Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 

Hà Nội 36 Phố Phường

Những hàng quà xưa ở Hà Nội

T́nh cờ, nh́n những bức kư hoạ của sinh viên hai khoá đầu tiên trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương, vẽ vào những năm 1925-26, ghi lại h́nh ảnh của những người bán hàng rong, hàng quà, ngồi trước những gánh hàng, hay lướt đi vội vă trên đường phố Hà Nội xưa, tôi nhớ lại cả một  đời thơ ấu đă lắng sâu trong kư ức.

Âu cũng là một dịp để hồi tưởng lại những tiếng rao, tiếng động phố phường, mới ngày nào c̣n gần gũi ...

Tiếng động của xe cộ lúc sớm mai trên đường phố, tiếng rao quà trong trưa nắng, tiếng hát của người xẩm loà lúc phố xá lên đèn... tất cả những âm thanh đó, những h́nh ảnh đó, đă ghi khắc vào tâm hồn tôi.

Ôi, những hàng quà xưa! Bây giờ nhớ lại, cũng như thể nhớ lại tuổi thơ của ḿnh, nhớ lại một cái ǵ đẹp lắm, đă mất đi và có lẽ không bao giờ trở lại nữa!

Ở Hà Nội ngày xưa, nhất là ở các phố buôn bán trong khu phố cổ, người ta có thói quen ăn quà từ sáng đến tối. Lúc nào cũng có hàng quà ! Bọn trẻ chúng tôi - và ngay cả người lớn - chỉ biết thưởng thức các món quà đó một cách ngon lành, và vô tư, c̣n t́m hiểu tại sao lại có cái truyền thống "ăn quà" ấy, tại sao Hà Nội lại có những món ăn ngon ấy, th́ dường như chẳng ai nghĩ tới!

Ngay cả khi lớn khôn lên, nghĩ lại, tôi cũng vẫn thấy khó lư giải được các hiện tượng này, kể cả cái thị hiếu, nói chung, của người Hà Nội, từ sự thẩm định các món ăn, cho đến cách lựa chọn các hàng quà!

Người ta thường bảo người Hà Nội ăn uống "thanh cảnh, kén chọn". Hồi nhỏ, mẹ tôi nói thế, và tôi nghe cũng chỉ biết vậy, nhưng chắc hẳn điều đó phải có một phần đúng. Người ở đất đế đô cũ nào mà chẳng thế ? Thật ra, ăn uống "kiểu cách", "đài các" thực sự, th́ có lẽ phải nói đến người Huế, nhất là trong các gia đ́nh khá giả, quyền quí! Nhưng đấy là chỉ nói về cách ăn uống và các món ăn trong các bữa cơm thôi, c̣n quà th́ có lẽ không đâu phong phú và "thanh lịch" như ở Hà Nội. Cùng món phở, cùng món bún chả đấy, mà đi xuống Hải Pḥng, hay xuống Nam Định, thấy cũng đă khác rồi !

Sau này cái máu dân dă, vốn có sẵn ở trong người tôi, đă trỗi dậy không biết từ lúc nào, và khiến tôi lại nghĩ rằng, nếu cứ thả cửa ra th́ người Hà Nội cũng thích ăn uống xô bồ, cũng ưa "nhậu nhẹt" như ai thôi ! Bởi một lẽ đơn giản là người Hà Nội, ngay từ xưa vốn vẫn là dân tứ chiếng (tứ trấn : Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Đông, Sơn Nam), từ các vùng quê Bắc Ninh, Sơn Tây, Hà Đông, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Phủ Lư, Nam Định, Thái B́nh, v.v. kéo nhau lên Kẻ Chợ làm ăn, rồi định cư ở đây. Có gia đ́nh đă định cư từ lâu lắm rồi, song có lẽ ít ai gốc gác Kẻ Chợ quá năm, sáu đời nay ! Tuy nhiên, khi cái ṿng lẩn quẩn khép lại, th́ những gia đ́nh vốn chỉ là dân buôn bán, gốc gác "tứ chiếng", từ nông thôn lên kia, lại muốn duy tŕ một thứ nề nếp nào đó - mà thật ra họ không có - như một kiểu " học làm sang ", một cách làm cho "phải đạo" mà thôi ! Họ cũng dạy con cái "ăn nói" sao cho dịu dàng, lễ độ, phép tắc, v.v. và cũng chính họ mới là những người quan tâm đến truyền thống ẩm thực nhất, và biết... ăn quà nhất ! Tầng lớp thương gia, tiểu thương, thủ công nghệ, vẫn luôn luôn đóng một vai tṛ tích cực trong đời sống đô thị. C̣n những gia đ́nh thật sự là cổ ở Hà Nội, th́ trước hết là rất hiếm, sau nữa, là v́ đă là nhà gia giáo, ông bà cha mẹ có chút ít Khổng học, th́ giáo dục ở trong nhà cũng nghiêm khắc hơn, ăn uống cũng thanh đạm hơn, con cái có khi không được ra ngoài đường để ăn quà nữa !

Hà Nội luôn luôn có những cư dân mới đến nhập cư, từ trong Thanh, trong Nghệ, Quảng Nam, Quảng Ngăi , thậm chí có cả những người tập kết từ trong Nam ra rồi ở hẳn lại ngoài này. Đấy là chưa kể những đợt di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị từ những năm 54-55 trở đi, đă du nhập đến đây nhiều tập quán lai tạp, xô bồ, từ trong cách ăn nói, cách phát âm, cho đến phong cách ăn, mặc. Bây giờ "lời ăn tiếng nói" của người Hà Nội cũng không c̣n như xưa nữa!

Nói chung, từ ngày đất nước thống nhất, văn hoá ẩm thực cũng đă thừa dịp giao lưu tự do, thoải mái! Chẳng thế mà từ nhiều năm nay, ở các "chợ vỉa hè" Hà Nội, thấy có đầy những hàng bán trứng vịt lộn, người ngồi ăn x́ xụp, điều mà trước kia không bao giờ có ! Cũng như những hàng "cơm bụi", trước kia đâu có? Có chăng là những hàng " cơm b́nh dân " dành cho người lao động, thường cũng là những hàng quán kín đáo, chứ không khi nào lại lấn ra vỉa hè ! Có lẽ truyền thống "cơm bụi" đă được nhập trực tiếp từ nông thôn, rập theo khuôn mẫu các hàng quán ở " chợ quê " chăng ?

Có phải v́ Thăng Long là chốn đế đô cũ, là đất " ngàn năm văn vật ", mà người Hà Nội xưa có tập quán ăn uống " thanh lịch " và " kén chọn " không ? Điều này có thể là đúng ít ra về mặt " thanh lịch ", c̣n ăn uống " kén chọn " lại là một chuyện khác nữa, và có những lư do khác. Kẻ Chợ do là nơi tập trung nhiều truyền thống ẩm thực từ nhiều nơi đem đến, cho nên người Hà Nội có cái thuận lợi là có được một sự chọn lựa rộng răi. Những ǵ không ngon đều bị loại đi ngay, c̣n những ǵ mới mẻ, độc đáo cũng phải trải qua một cuộc thử nghiệm khe khắt rồi mới được sự đồng thuận của mọi người ! Tôi không tin rằng cái gu ẩm thực của người dân Kẻ Chợ trước kia đă chịu một ảnh hưởng đáng kể nào của các triều đại vua chúa đă từng ngự trị ở đây ! Có chăng, th́ cái ảnh hưởng đó cũng không phải chỉ một chiều. Có những quà " tiến " vua, như nhăn lồng Hưng Yên, vải thiều Thanh Hà (nghe nói vải thiều của ta đă được đưa sang " cống " vương triều nhà Đường (618 - 906), từ thời Dương Quí Phi. Những thức ngon, vật lạ này thực ra cũng chỉ là những sản phẩm do nhân dân sản xuất ra, tiếng đồn lan truyền, rồi đến một lúc nào đó trở thành quà tiến vua. Song, chắc hẳn cái sự kén chọn của các tầng lớp quí tộc đă ảnh hưởng trở lại lên cái gu của quần chúng.

Ngược lại, cái gu dân dă của "thị dân", do không bị ràng buộc bởi những ước lệ g̣ bó, nên đến một tŕnh độ phát triển nào đó, lại hấp dẫn, chinh phục được thị hiếu của các vua chúa : Ngay từ thời Trần, thỉnh thoảng đêm hôm vua vẫn cải trang đi chơi ra ngoài hoàng thành thăm những khu dân ở; thời vua Lê chúa Trịnh, các chúa đều xây cung điện ngay ở trong khu của dân. Không biết thời đó đă có các hàng quà chưa? Đặc biệt là đă có phở chưa? Các vua chúa cải trang đi tối, có dám dừng lại ăn quà ở ngoài phố không? Đó cũng là những điều bí ẩn, mà ngày nay ta chỉ có thể phỏng đoán, chứ không thể nào khẳng định được! Song, cứ nh́n vào kinh nghiệm lịch sử của các nước khác mà suy xét, th́ điều đó chắc hẳn đă phải có. Ở Nhật, khi thành phố Edo trở thành kinh đô mới, khi tầng lớp phú thương, những "nhà giàu mới" rủng rỉnh tiền bạc, có đôi chút uy quyền, lại muốn " học làm sang ", th́ cái gu ở đây cũng xuất phát từ tầng lớp thị dân mới này, chứ không phải từ tầng lớp quí tộc nữa: Lúc đó tranh khắc gỗ "phù thế" được tôn vinh, làm lu mờ hẳn đi những bức tranh cổ điển, lỗi thời và buồn tẻ, của các vua chúa. Cũng như khu thanh lâu nổi tiếng của kinh thành Edo thời đó cũng đă hấp dẫn không biết bao nhiêu là các vương hầu, khanh tướng ! Cũng vậy, ở Trung Quốc, khi vua Càn Long nhà Thanh cải trang du hành một ḿnh tới Giang Nam, th́ nhà vua cũng đă có dịp quan sát, học hỏi được không biết bao nhiêu điều kỳ thú trong đời sống thường ngày của nhân dân.

Một thí dụ cụ thể khác, để thấy rằng cái gu ẩm thực của người Hà Nội luôn luôn được nuôi nấng, bổ sung bởi cái gu dân dă của các "vùng quê gốc" của ḿnh. Chiếc bánh chưng mà người dân Hà Nội thường ăn, thường gói và luộc vào tối giao thừa, chỉ được cái thanh cảnh, c̣n th́ không phải là thứ bánh chưng ngon nhất. Ở dưới Thái Hà ấp, nhà bà ngoại tôi, tôi đă từng được ăn một thứ bánh chưng gói theo truyền thống của làng Bông, Hưng Yên, bánh gói dẹp, to gấp đôi gấp ba, và ngon hơn nhiều, nhất là bánh chưng đường!

Mấy thí dụ nêu trên cốt chỉ để minh chứng rằng cái gu dân dă của quần chúng, dẫu là cư dân "tứ chiếng", đôi khi cũng có một ảnh hưởng quyết định.

Trở lại câu hỏi: Tại sao Hà Nội lại có nhiều hàng quà, và cái truyền thống hàng quà này đă có từ bao giờ ?

Ai cũng biết, cái tên Hà Nội mới chỉ có từ thời vua Minh Mạng (1830). Trước kia, người ta thường gọi nơi này là Kẻ Chợ, tên chữ Thăng Long chỉ để dùng trong các văn tự hành chính, hoặc trong văn chương, từ thời nhà Lư trở đi (1010).

Cái tên Kẻ Chợ nôm na, quê mùa, thoạt nghe hơi lạ lạ, nhưng xét cho cùng, lại thấy là rất chính xác!

Hà Nội không biết từ bao đời nay vẫn là một nơi trao đổi buôn bán giữa thành thị và nông thôn, nơi hàng hoá, vật dụng, thức ăn, thức uống, hoa quả, và hàng quà (nhất là hàng quà !), đổ về từ mọi miền đất nước. Phần lớn các mặt hàng là để phục vụ cho người dân thành phố, song cũng có những mặt hàng dành cho khách từ nông thôn lên mua. Bởi thế cho nên, để bảo đảm cái chức năng ấy, Kẻ Chợ không chỉ gồm có các phường nghề, các chợ, mà c̣n có cả một hệ thống các hàng rong nữa.

Các phường sau này trở thành phố buôn bán, với các cửa hiệu chuyên về từng thứ mặt hàng một, như : Hàng Gạo, Hàng Khoai, Hàng Đậu, Hàng Bún, Hàng Đường, Hàng Bột, Hàng Cá, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Gị, Hàng Cau (Hàng Bè), Hàng Cân, Hàng Bồ, Hàng Bát, Hàng Khay, Hàng Than,...

Các chợ, thường được bố trí ở những nơi giao thông thuận tiện, như chợ Gạo ở bờ sông Cái, chợ Bắc Qua, chợ Bạch Mă ở bờ sông Tô Lịch, trước kia trên bến dưới thuyền tấp nập. Các chợ khác, như chợ Đồng Xuân, chợ Cửa Nam, chợ Hàng Da, chợ Hôm, chợ Mới Mơ, chợ Bưởi, v.v. đều nằm dọc theo các đường tầu điện nối liền trung tâm thành phố với các cửa ngơ thông ra ngoại ô.

Một số hàng rong, hàng quà được sản xuất ở ngay tại các phường phố cổ, hoặc ở các làng nghề ngoại thành, chẳng hạn như : Bánh gai Hàng Bè; bánh gị Đờ Măng (Phùng Hưng); bánh cốm Hàng Than; phở, bánh tôm, bánh cuốn nhân thịt, bún chả, xực tắc, xôi lúa, xôi xéo, xôi lạc, xôi dừa, xôi lạp xường, gị, chả, bánh giầy gạo, bánh gị, bánh tây pa-tê, kẹo vừng, kẹo bột, kẹo lạc, ô mai, lạc rang (phá xang), tầu phở, thạch đen, thạch trắng, chè chân châu glacé, sấu dầm, kem que, xề cớ, lục tầu xá, chí mà phù, bát bảo lường xà, bánh ḅ chêm, thịt ḅ khô, lốc bểu, v.v. Nhưng một số sản phẩm khác lại được đem đến từ những vùng nông thôn xa, như: Bánh giầy Quán Gánh (Bần Yên Nhân), bánh cuốn Thanh Tŕ (Hà Đông), cốm Ṿng, bánh đậu Hải Dương, nhăn Hưng Yên, vải thiều (Thanh Hà, Hải Hưng), cam Bố Hạ (Phú Thọ), đào Sa Pa, hồng, mận Lạng Sơn, bưởi Nghệ, Biên Hoà, xoài Cao Lănh (Tiền Giang), v.v. Một số hàng quà quen thuộc khác ở Hà Nội mà tôi không c̣n nhớ nơi xuất xứ, như: Bánh trôi, bánh chay, bánh mật, bánh do, bánh gai, bánh khúc, bánh đa, kê, bỏng, bánh đúc nộm, riêu cua, bún bung, bún ốc, v.v. chắc cũng từ các vùng ngoại ô đem vào. Quê ngoại tôi, làng Cói, bên Bắc Ninh, có mấy nhà làm bỏng, kẹo x́u, kẹo lạc, đem lên Hà Nội bán, nhưng chắc c̣n nhiều nơi khác chuyên về làm bỏng hơn.

Hàng quà, hàng bánh truyền thống ở Hà Nội tuy nhiều thế, nhưng người Hà Nội cũng đă để lọt không "chấm" hết được tất cả các món quà ngon của các vùng quê xung quanh, lẽ ra cũng hợp với khẩu vị của họ, như món bánh đúc nóng hành mỡ, chẳng hạn: Năm 1944, khi trường tôi dọn xuống Tương Mai, để tránh bom Mỹ-Nhật, tôi đă được nếm một món bánh đúc nóng hành mỡ ngon tuyệt vời ở đây. Chưa bao giờ tôi được ăn một món quà sáng ngon như thế ! Bánh đúc nóng được đổ vào một chiếc bát đàn rất nông, và được rưới hành mỡ nóng lên trên ! Trông th́ đơn giản, nhưng nếu gánh đi bán ở trên đường phố Hà Nội, th́ không biết phải sửa soạn trước ra sao, và rồi bày bán ra sao ? Có lẽ v́ quá diệu vợi và kém năng suất, cho nên người ta mới không đem cái món quà này lên tỉnh bán !

Nói về các hàng quà ở Hà Nội, để cho dễ phân biệt, có thể chia ra làm : quà sáng, quà trưa và quà tối. Tuy nhiên, có những món quà ăn suốt ngày được, như: Phở, bánh cuốn, xôi, v.v., nhưng thông thường, đứng về mặt hàng quà, th́ buổi sáng thường có: Phở, bánh tôm, bánh tây cặp patê, xúc xích, bánh tây thịt ḅ nấu ragu (một phát minh vào những năm 1940), bánh tây cặp bánh tôm rưới nước mắm dấm (cũng là một phát minh của đám học tṛ vào những năm 40), bánh cuốn Thanh Tŕ, xôi xéo, xôi lúa, xôi lạc, lạp xường lồ mái phàn (xôi lạp xường). Quà buổi trưa có: Bún chả, bún riêu, bún ốc, bún thang, xực tắc, cháo lươn, bánh đa kê, bánh xèo, bánh đúc nộm, bánh dầy đậu, bánh trôi, bánh chay, bánh gai, bánh mật, bánh do, bánh giầy gị chả, bánh rán, bánh quế, thịt ḅ khô, bỏng, kẹo (kẹo bột, kẹo vừng, kẹo x́u, kẹo lạc, kẹo kéo, kẹo hồng, kẹo mạch nha), mùa nực có các thứ kem que, thạch, chè... Quà tối có: : Phở, cháo gà, bánh giầy bánh gị, lúa rang hạt dẻ, chế mà phù (chè vừng đen), lục tầu xá (chè đậu đăi), chè hạt sen, bát bảo lường xà, mùa nực có món xề cớ (một thứ sorbet au citron), các loại kem que, thạch, chè chân châu glacé, v.v.

Đấy là c̣n chưa kể các món quà đặc biệt, đến mùa mới có, hoặc chỉ mỗi năm có một lần vào dịp lễ, tết, như: Cốm Ṿng, rượu nếp, chè lam, v.v. Cũng như chưa kể các thứ hoa quả, và các thứ củ ăn chơi theo mùa, như : na, ổi, nhăn, vải, mít, dứa, khế, hồng, đào, xoài, mơ, mận, doi, lựu, cam, quít, sấu, chám, dâu da, hồng b́, dưa bở, dưa hấu, v.v. Các thứ củ như : củ đậu, củ bột, củ sắn, củ dong, củ ấu, khoai lang, khoai xọ, khoai môn, v.v.

Nhà tôi nằm ngay giữa một phố buôn bán không quá đông đúc và ồn ào như các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, nên dễ quan sát được các hàng rong, hàng quà đi ngang qua, và dễ nhận biết được những tiếng rao của họ trên đường phố.

Có những hàng quà không cần phải rao, mà người ta vẫn phải t́m đến mua ở những địa điểm cố định, nơi các hàng này đặt gánh mỗi ngày. Đó là những hàng phở, bún chả, bánh tôm, bánh cuốn, bánh rán, xôi xéo-xôi lúa, bún riêu, bún ốc, v.v.

Ngược lại, có những hàng quà khác th́ lại luôn luôn có tiếng rao, như: Lạp xường lồ mái phàn, bánh giầy bánh gị, bánh trôi bánh chay, phá xang (lạc rang), kẹo vừng kẹo bột, tàu phở, lục tầu xá, chí mà phù, kem que, xề cớ, lúa rang hạt dẻ,v.v. Hàng xực tắc đặt gánh ở một phố rồi cho người đi khua mơ rao khắp các phố xung quanh bằng hai khúc tre cật ngắn, gơ vào nhau phát ra hai thanh âm khác nhau nghe "tục tắc, tục tắc".

Tiếng rao ngân dài nhất và giàu âm điệu nhất có lẽ là tiếng rao của hàng "lạp xường lồ mái phàn". Tiếng rao về đêm âm thầm và buồn bă nhất là tiếng rao "Giầy ... gị". Tôi c̣n nhớ, có một đĩa hát của nhà Thiên Nhiên hồi đó bắt đầu bằng những tiếng rao này, lại c̣n có cả tiếng chó sủa nữa, bọn trẻ chúng tôi thường nghe đi nghe lại, lấy làm thích thú lắm.

  • Văn Ngọc

Kiến trúc cổ Hà Nội

Ở Việt Nam, ngoài Hội An, chỉ có Hà Nội là c̣n giữ được một số ngôi nhà cổ. Do khí hậu, thời tiết, chất liệu, nguyên vật liệu xây dựng và do cả chiến tranh, diện mạo của khu phố cổ như hiện thấy chỉ có từ cuối thế kỷ XIX. Nhưng theo các nguồn sử liệu khác nhau th́ khu phố này đích thực là nhân lơi của kinh đô Thăng Long từ khi mới thành lập, tức là đă có tới gần ngàn năm tuổi.

Nói về địa giới không gian khu phố cổ th́ có thể coi đó là một h́nh tam giác cân có đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía đông là đê sông Hồng, cạnh phía tây là phố Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, c̣n là trục Hàng Bông - Hàng Gai - Cầu Gỗ. Trước khi người Pháp đến, các phố đều chung một dáng dấp, chi chít dọc ngang kiểu bàn cờ, phần lớn mang tên gọi của mặt hàng sản xuất hay kinh doanh tại những nơi đó: Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Bồ...

Tất cả các ngôi nhà hai bên đường đều theo kiểu "nhà ống". Nhà như một cái ống, bề ngang hẹp, chiều dài sâu có khi thông ra một ngơ khác, phố khác. Bố cục cũng tương tự như sau: Gian ngoài là chỗ bán hàng hoặc làm hàng. Tiếp đó là một khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng. Trên sân có bể cạn (trong có ḥn non bộ, thả cá vàng), quanh sân là các cây cảnh, giàn hoa. Gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối vào đó là khu phụ. Phần lớn là nhà một tầng lợp bằng những viên ngói nhỏ nhắn, với nét đặc trưng là hai bức tường hồi vượt lên khỏi mái, xây dật cấp như những bậc thang và đầu nóc là hai trụ đấu. Cũng có một số nhà xây thêm tầng gác nhưng thấp và không mấy khi trổ cửa sổ, nếu có th́ rất nhỏ (v́ các triều đại cũ cấm dân không được nh́n mặt vua, nhất là nh́n từ trên cao, khi vua ngự giá trên đường).

Nhà ống ở khu phố cổ Hà Nội bé nhỏ, b́nh dị, vừa là xưởng sản xuất thủ công, vừa là nơi sinh hoạt của gia đ́nh. Người mua kẻ bán vào mọi thời điểm, đem lại cảnh tượng tấp nập và nhà cạnh nhà, liền mái, liền tường, sum vầy nâng đỡ nhau. Cái hấp dẫn của khu phố cổ Hà Nội chính là tổng thể do người xưa đă sắp xếp thành một cơ thể đầy sống động, khăng khít, gắn bó, kề tựa mà tồn tại, sinh sôi... Bên cạnh các nhà ống c̣n phải kể tới các đ́nh chùa, đền miếu rải rác trong nhiều đường phố. Những công tŕnh này trước hết là các nơi thờ của các làng thôn phường cũ, như đ́nh 38 Hàng Đường là của làng Đức Môn, một làng mà phố Hàng Đường chạy qua nay là chùa Huyền Thiên. 54 Hàng Khoai là chùa của làng cùng tên, nay là đất đai phố Hàng Khoai. Các công tŕnh đó phản ánh gốc gác của cư dân kinh thành từ nhiều nơi khác về làm ăn, như đ́nh Hoa Lộc 90 Hàng Đào là của phường nhuộm màu ở Đan Loan (Hải Hưng) lập ra, đ́nh Tú Đ́nh Thị 2A ngơ An Thái là nơi thờ tổ nghề thêu dân làng thêu Quất Động (Hà Tây) dựng nên...

Mặt khác, sự tồn tại của các đ́nh miếu c̣n là bằng chứng về tâm linh người Hà Nội cũ. Bên cạnh sự hoà đồng với tự nhiên và cộng đồng xă hội, người Hà Nội luôn luôn t́m cách hoà đồng với một thế giới tâm linh, v́ cùng với một không gian đô thị vật chất, vẫn tồn tại một không gian đô thị mang màu sắc huyền thoại, thiêng liêng, ở đó có thể giao hoà cùng với quá khứ chứa chất sức mạnh tiềm ẩn.

Ngày nay, qua các biến động của lịch sử, qua sự thích ứng với đời sống xă hội, khu phố cổ có biến dạng, nơi ít nơi nhiều, song bóng dáng của thời xưa dù chỉ là của thế kỷ XIX song cũng đă là dư trăm tuổi vẫn c̣n lưu lại ở dăm căn nhà này, ở vài đoạn phố kia và đặc biệt ở cái không gian văn hoá vẫn đậm đà hương vị cổ. Cho nên, khu phố cổ với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn xinh xắn, những con đường ăm ắp người đi, những đền chùa mái cong mềm mại, lại c̣n cả những không gian, cây xanh mượt mà và ngọt ngào hương... tất cả đă làm nên một vẻ đẹp chỉ thành phố Hà Nội mới có.

Từ cuối những năm 80 thế kỷ XX, khi có chính sách đổi mới, đời sống kinh tế được cải thiện, việc buôn bán phát triển, rất nhiều nhà trong khu phố cổ bị sửa chữa và xây lại với kết cấu cột sàn bê tông ba, bốn tầng làm mất dần vẻ đẹp kiến trúc cổ kính truyền thống.

Khu phố cổ Hà Nội vẫn là một "kỷ niệm" mà người xưa gửi cho người ngày nay để rồi truyền lại cho đời sau. Chính quyền thành phố đang có những dự án để bảo vệ và tôn tạo quỹ đô thị quư hiếm này.

  • VietNamNet

Thành cổ Hà Nội - những thăng trầm lịch sử

 Chúng ta biết ǵ về khu vực Cấm thành mà Bộ Quốc pḥng vừa bàn giao cho TP Hà Nội cuối tháng tư vừa qua - khu di tích được giới khoa học đánh giá là tiêu biểu nhất cho bề dày văn hóa, bản sắc văn hóa Việt Nam?

Năm 1010, sau khi lên ngôi vua, Lư Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên là Thăng Long. Thực hiện Chiếu chỉ của triều đ́nh, nhân dân Thăng Long đă tham gia đắp đất, xây thành.

Ngay từ đầu, thành Thăng Long được chia thành hai phần: Hoàng thành và Kinh thành, trong đó Hoàng thành nằm trong ḷng Kinh thành-là nơi Vua ở và làm việc của Triều đ́nh. Trong Hoàng thành lại ngăn thành một nơi gọi là Cấm thành, có tường xây kiên cố và bảo vệ nghiêm ngặt, thời Lư gọi là Long thành, thời Trần gọi là Long Phượng thành.

Trong Hoàng thành các đời vua đều cho xây dựng những cung điện nguy nga, tráng lệ. Ngoài ra, các Vua Lư c̣n cho đắp nhiều ngọn núi đất trong đó có nơi trở thành danh thắng như núi Nùng, núi Thái Ḥa…

Dưới thời nhà Lư, ngoài những đợt xây dựng quy mô lớn vào các năm 1011, 1029, 1203 Hoàng thành thường xuyên được tu sửa, xây mới hầu như đời vua nào cũng làm, năm nào cũng làm.

Điện Kính Thiên

Kinh thành Thăng Long thời Lê vẫn là kinh thành Thăng Long thời Lư, Trần… những công tŕnh cũ đă hư hại th́ được sửa chữa lại, công tŕnh nào bị phá hủy th́ được xây mới, tất cả đều mang đặc điểm, phong cách kiến trúc, mỹ thuật thời Lê.

Các vua thời Lê cho mở rộng Hoàng thành vào các năm 1473, 1490, 1514.

Chính giữa Hoàng thành là điện Kính Thiên xây dựng năm 1428, là nơi Vua cùng triều thần bàn việc nước. Bên phải điện Kính Thiên là điện Chí Kính, phía sau chếch về bên trái là điện Vạn Thọ. Trước điện Kính Thiên là điện Thị Triều-nơi quan lại chuẩn bị vào chầu Vua. Phía ngoài điện Thị Triều là Đoan Môn có hai cửa Đông Tràng An và Tây Tràng An ở hai bên ăn thông ra hai hướng đông và tây trong Hoàng thành.

Sang thế kỷ XVIII, Hoàng thành bị sụt lở nhiều, khi quân Tây Sơn ra Thăng Long, các cửa thành đă đổ nát gần hết chỉ c̣n lại hai cửa Đại Hưng ở phía nam và Đông Hoa ở phía đông. Nhà Nguyễn lên ngôi, Thăng Long từ vị trí Kinh đô của quốc gia trở thành trấn thành rồi tỉnh thành.

Mất vai tṛ trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế… các công tŕnh trong Hoàng thành phải thay đổi quy mô.

Năm 1805, vua Gia Long lệnh phá bỏ thành cũ, xây lại theo kiến trúc của Pháp. Các công tŕnh trong thành được bố trí kế thừa những di tích của triều đại trước: Chính giữa vẫn là điện Kính Thiên. Thềm điện Kính Thiên cao ba cấp, có chạm những con rồng bằng gỗ. Gần điện có Hành Cung là nơi Vua ngự mỗi khi kinh lư Bắc thành. Từ điện Kính Thiên đi ra là Đoan môn, cấu trúc gồm ba cửa trong đó cửa chính giữa dành cho nhà Vua, hai cửa nhỏ dành cho các quan lại. Hai đàn Xă và Tắc để tế trời đặt bên trái ngoài Đoan Môn cùng một Đ́nh bia ghi công trạng của vua Gia Long.

Năm 1805 Vua Gia Long cho xây dựng Kỳ Đài (Cột Cờ) gần Đ́nh bia. Để xứng tầm với một “tỉnh thành”, năm 1831 Vua Minh Mạng ra lệnh hạ thấp tường thành và đổi tên là thành Hà Nội.

Năm 1848, Vua Tự Đức cho phá dỡ các cung điện c̣n lại trong thành, những đồ chạm khắc mỹ thuật bằng gỗ, đá đều đưa về Huế, chỉ c̣n sót lại rồng đá ở điện Kính Thiên…

Qua bao thăng trầm của lịch sử, Hoàng thành đă chịu nhiều biến cố, tác động xấu đến diện mạo, quy mô các công tŕnh kiến trúc. Phong kiến phương bắc nhiều lần tiến công cướp phá Thăng Long và để lại những hậu quả nặng nề, các công tŕnh kiến trúc bị phá hủy, tư liệu vật thể bị cướp.

Cuối thế kỷ 13, quân Nguyên-Mông nhiều lần cướp phá Thăng Long. Sang thế kỷ XIV (năm 1371 đến 1378), quân Chiêm Thành đă bốn lần đem quân tấn công đốt phá kinh thành. Trong t́nh trạng hoang tàn ấy, nhà Hồ (năm 1397) lại quyết định dời đô về Thanh Hóa…

Đặc biệt trong 20 năm xâm lược, nhà Minh đă phá nát cung điện, đền chùa, bảo tháp… lấy đồng đúc vũ khí…

Khi giặc Pháp đóng chiếm trong điện Kính Thiên, củng cố tường chung quanh thành pháo đài kiên cố. Chúng cho phá điện, xây nhà chỉ huy pháo binh, Đoan Môn bị Pháp sửa biến thành trại lính…

Cuối cùng, năm 1893, thực dân Pháp lại quyết định phá bỏ toàn bộ tường thành. Trong 62 năm (từ 1892 đến 1954) đóng quân trong thành, người Pháp với tư tưởng thực dân đă biến Thành cổ Hà Nội thành một khu quân sự, một trại lính. Hầu như tất cả các công tŕnh cổ c̣n lại đă bị biến thành nhà ở hoặc phá bỏ lấy đất, gạch xây các công tŕnh quân sự, nhà ở cho các sĩ quan, binh lính, kho tàng…

Từ Hoàng thành trở thành trại lính Pháp, diện mạo kiến trúc Thành cổ đă bị phá nát gần như hoàn toàn. May mắn c̣n sót lại cho đến nay dấu vết của Kỳ Đài (Cột Cờ), Đoan môn, nền điện Kính Thiên, Bắc Môn thời Nguyễn v́ chúng được sử dụng vào mục đích quân sự...

(Theo ND, QĐND)

Phát hiện thêm dấu vết lâu đài rất cổ của kinh thành Thăng Long

(VietNamNet) - Khi tiến hành khai quật ở hố B16 (400m2) thuộc địa điểm dự kiến xây dựng toà nhà Quốc hội mới, nhà khảo cổ học Bùi Vinh (Viện khảo cổ học) đă phát hiện một toà lâu đài 3 tầng lầu, 4 mái, dạng h́nh tháp toạ lạc trên một diện tích xấp xỉ 1000m2 (hai chiều ngang dọc, mỗi chiều dài trên 30m) thuộc hệ thống các cung điện Thăng Long xưa. Theo đánh giá của ông Bùi Vinh th́ đây là công tŕnh đầu tiên, có tầm cỡ và giá trị nhất được t́m thấy từ trước đến nay ở Việt Nam.

Việc phát hiện ra lâu đài này được coi là bằng chứng rơ ràng nhất về sự hoành tráng của kinh thành Thăng Long từ thời Lư-Trần.

Hố khai quật B16: Dấu vết cấm thành?

Trên mặt bằng đă đào được của hố B16 đă có nhiều dấu vết của thời Tiền Thăng Long (tương ứng thời thuộc Đường với những mảng nền gạch đặc trưng của thời kỳ này, đặc biệt có gạch Giang Tây Quân đă được dùng để xây dựng kinh đô Hoa Lư.

Lâu đài t́m thấy được cho rằng có từ thời Lư, đến thời Trần đă được cải tạo lại và sau đó bị tiêu huỷ do cháy. Những dấu vết đă thu thập được cho thấy lâu đài này nằm ở trung tâm khu vực hoàng thành và cấm thành của Thăng Long xưa, kéo dài từ thời Lư đến thời Lê. Xây chồng lên khu vực này là một công tŕnh khác của thời Lê.

Nhà khảo cổ Bùi Vinh cũng tiết lộ ''ngay tại hố B16 cũng đă xuất lộ nền kiến trúc thời Lư ngay khi kinh đô được dời từ Hoa Lư tới Thăng Long. Thêm vào đó, tại khu vực này có rất nhiều di vật h́nh Phượng, Rồng: Biểu tượng của hoàng tộc. Đây có thể coi là nơi vua ngự đến để thăm hoàng hậu''.

Thêm vào đó, tại hố B16 cũng đă t́m thấy một hệ thống trụ móng, chân tảng đá hoa sen trong đó có trụ trung tâm. Một chân tảng duy nhất trong khu khảo cổ này có h́nh chữ thập ở giữa thể hiện tính chất trung tâm với mặt tiền quay về hướng Nam. Theo lư thuyết, các cung điện của bậc đế vương, đặc biệt của Trung Quốc và Việt Nam đều quay về hướng Nam. Theo thuyết phong thuỷ, quay về hướng Nam không chỉ mát mẻ mà c̣n là hướng trị v́ thiên hạ, hướng hưng thịnh. Nghiên cứu các kinh đô của TQ từ thời Hán đến sau này, các cung điện đều quay về hướng Nam. Cung điện có rất nhiều toà ngang dăy dọc nhưng trục chính vẫn theo hướng Bắc - Nam.

Mặc dù trước đây các nhà khảo cổ đă đoán định được di chỉ này nằm trong khu vực Hoàng thành, thậm chí là cấm thành Thăng Long suốt từ thời Lư, Trần đến Lê nhưng do tiến hành khai quật quá nhanh khiến cho nhiều tầng lớp kiến trúc không thể hiện rơ.

Hoàng thành Thăng Long cổ có quy mô lớn hơn Huế?

Trung tâm KHXH&NV quốc gia đă đánh giá rất cao các di chỉ này qua bản báo cáo được thực hiện hết sức công phu mới đây có tên Kinh đô Thăng Long. Báo cáo này cũng đă so sánh di tích cung điện của kinh đô Thăng Long với một số cung điện đă được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

Theo Trung tâm KHXH&NV quốc gia, so sánh diện mạo kiến trúc Di sản Cố đô Huế với Thăng Long, dù mới chỉ so sánh qua b́nh đồ kiến trúc và vật liệu trang trí kiến trúc, cũng có thể nói rằng kiến trúc cung điện của kinh đô Thăng long có phần to lớn và hoành tráng hơn nhiều cung điện ở Cố đô Huế. Ví dụ: Điện Thái Hoà nơi thiết triều của triều đ́nh nhà Nguyễn được xem là đại diện tiêu biểu cho kiến trúc Hoàng cung Huế to lớn, đồ sộ khác thường cũng chỉ có diện tích: 1305m2 (dài 43m, rộng 30m) hay cung Diên Thọ nơi ở của các Hoàng Thái Hậu cũng có kích thước dài 35m, rộng 26m. Trong khi đó, dấu vết nển móng kiến trúc của một toà cung điện vừa phát hiện ở Thăng Long (khu A) đă có chiều dài 62m, rộng 30m (chưa kể phần kiến trúc đang c̣n tiếp tục nằm dưới đất chưa đào.

Cũng theo so sánh, đánh giá của Trung tâm KHXH&NV quốc gia, cung điện và kinh thành của Thăng Long có lịch sử lâu đời hơn, quy mô lớn rộng và đẹp hơn kinh đô Nara, Di sản Thế giới của Nhật Bản.

  • Bích Hạnh

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17