| |
|
-
Lạng Sơn, Thắng Cảnh Thiên Nhiên
-
-
TRÙNG QUANG
-
-
Lạng Sơn thuộc Bắc Việt, cách Hà Nội 147 cây số. Đó là một tỉnh vùng
cao nguyên rộng lớn, núi rừng bao bọc có nhiều thắng cảnh thiên
nhiên, và là một tỉnh tại nơi biên giới Việt Hoa. Theo quân sử, Lạng
Sơn là nơi diễn ra những chiến trận lịch sử chống ngoại xâm từ ngàn
xưa đến thời cận đại.
-
Trước hết, tôi xin viết về thắng cảnh xứ Lạng.
-
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
-
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh”
-
Phố Kỳ Lừa cách tỉnh lỵ 2 cây số. Còn 3 hang động là Nhất Thanh, Nhị
Thanh và Tam Thanh, do thiên tạo.
-
Động Nhất Thanh nhỏ
nhất. Bên trong động có những mầm đá mầu trắng cao thấp. Cuối động
đặt bàn thờ Phật. Bên bàn thờ Phật có pho tượng bằng đá kỷ niệm Ông
Ngô Thời Nhiệm, một vị Tổng Trấn nơi biên giới từng có công giữ nước,
cứu dân tại nơi này.
-
Động Nhị Thanh –
Trong động rộng và cao, dưới đá mầu xanh nhạt. Suối nước từ trên cao
xuống róc rách, bốn mùa mát lạnh. Trong động thờ Phật.
-
Động Tam Thanh cao
trên 10 thước, cây rừng bao bọc, cành lá rợp bóng. Vách động có khắc
thơ cảm hoài của Ngô thi sĩ vào khoảng 1775, và thơ của sứ giả
Nguyễn Thuật đi sứ sang Trung Hoa đã đến ngoại cảnh đề thơ hoài cảm
khắc trên vách đá nơi cửa động vào năm 1980. Ngoài ra, có bia khắc
năm 1677 kỷ niệm quan Trấn Thủ tỉnh Lạng Sơn Vi Đức Thắng đã có công
trùng tu các thắng cảnh xứ Lạng. Tất cả các động đều thờ Phật, vì
vậy nên gọi là chùa.
-
Từ trên đỉnh động và hai bên vách có những nhũ đá nhiều màu sắc rất
đẹp. Trong động lúc nào cũng có gió mát lạnh với tiếng nước suối rơi
từng giọt xuống lòng động.
-
-

-
-
Trong thập niên 1940 – 1950, quân đội Nhật Bản kéo sang đánh Pháp
với chủ chương Đại Đông Á, đã mang một đại đội chiếm cứ Lạng Sơn.
Các động nơi họ trú ẩn đã bị phi cơ đồng minh khám phá dội bom nên
nhiều thắng cảnh thiên nhiên đã bị tàn phá. Những văn thơ lưu niệm
đã bị mai một qua thời gian chỉ còn lại một đôi bài còn ghi trong
sách sử:
-
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
-
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
-
Ai lên xứ Lạng cùng anh
-
Tiếc công Bác, Mẹ, sinh thành ra em.
-
Tay cầm bầu rượu nấm nem,
-
Mải vui quên hết lời em dặn dò.
-
Gánh vàng đi đổ sông Ngô,
-
Đêm nằm mơ tưởng, đi mò sông Thương.
-
Đọc sách sử, vần thơ này đã ghi chép như trên nhưng theo lời của một
vị giáo sư tại xứ Lạng, thì bài này còn bốn câu tiếp theo như sau:
-
Vào chùa dâng một tuần hương,
-
Miệng khấn, tay vái bốn phương trời này
-
Tôi đi tìm bạn tôi đây,
-
Bạn cũ chẳng thấy, bạn nay không chào.
-
Bài thơ có nhiều ẩn ý này không biết đã được sáng tác năm nào, cũng
như không biết tác giả là ai.
-
Núi Vọng Phu. Ngay
bên trên Động Tam Thanh có một ngọn núi giống như hình một thiếu phụ
ôm đứa trẻ nhỏ. Theo truyền thuyết, đó là nàng Tô Thị. Nàng Tô Thị
xưa kia có chồng đi lính chống giặc xâm lăng nơi biên giới. Nàng
thương nhớ, lo lắng nên ngày ngày bồng con lên núi hướng về biên
giới đợi đón chồng về. Nhưng năm tháng mỏi mòn, chồng nàng không trở
về nên nàng hóa thành đá. Núi gần ải quan nên ngọn núi được gọi là
núi Vọng Phu.
-
Có những đêm mù sương khói lạnh, du khách đến thăm tỉnh Lạng ngắm
trông lên ngọn núi Vọng Phu mờ tỏ nơi biên giới trong lúc đêm khuya
vắng, chợt thấy lòng bùi ngùi thương cảm.
-
Phố Kỳ Lừa cách
tỉnh khoảng 2 cây số. Thuở trước khi quân Tầu xâm chiếm, mãi cho đến
năm 1428, vua Lê Thái Tổ đánh đuổi giặc ra khỏi bờ cõi, cấm chỉ
người Tầu không được đến Lạng Sơn. Đến năm 1939, chợ lại mở rộng nên
cho phép một số người Tầu từ biên giới sang buôn bán tại chợ Kỳ Lừa.
Đây là một ngôi chợ ghi trang lịch sử chống xâm lăng tại tỉnh Lạng
Sơn.
-
Ải Nam Quan. Như trên đã viết, Lạng Sơn là một tỉnh vùng biên
giới rừng núi bao quanh. Đứng lưng chừng núi Mẫu Sơn, cao 800 thước,
trông sang Trung Quốc rất rõ. Cửa ải Nam Quan cách tỉnh Lạng Sơn 18
cây số. Tại nơi cửa Ải, có binh lính canh gác suốt ngày đêm, dưới
quyền chỉ huy của một tổng quản, gìn giữ và trách nhiệm biên thùy
với một đoàn quân thiện chiến trung dũng đề phòng giặc cướp nơi
ngoại giới tràn sang.
-
Ba năm trấn thủ lưu đồn
-
Ngày thì coi lính, tối bàn việc quan
-
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
-
Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai
-
Miệng ăn măng trúc, măng mai
-
Những tre cùng nứa, biết ai bạn cùng
-
Nước suối trong, con cá vẫy vùng…
-
Tại Ải Nam Quan xưa kia là nơi ông Nguyễn Trãi khóc biệt cha là cụ
Nguyễn Phi Khanh, bị quân giặc bắt làm tù viễn xứ sang tầu. Tại cửa
Nam Quan, ông Nguyễn Trãi đã khóc bái biệt cha rồi quay về tòng quân
quyết tâm phục quốc. Ông đã thắng và viết lên văn bản Bình Ngô Đại
Cáo.
-
Nhiều thế kỷ sau, người đọc sử cảm động về sự thống khổ của Nguyễn
Trãi khóc biệt cha đi tù viễn xứ nên đã viết thành nhiều thơ văn,
kịch bản. Dưới đây là mấy câu thơ viết tả về lời Nguyễn Trãi lạy cha
ở Ái Nam Quan. Lời thơ này viết từ đầu thế kỷ trước. Không rõ ai là
tác giả.
-
“Chốn ải Bắc lạnh lùng gió thổi
-
Kính lạy cha, con cúi giã từ
-
Cha đi gìn giữ thân già
-
Con về trả nợ nhà cho xong
-
Rồi đây sẽ cột đồn bia đá
-
Rạng nước nhà, rạng cả tổ tông
-
Quân thù xin quyết chẳng dung
-
Cha nơi khách địa, ắt lòng cũng vui”
-
Và cũng tại nơi đó, Thoát Hoan, là tướng giặc quân Mông Cổ đã bị
Phạm Ngũ Lão đánh đuổi phải giả trang bôi mặt, cạo râu chạy trốn về
nước qua cửa ải Nam Quan.
-
Quân Mông Cổ xưa kia là đoàn quân hung hãn chiếm cứ nhiều nước nhưng
khi đến nước ta thì bị thảm bại.
- ...........................
Nguồn: saigontimesusa |
|