Đại Mỗ quê tôi

Cử nhân khoa học  NGÔ NHƯ SẤM.
Ngonhusam.png
Tác giả trong ngày lễ hội đình Đại Mỗ
Nhân dân trong vùng phía Tây Nam thành Thăng Long xưa, thường truyền tụng câu ca dao: “Mỗ, La, Canh, Cót tứ danh hương”. Dịch nghĩa: Bốn làng là làng Mỗ, làng La, làng Canh, làng Cót là bốn làng quê có tiếng. Mỗ còn được vinh danh ở thứ hạng bậc nhất trong bốn làng kể trên, bởi đất Mỗ là một nơi nổi tiếng về sự hiếu học và bởi đất Mỗ là quê hương của nhiều bậc đại khoa có nhiều đóng góp cho cho dân tộc, đất nước qua các triều đại nhà nước phong kiến. Câu ca “nhất Mỗ, nhì La, thứ ba Canh, Cót” là nói về ý đó.

Mỗ ở đây chính là làng Thiên Mỗ thuộc Tổng Đại Mỗ, Phủ Hoài Đức,Tỉnh Hà Đông ngày trước. Đến thời vua Tự Đức (1829-1883), ông vua thứ tư của triều Nguyễn đã đổi tên làng từ Thiên Mỗ (
天姥) thành Đại Mỗ (大姥). Đại Mỗ nay thuộc huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội . Từ ngày 17-12-2013 là Phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội .
Ở vùng châu thổ đồng bằng Bắc bộ nói riêng và rộng ra cả nước nói chung, không phải làng quê nào cũng có một ngôi đình để làm nơi hội hè, tế lễ thờ phụng, tri ân những bậc tiên hiền có công với nước với dân. Những vị được thờ phụng đó gọi là thành hoàng làng. Vì điều kiện nào đó mà có khi hai ba làng mới xây dựng tạo lập được một ngôi đình để thờ chung một vị thành hoàng.
Làng Đại Mỗ có riêng một ngôi đình làng. Đình làng Đại Mỗ với diện tích trên 4000 mét vuông, tọa lạc trên một khu đất cao ráo rộng rãi, thoáng đãng ở khu vực đầu của xóm Đình (nay là Tổ dân phố 1 Đình).
Image result for làng Đại Mỗ   
Image result for làng Đại Mỗ   

Đình làng Đại Mỗ khởi thủy thờ vị thiên thần là đức Thủy hải long vương, sau phối thờ vị nhân thần là Ả lã nàng đê, vị nữ tướng tài ba của Hai bà Trưng. Đến nửa sau thế kỷ XVIII, lại phối thờ thêm ba vị nhân thần nữa là ba bố con, ông cháu vị đại vương họ Nguyễn Quí là ngài Nguyễn Quí Đức, ngài Nguyễn Quí Ân và ngài Nguyễn Quí Kính. Đó là những người có nhiều công trạng trọng công cuộc dựng nước và giữ nước thời Lê Trung Hưng.
Đình có 10 đạo sắc phong của nhà vua, phong thần cho các vị thành hoàng làng từ thời Cảnh Hưng đến thời Khải Định .
1. Lịch sử hình thành làng Đại Mỗ và đình làng:
Đình làng là một cuốn sách thiêng lưu giữ và mở ra kỷ niệm của bao thế hệ sinh ra, lớn lên và chết đi ở làng quê này. Nó gắn bó người ta với nhau, nó giúp người ta thêm yêu nơi chôn rau cắt rốn của mình, nó nhắc nhở người ta tự hào và thương nhớ cội nguồn. Những người tha hương cũng nhớ về quê qua hình ảnh ngôi đình làng.
Ngày trước, đình làng được coi như là một trung tâm của mọi sự kiện trong làng. Ngày nay, tuy nó không còn có vị trí như trước nữa, song về mặt tâm linh, nó vẫn còn có giá trị rất thiêng liêng trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi con người.
Làng Đại Mỗ ngày xưa có tên là làng Thiên Mỗ. Đến thời Tự Đức (1829-1883), do kiêng kỵ nên nhà vua quyết định đổi tên thành Đại Mỗ (do chữ Thiên
bớt đi một nét ngang mà thành chữ Đại (), Ở kinh đô Huế, nơi đất thần kinh đế đô của nhà Nguyễn lúc đó đã có một địa danh mang tên “Thiên Mụ”( chùa Thiên Mụ), chữ Mỗ( ) cũng đọc là “Mụ”. Có lẽ nhà vua muốn “độc quyền” cái tên đó cho riêng mình nên quyết định đổi ra thế chăng? Vả lại cái chữ “thiên” là trời, “mụ” là mẹ, nghĩa chung là “mẹ trời” nghe ra cũng không thuận và có ý “phạm thượng”. Nên nhà vua quyết định cho Thiên Mỗ cái tên mới là: Đại Mỗ (大姥).
Có một thực tế là xung quanh địa phương ta, hay nói rộng ra là ở trên hầu khắp đất nước ta, tên đất, tên làng, các cụ thường chỉ dùng một tên Nôm để gọi như Mỗ, La, Canh, Cót, Trôi, Gối, Nhổn, Vạng….Nếu là tên làng hay vùng miền thì thêm từ “kẻ” (một khái niệm chỉ về đơn vị hành chính ngày xưa – (mà không có ý khinh miệt rẻ rúng ), như kẻ Mỗ, kẻ La, kẻ Vạng…Nếu là chỉ về vật thì thêm từ chỉ gọi tên vật đó như: cầu thì có Cầu Đỏ, Cầu Ngang, Cầu Triền, Cầu Ngà, Cầu Đôi, Cầu Diễn, Cầu Am …nếu là quán thì thêm tên Quán La, Quán Gánh, Quán Toan, Quán Tròn, Quán Gỏi, …và nếu là đống thì Đống Tranh, Đống Trụi, Đống Bằng, Đống Biện, nếu là tha ma thì gọi là Mả Lọ, Mả Xuyên, Mẩ Cụt, Mả Kiệt …. nếu là chùa chiền thì gắn thêm tên chùa như Chùa Cả, Chùa Thuông, Chùa Sét… Sau này, một số địa danh được các nhà Nho đặt tên bằng tiếng Hán (còn gọi là tên chữ) như Chùa Trùng Quang, Chùa Quỳnh Lâm ( Tức chùa Cả, ở Đại Mỗ, Chùa Kim Liên, Chùa Dưới ở Tây Mỗ ). Mặc dù có chữ Hán gọi thay thế các địa danh đó, nhưng nhiều nơi vẫn giữ nguyên tên Nôm một âm, hoặc song song gọi cả tên Nôm lẫn tên Hán (thường có hai âm trở lên).

Việc chuyển đổi từ tên gọi nôm na (một âm ) thành tên chữ âm Hán (thường từ hai âm trở lên ) là do nhiều nguyên nhân, hoặc do kiêng kỵ (huý kỵ) hoặc do tên Nôm gợi một ý thô, tục thì người ta đổi đi và cũng có thể vì một lý do nào đó như muốn thể hiện một khát vọng gì đấy của cộng đồng mà đổi đi như sau Cách mạng tháng Tám 1945, có nhiều địa phương đổi tên thành thôn Hạnh Phúc, xã Độc lập, xóm Hoà Bình . Hoặc để ghi nhớ công lao của các vị anh hùng tiền bối thì ghi tên các vị đó như thôn Phù Đổng Xã Hưng Đạo, Xã Lê Lợi, Xã Trần Phú, xã Trường Chinh ….
Từ Mỗ là một từ Nôm cổ rất xa xưa. Từ đó suy ra, đất Mỗ là đất cổ. Theo một số nhà nghiên cứu và một số di chỉ đào được quanh vùng Mỗ thì đất này có từ thời Việt cổ, nghĩa là đất Mỗ có thể có người Việt cổ sinh sống cách đây trên 2000 năm.
Lại có câu : “Bẩy làng La, ba làng Mỗ”. Từ sau khi Thiên Mỗ được đổi thành Đại Mỗ thì địa giới hành chính của Đại Mỗ được mở rất rộng vì được mang một danh xưng là “Tổng Đại Mỗ”thuộc phủ Quốc Oai, tỉnh Hà Đông. Bảy làng La trong vùng Mỗ thì đã rõ đó là : La Dương(còn gọi là La Dang), La Nội, La Cả, La Phù, La Tinh, La Dụ , La Khê . Riêng “Ba làng Mỗ” thì quanh vùng không thấy có. Tuy nhiên, hiện hữu vẫn thấy có tên Mỗ Lao, Ái Mỗ, Thượng Mỗ, Hạ Mỗ …. Nhưng xét về mặt địa lý thì các địa điểm này cách khá xa khu “Tổng Mỗ”.Vậy chỉ có thể, khi nói tới “ba làng Mỗ” là nói ngay tới làng Đại Mỗ hiện nay, gồm các xóm: xóm Đình, Ngang (Khế Ngang), xóm Chợ (Huyền Phố), xóm Tháp và xóm Chùa, (An Thái) mà nay gọi là thôn (thôn Đình, thôn Ngang, thôn Tháp, thôn Chợ, thôn An Thái thuộc Phường Đại Mỗ ). Hồi đó chưa có thôn Giao Quang trước đó gọi là “Kẻ Quánh”. Do ngày nay có nhiều con đường mới mở, hình thành sự chia cắt địa lý hình thể bản đồ nên ta không hình dung ra ba làng Mỗ ở đâu .
Ngày trước, khi phân định làng, các cụ thường dựa vào yếu tố địa hình, địa vật để phân chia. Căn cứ vào địa hình, địa vật mà chủ yếu là hình thế dải đất cao thấp mà phân định địa giới thì “ba làng Mỗ”sẽ là :
1-Xóm Đình + xóm Ngang là một làng Mỗ thứ nhất ( khi này chưa có đường 70 chia tách hai xóm như ngày nay).
2- Xóm Tháp, xóm Chợ, phân cách là hai dải đất trũng: cánh đồng Rộc Sặt, Rộc Sửa là làng Mỗ thứ hai.
3- Xóm Chùa (An Thái ) về phía Bắc của xóm Đình, phân cách bởi con ngòi Tùng Khê, là lầng Mỗ thứ ba.
Và như thế là cũng hợp với cách nói:“một xã ba thôn” mà dân gian ở địa phương ta thường gọi.
Cũng có thể là một giả định khâc: nói “bảy làng”, “ba làng” là cách nói theo dân gian hay dùng từ bảy, ba để nói về một số nhiều vô định, ví như cha mẹ hay mắng con: chân đi ba làng bảy chợ như thế mà không rửa lại leo lên giường đi ngủ à? Hoặc hú ba hồn bảy vía ông X ở đâu thì về nhập thần cụ . Hay chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba v…và v .v. Vì thế có thể nói là câu nói “bảy làng La ba làng Mỗ “ của các cụ là cách nói cho có vần mà thôi.
(Trên đây mới chỉ là giả định của tác giả về khái niệm ba làng Mỗ, xin được sự chỉ giáo thêm của các vị thức giả gần xa)
Về sau này, do số dân Mỗ phát triển, nhu cầu về sinh hoạt của cộng đồng dân cư tăng lên, nên một số làng thôn quanh vùng Mỗ mới được hình thành, như Tây Mỗ (phía Tây làng Đại Mỗ), Ba Đông (Phú Thứ) (phía đông làng Tây Mỗ). Địa giới do đó được được mở rộng như ngày nay.
 
Image result for làng Mỗ\

Cổng Phượng làng Tây Mỗ

Image result for làng Mỗ
Tây Mỗ

Sở dĩ có sự giả định trên là căn cứ váo các chứng cứ như: cả ba làng trên đều thờ chung một vị thành hoàng là vị Thuỷ Hải long vương (riêng đình làng Phú Thứ còn thờ cả bà Ả Lã Nàng Đê, ba vị đại vương họ Nguyễn Quí, (giống như đình làng Đại Mỗ thờ các vị trên ) ngoài ra ta còn thấy các làng trên còn có mối dây liên hệ thân tộc rất gần gũi với nhau, có dòng họ vốn trước ở Đại Mỗ sau di cả hoặc một phần sang các làng bên như họ Nguyên, họ Đỗ vv..khiến ta có thể suy đoán ra như vây.
Về việc tìm ra gốc tích nguồn cội khởi thuỷ của làng Đại Mỗ thì chưa có đủ tài liệu tin cậy để xác định.
Có ý kiến cho rằng đất Thiên Mỗ đầu tiên là Xóm Ngang còn gọi là Khế Ngang. Đây là đất do một người, hoặc một nhóm người) thuộc dân tộc Mường (Hoà Bình hay Thanh Hoá ) đến đây lập ra. (Hiện tượng thiên di tự nhiên trong xã hội ngày xưa . (vì nhiều lý do, có thể là do gia đình đông con, một trong số những người con đó tách ra tìm nơi đất để sinh sống, có thể để tránh hiềm khích nội bộ trong họ tộc, làng xã, có thể tránh nạn bị trả thù ( có nhiều trường hợp phải đổi họ đổi tên để tránh hoạ chu di do chế độ phong kiến đề ra như trường hợp nhiều người họ Trịnh ở Thanh hoá để tránh cuộc trả thù của tập đoàn phong kiến nhà Lê . Cụ thể dòng họ Nguyễn Thiện (ông Việt, ông Túc, ông Thạc…), Nguyễn Minh (Giảng- chủ tịch xã ), Nguyễn Tài… ở Đại Mỗ là do họ Trịnh ở Thanh Hoá thiên di ra đây lập nghiệp ) .
Người Mường ấy sinh cơ lập nghiệp ở đây, họ còn để lại những di ấn như gọi mẹ là “mệ” sau đó có sự chuyển ngữ, gọi chệch ra thành “mả”. Do đó làng ta có tên các tha ma là mả Hà, mả Cụt, mả Khay , mả Lọ…. Và ngay tên Khê Ngang cũng là do họ đặt ra để tưởng nhớ tới một dòng suối quê hương cũ của họ là vùng Đường Ngang ,Thổ Khối ở Hoà Bình, hay Thanh Hoá gì đó.
Ngay chữ “thiên”, chữ “mỗ” cũng cần được hiểu theo một nghĩa khác, chứ không phải chỉ là chữ thiên (
) là trời . Chữ “thiên “ còn một nghĩa nữa là “di dời “(). Chữ “Mỗ” là một từ cổ có tính chất phiếm chỉ .Vậy đây là vùng đất chưa có tên cụ thể .
Sau này, thấy “Thiên mỗ” hay “Đại Mỗ” có thể định danh được nên thành tên làng chăng? ( Nên nhớ quanh vùng ta thấy có nhiều tên làng có chữ “Mỗ” như Mỗ Lao, Ái Mỗ , Thượng Mỗ, Hạ Mỗ …)
Trên đây cũng chỉ là ý kiến giả định của cá nhân người viết, xin được các cụ bô lão trong làng ngoài xã và các vị thức giả chỉ bảo thêm.
Nhưng căn cứ vào các di chỉ do việc khảo sát của các cơ quan khảo cổ tìm ra trên đất này, căn cứ vào các truyền thuyết dân gian của địa phương do các cụ cao niên kể lại hoặc qua sử sách, thì có thể nói đất Mỗ có từ cách nay trên hai ngàn năm.
2- Vị trí địa lý :
Xã Đại Mỗ ở vị trí phía Nam huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội, giới hạn trong khoảng 105 phút 45 giây kinh độ Đông 20 phút 59 giây vĩ độ Bắc. Tiếp giáp với 7 xã Tây Mỗ, Mễ Trì, Trung Văn (thuộc Từ Liêm), Văn Mỗ, Vạn Phúc, Văn Khê ( thuộc thị xã Hà Đông) và Dương Nội (thuộc huyện Hoài Đức )
Thôn Đình (có Đình Đại Mỗ) nằm trong Xã Đại Mỗ. Phía Nam giáp đường quốc lộ 72 thuộc thôn Chợ và Thôn Tháp, phía Tây giáp đường quốc lộ 70 thuộc thôn Ngang (Khế Ngang), phía Bắc giáp Ngòi Tùng Khê, phía Đông giáp con đường mới mở từ Uỷ Ban xã nối với đường cao tốc Thăng Long qua cầu Đôi, nay gọi là đường Sa Đôi.
Đình làng Đại Mỗ toạ lạc ở vị trí gần như trung tâm của làng, trên một khu đất cao, rộng diện tích toàn bộ là trên 4000 mét vuông.
Đình Đại Mỗ là một quần thể kiến trúc nghệ thuật khang trang, bề thế, mang đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo. Đình làng là nơi đã chứng kiến nhiều cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng CSĐD chống lại ách thống trị áp bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến đế quốc những năm trước cách mạng tháng Tám 1945, cũng là nơi diễn ra nhiều cuộc mít tinh biểu tình ủng hộ chế độ mới, từng là nơi tiễn đưa hàng trăm nam nữ thanh niên của làng đi làm nhiệm vụ chiến đấu trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chính vì thế nên Đình làng Đại Mỗ mới được Bộ Văn Hóa và Thông Tin cấp bằng xếp hạng Di tich lịch sử cấp quốc gia ngày 21 tháng 6 năm 1993. (QĐ số 774 ngày 21-6-1993)
Trải bao biến cố thăng trầm của lịch sử, và qua nhiều lần tu tạo, đình làng mới có được diện mạo, hình thể khang trang như hiện tại.
3 - Về kiến trúc:
Đình làng Đại Mỗ ngày nay, sau nhiều lần tu tạo đã được khôi phục lại gần như nguyên trạng vốn có ngày xưa. Khu đình hình chữ tam (). Trông ra một hồ rộng lớn hình e-líp, diện tích trên 2000 mét vuông . Đình được xây dựng theo hướng Tây-Nam, bao gồm cổng tam quan, hai dãy dải vũ (tả mạc và hữu mạc) chạy theo sân gạch rộng rãi diện tích gần 350 mét vuông (sân trên lối cửa đình) và 150m2 (sân dưới giáp nhà đại bái).
Mặt trước cửa đình sừng sững hai cây cột trụ. Đỉnh cột trụ cao ngang với nóc nhà đại bái. Cột trụ có mặt cắt ngang hình vuông. Các trang trí được thể hiện trong các ô lồng . Chót đỉnh cột, đắp hình 4 con chim phượng, đuôi chụm vào nhau tạo thành trái giành giành. Đuôi phượng nhô cao. Bốn đầu phượng hướng ra 4 góc. Dưới hình phượng có 4 mặt hổ phù mắt nhìn ra 4 hướng. Sát với mặt hổ phù, ở 4 góc cột nhô ra 4 đầu rồng nhỏ. Thân cột trụ hình chữ nhật. Ba mặt có đắp nổi câu đổi lồng trong khuôn tranh. ( nội dung được ghi trong phần phụ chú). Đế trụ phình to, rất bề thế vững chãi, uy nghiêm. Hai cột trụ nhỏ hơn được xây ở góc giới hạn mặt tiền của đình. Các cột này có hình dáng giống như cột trụ lớn kể trên. Nối các cột là những mảng tường rộng, cao gần 2 mét . Trên nóc các mảng tường đắp hình chữ triện dây. Hai bên là hai “cổng pháo” (cửa nách). Cổng pháo có nóc dạng hai tầng, 8 mái , bốn góc là 4 đầu đao uốn cong rất thanh thoát. Qua cổng là hai sân rộng (hai cấp) lát gạch Bát tràng dẫn vào nhà đại bái. Dọc hai bên sân gạch phía trong là hai dãy nhà dải vũ (tả và hữu mạc) nằm song song, tạo với nhà đại bái hình chữ “môn” (
). Hai nhà tả mạc, hữu mạc mỗi nhà 5 gian, xây theo kiểu một đầu hướng ra phía cổng có đầu đao cong, đầu phía trong là đầu hồi “bít đốc”.
Bộ phận kiến trúc chính của đình có cấu trúc hình chữ “tam” (
) gồm nhà đại bái và khu hậu cung.
-Nhà đại bái có qui mô lớn kiểu hai tầng tám mái với các đầu đao cong ngược lên trời. Mái đình lợp ngói ta . Bờ nóc và các bờ dải đắp dãy hoa dây chạm thừng. Chính giữa bờ nóc có đắp mặt trời lửa trên đầu hổ phù. Hai con rồng chầu mặt trời, thân rồng uốn mềm mại, sinh động. Hai đầu hồi có hai đầu kìm hướng vào trong. Các đầu đao đều đắp hình rồng lá, rồng mây, rất sinh động. Phần cổ diềm ngăn cách hai mái là hàng chấn song con tiện bằng gỗ lim để tăng ánh sáng cho nhà đại bái.
-Bộ khung nhà đại bái được định vị vững chắc. Đỡ các mái trên là phần kết cấu gỗ dựng trên hai hàng cột cái. Hai vì hồi làm kiểu “cố mê đỡ hoành”. Các vì trong có dạng “chồng giường giá nghiêng”. Dưới câu đầu của mỗi vì lại vươn ra hai bẩy ngang ngắn. Các bộ vì nhà được liên kết bằng hệ thống xà đại thượng hạ chạy dọc theo diện tích của tòa nhà. Giữa các xà đại bao quanh có gắn các tượng nghê để gắn kết chúng và làm tăng thêm tính thẩm mỹ cho công trình kiến trúc cổ .
-Nhà đại bái có nền cao 0,60 mét so với mặt sân. Ba mặt lên xuống được bó bằng những phiến đá xanh hình hộp chữ nhật. Trong nhà đại bái được chia làm ba gian hai dĩ. Xung quanh nhà đại bái mở trống, thông với không gian bên ngoài (hiện tại xây tường bịt hai phía đầu hồi phía đông và tây nhà đại bái).Trên các gian là các bức hoành phi với các chữ đại tự như “Phong công mậu tích”( công trạng và thành tích rất to lớn), “ Tứ chính giao phù” (bốn phủ chính hợp sức phù giúp) “Trung quán thanh danh” ( Nơi thờ tự nững tên người nổi tiếng).
-Nhà tiền tế mới được trùng tu gồm 7 gian bày ba hương án. Phía trên là ba bức hoành phi, xung quanh các cột treo nhiều câu đối .
- Tiếp theo là nếp nhà nối giữa hậu cung và tiền tế, có ba chiếc sập gỗ, ba chiếc xây gạch, trên lát gạch hoa, để bày đồ lễ những ngày hội đình.
-Hậu cung (mới trùng tu những năm 2008-2010) xây gạch kiểu tường hồi bít đốc , mái lợp ngói ta. Trong nhà đặt ba hương án lớn cùng các đồ tế tự long ngai bài vị của các vị thần được thờ. Gian giữa để long cổn, bài vị, ngai thờ đức thiên thần Thủy hải long vương, và nhân thần bà nữ tướng Ả lã nàng đê. Gian bên phải để bài vị, ngai vị đại vương Nguyễn Quí Đức. Gian bên trái là ngai vị bài vì của vị đại vương Nguyễn Quí Ân ( con vị Nguyễn Quí Đức) và Nguyễn Quí Kính (con vị Nguyễn Quí Ân, cháu của vị Nguyễn Quí Đức).
Trang trí kiến trúc của đình Đại Mỗ được thể hiện tập trung trên tòa đại bái. Trong tổng thể kiến trúc này, ngoài các hình rồng, còn có các tượng hình con nghê được đắp nổi trên các đầu đao, bờ dải của các bộ mái. Phần kết cấu bộ mái bằng gỗ cũng được chạm khắc rất tinh xảo, công phu. Các hình lưỡng long chầu nguyệt, hình long li qui phụng được bố trí hợp lý. Bằng những nét chạm khắc mạch lạc dứt khoát tinh xảo, các nghệ nhân xưa đã đem lại sức sống, sự khỏe khoắn, sinh động cho các mảng điêu khắc của đình.
Đình Đại Mỗ xứng đáng là một công trình kién trúc nghệ thuật đặc sắc. Đó là niềm tự hào của nhân dân Phường Đại Mỗ nói riêng và của cả một vùng rộng lớn trong quận Nam Từ Liêm nói chung.
4-Lịch sử hình thành và phát triển :
Đình làng Đại Mỗ có từ rất xa xưa. Khi mới thành lập làng Đại Mỗ có hai ngôi đình. Một ngôi tọa lạc tại Xóm Chợ (chợ Mỗ tức chợ Khánh Nguyên xưa, ở phía sau cửa hàng Bách hóa Huyện) . Sau đó đình bị đổ nát, được giỡ bỏ (nguyên liệu còn dùng được đem về làm nhà ngang cho nhà thờ Nguyễn Quí ). Một ngôi tọa lạc tại Xóm Đình ở vị trí hiện tại ngày nay. Đình này trước đây được làm bằng tre nứa, lợp mái tranh. Năm 1932 bị bão đổ, sau đó các cụ và nhân dân toàn xã góp công sức xây dựng lại trên nền đất cũ. Công trình xây dựng trong hai năm mới xong và được khánh thành vào năm 1936.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đình làng bị thực dân Pháp chiếm đóng làm sở chỉ huy và làm kho quân dụng. Nảm 1953, trước khi rút chạy, chúng đã đặt mìn phá hủy ngôi đình. Toàn bộ khu hậu cung và tiền tế bị san bằng, may thay chỉ còn nhà đại bái là còn đứng vững với hàng trăm vết thương nặng trên tường. Cột kèo bị xô nghiêng, mái ngói bị đổ vỡ, tường vôi bị bong tróc.
Nhằm bảo tồn, lưu giữ một công trình kiến trúc có giá trị về nhiều mặt lịch sử chính trị, văn hóa, nơi đã gắn bó máu thịt thiêng liêng lâu đời trong đời sống tâm linh của bao lớp người dân Đại Mỗ nhiều thế kỷ qua, nay nhờ sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương và của toàn dân trong làng ngoài xã nên khu hậu cung và khu tiền tế bị giặc phá hủy ngày trước đã dược xây dựng lại trên nền đất cũ của đình. Công trình này được khởi công ngày 16 tháng 7 năm 1998. Cất nóc ngày 11 tháng 11 năm Mậu Dần 1999. Sau gần một năm xây dựng, công trình đã được nghiệm thu và đưa vào sử dụng. Ngày rằm, mùng một hàng tháng, nhân dân trong làng và khách thập phương đến chiêm bái, dâng hương cúng lễ. Đặc biệt, cứ năm năm một lần, vào mùa xuân nhằm ngày 10 tháng giêng âm lịch, làng mở hội tế lễ, rước kiệu rất long trọng trang nghiêm. Nhân dân rất phấn khởi hăng hái tham gia nhiệt tình.
Nhân dân Đại Mỗ rất tự hào về ngôi đình của làng mình, tự hào về một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc và gắn liền với nó là những trang sử hào hùng trong cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Đình làng Đại Mỗ thờ vị thành hoàng là vị thiên thần: đức Thủy Hải Long Vương (một trong 50 người con của mẹ Âu Cơ và đức Lạc long quân) Đình còn phối thờ các vị phúc thần là nhân thần như Bà nữ tướng Ả lã nàng đê (một trong các vị liệt nữ của Hai Bà ) và ba vị đại vương họ Nguyễn Quí là đại vương Nguyễn Quí Đức, Nguyễn Quí Ân và Nguyễn Quí Kính (ba bố con, ông cháu làm quan đồng triều thời Lê Trịnh )
Qua các triều đại phong kiến, đình được nhà vua phong sắc thờ phụng (hiện có 10 đạo sắc phong cho các vị thần hoàng làng. Các sắc phong này đang được lưu giữ tại nhà thờ họ Nguyễn Quí tại địa phương - do những năm đình làng bị thực dân Pháp chiếm đóng nên các cụ phải gửi các đồ tế tự và bằng sắc của đình đến nhà thờ họ Nguyễn quí để bảo quản và lưu giữ - mới chỉ nhận lại một số đồ tế tự đã gửi trước đó về để thờ ở đình , còn sắc phong thì vẫn chưa lấy về được – sẽ có kế hoạch nhận về để thờ trong đình, làm cho đình có linh khí thiêng liêng)
Ngô Như Sâm (23-12-2016)
 
Làng Đại Mỗ và  đình làng Đại Mỗ huyện Từ Liêm Hà nội
(Nay là Phường Đại Mỗ Quận Nam Từ Liêm 
Thành phố Hà Nội
Người biên soạn: Cử nhân khoa học  NGÔ NHƯ SẤM.
 
Diễn ca
Đẹp giàu Đại Mỗ quê ta
Tháng 3 Tân Mão năm 2011
 
Quê ta đẹp cảnh đẹp người,
Bốn mùa hoa trái tốt tươi hiền hoà.
Nhuệ Giang như dải lụa là,
Miệt mài chở nặng phù sa đắp bồi.
Tháng ngày dòng nước êm trôi,
Uốn quanh bờ bãi xanh ngời ước mơ.
Dâu tằm mươn mướt non tơ,
Triền đê phong cảnh đôi bờ như tranh.
Tùng Khê dòng nước trong xanh,
Hoa soi lộn bóng long lanh diệu huyền.
Một vùng cảnh trí thần tiên,
Hương bay bảng lảng tựa miền bồng lai.
Ruộng trong cho đến đồng ngoài,
Lô xô gò đống, ngắn dài thấp cao.
Miễu Sơn ngọn bút vút cao (1)
Đài nghiên soi bóng vẽ vào trời xanh.
Đống Tròn, đống Trụi, đống Tranh,
Đống Bằng, Đống Biện, xếp thành gò cao.
Trong làng ao nối tiếp ao,
Bước chân ngựa Gióng thuở nào đã qua ?
Mả Xuyên, Mả Lọ, Mả Hà,
Nghìn năm yên nghỉ ông cha bao đời .
Khắp làng 7 chiếc giếng khơi,
Nước xanh trong mát một thời nuôi ta.
Gốc Đề ngọn Muỗm, tán Đa,
Chứa bao kỷ niệm đậm đà tình quê.
Quỳnh Lâm (2)bên mạn Tùng Khê (3)
Tâm linh cõi phật đi về chốn không.
Hồ Đình lấp loáng gương trong,
Dưới hồ cá lội tung tăng từng đàn.
Thôn Đình, An Thái, Giao Quang ,
Thôn Tháp, thôn Chợ, thôn Ngang quây quần.
Đường quê nâng bước bàn chân,
Dập dìu nam nữ thanh tân dưới trời.
Nhà cao mái ngói đỏ tươi.
Dân cư đông đúc mặt người như hoa.
Đời vui trai gái trẻ già,
Làng quê yên ấm chan hoà tình thân.
Câu hò điệu hát vang ngân
Mỗi mùa xuân đến, mỗi lần hội sang.
Nhà thờ Nguyễn Quí khang trang,
Dấu son ghi đậm trang vàng Trịnh - Lê.
Đình cao lộng gió tứ bề,
Thành hoàng thờ đức Thuỷ tề Long vương.
Phối thờ liệt nữ ngoan cường,
Nàng Đê Ả Lã sáng gương tự hào.
Cùng là tam vị tài cao,
Đại vương họ Nguyễn công lao ai bì (4)
Nhà thờ minh thánh tổ nghề,(5)
Dạy dân canh cửi làng quê no lành.
Lĩnh, The đẹp nhất xứ mình,
Tiếng đồn dậy khắp thị thành vang xa.
Thông thương mở rộng giao hoà,
Giao lưu chắp nối gần xa mọi miền
Cầu Đôi, Cầu Đá, Cầu Triền,
Đôi bờ nối nhịp dưới trên trong ngoài.
Đường quan đá lát rộng dài,
Toả đi muôn nẻo, lên Đoài Xuống Đông.
Giao thông trên bộ dưới sông,
Tầu xe xuôi ngược khắp vùng gần xa.
Tự hào Đất Mỗ quê ta,
Bạn hàng tứ xứ vào ra dập dìu.
Bán mua trao đổi  sớm chiều,
Mặt hàng đủ loại, cung tiêu thoả nguyền.
Nhất vui là chợ Khánh Nguyên,(6)
Tứ mùa trên bến dưới thuyền đua chen.
Chào mời khách lạ người quen,
Lệ thường một tháng tám phiên rộn ràng.
Chợ quê trăm thứ mặt hàng,
Người đi, kẻ đến từng đoàn chung vai.
Bán mua nhộn nhịp trong ngoài,
Nông lâm sản vật nứa mai tre vầu,
Lợn gà ngan ngỗng bò trâu,
Tương cà mắm muối gạo dầu nồi xoong
Hàng xa bán tận Sài Gòn,
Hàng gần mua của bà con quanh vùng…
Dân tôi vốn nghiệp nhà nông,
Một năm hai vụ cấy trồng thảnh thơi.
Đói no miệng vẫn mỉm cười,
Tình làng nghĩa xóm trọn đời thuỷ chung.
Ngày xuân trống hội tùng tùng,
Trai thanh gái lịch tưng bừng chơi xuân
Mở lòng giao kết tình thân
Hiếu hoà, nhân ái, ân cần yêu thương.
Quê tôi, đất “Tứ danh hương”
Nhì La nhất Mỗ nêu gương trong vùng.
Vua ban “mỹ tục khả phong ” (7)
Chữ vàng còn đó sáng trong muôn đời.
Ai về Đại Mỗ quê tôi,
Đường xuân rộng mở xin mời cùng đi.
Tình quê thao thiết yêu vì,
Gửi trong câu hát vân vi đôi lời.
Người về…. người ở… người ơi            
 
Chú thích :
1-Miễu sơn: Đống Miễu to: hình ảnh giống như một chiếc bút lông viết lên trời.Đống miễu con: hình ảnh giống như chiếc nghiên mực.
2-Quỳnh Lâm tự : Còn gọi là chùa Trùng Quang hay Chùa Cả .
3-Tùng Khê: con ngòi chảy trươc cửa chùa, mùa hè,hoa thông nở rộ, hương bay thơm ngát một vùng.
4-Đình làng thờ  vị thành hoàng: Thuỷ Hải long vương, phối thờ các vị Ả Lã Nàng Đê và ba vị  đại vương họ Nguyễn  Quí.
5-Nhà thờ Thánh Sư: thờ ông tổ nghề dệt của làng.
6- Chợ Khánh Nguyên: tên cũ chợ Mỗ.
7-Sắc phong của vua Minh Mạng cho đất Mỗ  “Mỹ tục khả phong”
( phong cho nơi có tập tục tốt đẹp. ) .