả mẹ và con.

Xơ Y Blưih bồng một em bé xinh xắn kể, em bé này người Jơ Rai, đă may mắn khỏi chết oan v́ bị chôn theo mẹ. Khi bé được 4 tháng tuổi, mẹ bé ở làng Kon Thup, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, địu con lên rẫy bị trúng gió và qua đời. Dân làng họp lại, đồng t́nh Dọ tom amí.

Một phụ nữ nhân hậu cùng làng nghe tin vội bỏ buổi tuốt lúa chạy về nài xin làng cho chị nhận bé làm con nuôi, dù nhà chị cũng nghèo và có tới 7 đứa con. Đón được bé về, vợ chồng chị làm khai sinh, đặt tên cháu là Pi Yo Rong rồi báo cho một nữ tu ở TP Plây Ku nhờ giúp đỡ.

Bố nuôi lái xe máy, nữ tu ngồi sau ôm Pi Yo Rong chạy mấy chục cây số qua Kon Tum xin mẹ cả Y Blưih nhận cháu. Về nơi ở mới, Pi Yo Rong được chị Y Loan người Xêđăng quê huyện Ngọc Hồi, Kon Tum, đang học lớp 6 nhận làm em nuôi, v́ mười mấy năm trước Y Loan cũng được cứu khỏi tục chôn con theo mẹ.

Giờ cuộc sống từng ngày đổi thay, buôn làng khắp Tây Nguyên giờ đều đă tiến bộ, tiện nghi đầy đủ hơn xưa. Hủ tục “Dọ tom amí” và “Joă ană” dần lui vào dĩ văng.

Theo Tiền Phong


 

Post ngày: 10/19/17 

Nguồn:

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17