|
ĐỊA DANH DU LỊCH BẮC NINH
2 -
ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH BẮC NINH |
NƠI PHÁT TÍCH NHÀ LÝ BẮC NINH:
Bắc
Ninh
một cái nôi văn hoá lớn của dân tộc Việt Nam, nơi phát sinh của một
triều đại mở đầu cho thời kì vàng son của dân tộc ta : Nhà Lý
Tại xã Cổ Pháp, huyện Tiên Sơn có một ngôi miếu mang tên là Lý Bát Đế,
tương truyền là nơi phát tích của nhà Lý
Lý Bát Đế nghĩa là tám vị Hoàng Đế đời nhà Lý. Tám vị đó gồm :
- Lý Thái Tổ (1010 — 1028)
- Lý Thái Tông (1028 — 1054)
- Lý Thánh Tông (1054 — 1072)
- Lý Nhân Tông (1072 — 1127)
- Lý Thần Tông (1128 — 1138)
- Lý Anh Tông (1138 — 1175)
- Lý Cao Tông (1175 — 1210)
- Lý Huệ Tông (1210 — 1224)
Sở dĩ chỉ thờ Lý Bát Đế mà không phải là Lý Cửu Đế (nhà Lý có tất cả 9
vị Hoàng Đế) vì Hoàng Đế cuối cùng là Lý Chiêu Hoàng chỉ ở ngôi một năm,
sau đó trở thành hoàng hậu của Trần Thái Tông (1226 — 1258). Cuối cùng,
bị đem gả cho Lê Trần (tức Lê Phụ Trần), sống cuộc đời bình dị.
LÝ CÔNG UẨN:
Vua nhà Lý, người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang. Sinh ngày 12/2 Giáp Tuất
(8/3/974). Ông là vua khai sáng nhà Lý, tức Lý Thái Tổ, lúc 35 tuổi.
Thân mẫu ông họ Phạm, năm 3 tuổi ông làm con nuôi sư Lý Khánh Văn, đến
tuổi trưởng thành ông thông minh, có tài văn võ. Làm quan nhà Tiền Lê
đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
Nhà Tiền Lê suy yếu vì Lê Ngọa Triều bạo ngược, thiêu thân là Đào Cam
Mộc ngầm mưu với sư Nguyễn Vạn Hạnh thường khuyên ông hãy sẵn sàng lật
đỗ nhà Lê. Đến 1009, Lê Ngọa Triều mất, ông cùng Hữu điện tiền chỉ huy
sứ là Nguyễn Đề đem 500 quân Tuỳ Long vào cung canh giữ. Nhân thời cơ,
Đào Cam Mộc giục ông hành động. Cuộc đảo chính thành công chớp nhoáng.
Ong lên ngôi vua, sáng nghiệp nhà Lý, dời đô ra thành Đại La (sau đổi là
Thăng Long — Hà Nội). Ong sửa sang chính trị, trọng dụng Đào Cam Mộc, gả
em gái là An Quốc cho phong tước Nghĩa Tín hầu. Mặt khác, ông cũng trọng
đãi tăng sĩ, chú trọng việc đúc tượng, xây chùa, thời kỳ này xem đạo
Phật như là quốc giáo.
Ngày 3/3 Mậu Thìn (31/3/1028), ông mất hưởng dương 54 tuổi, ở ngôi 19
năm, hiệu năm là Thuận Tiên.
--------------------------------------------------------------------------------
Y LAN - BẮC NINH:
Vợ Lý Thánh Tông, mẹ Lý Nhân Tông. Bà xuất thân từ một gia đình nông
dân quê ở Thổ Lỗi, Bắc Giang (sau đổi là Siêu Loại, Bắc Ninh).
Về họ tên thực của bà, sách Thơ văn Lý Trần ghi là Lê Thị Y Lan. Nhưng
theo Hoàng Xuân Hán trong quyển Lý Thường Kiệt thì :
“ Một học giả đời nhà Tống là Thẩm Hoạt đã ghi tên bà là Lê Thị Yến
Loan”. Tuy vậy Hoàng Xuân Hán cho rằng đây chỉ là ghi theo âm, nên có
thể chữ Yến Loan là do chữ Y Lan ghi chệch ra, cũng như Lý Thường Kiệt
chính quyển sách đó ghi thành Lý Thượng Cát.
Tương truyền nhân một chuyến vi hành đến Thổ Lỗi, Lý Thánh Tông bắt gặp
bà đang hái dâu. Trong lúc mọi người nô nức đi xem xa giá nhà vua. Riêng
bà vẫn đứng tựa gốc lan ra vẻ thản nhiên. Ngây ngất trước nhan sắc tuyệt
trần, Lý Thánh Tông cho tuyển vào cung lập làm phu nhân, đặt hiệu là Y
Lan (dựa gốc lan). Sau bà sinh hoàng tử Càn Đức (tức Lý Nhân Tông) và
trở thành Hoàng thái hậu.
Năm 1069, Lý Thánh Tông thân chinh chiêm thành, bà ở lại triều giám quốc.
Đánh mãi không thành công, nhà vua ngã lòng kéo quân về. Đến châu Cự
Liên, nghe tin bà trị nước có kết quả tốt nhà vua nói : “ Đàn bà còn làm
việc được, tài trai há chịu xoàng”. Rồi quay lại đánh bắt được vua Chiêm
là Chế Củ. Năm 1073, bà được phong là Linh Nhân hoàng hậu. Bấy giờ, vì
lòng ghen ghét, bà đã làm cho Dương Hoàng Hậu (vợ cả Lý Thánh Tông) và
76 thị nữ mắc tội chết oan. Sử gọi là án Thượng Dương Cung.
Năm 1805, bà tuần du khắp nơi với ý định quan sát tình hình sinh hoạt
cũa nhân dân. Đến năm 1087, bà xuất tiền trong phủ chuộc những người con
gái nhà nghèo phải đi ở đợ, rồi gả cho những người goá vợ, dân chúng
xưng tụng bà là “ Quan Am”.
Ngày 25/7/1117 bà mất. Qua tháng 8 làm lễ hoả táng rồi thờ tại thọ lăng.
Thụy hiệu là phù thánh linh nhân hoàng thái hậu.
Miếu thờ bà ở hai xã Cẩm Đới và Cẩm Cầu, thuộc Gia Lộc, Hải Dương (nay
thuộc Hải Hưng) gọi là cung Quỳnh Hoa.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA BÚT THÁP BẮC NINH:
Trên triề n
đê uốn lượn bên dòng sông Đuống hiền hòa, phóng tầm mắt nhìn về phía
đồng ruộng bạt ngàn, du khách sẽ thấy ngôi chùa cổ nằm ẩn núp trong lùm
cây cổ thụ. Đó là chùa Bút Tháp, một danh thắng ở xã Đình Tổ, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Đến nay các nhà sử học vẫn chưa tìm ra niên đại chính xác của chùa. Theo
sư trụ trì thì chùa Bút Tháp ra đời cách đây 2.000 năm nhưng theo Địa
chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278).
Thiền sư Huyền Quang, vị Quốc sư trẻ nhất thời Trần, trụ trì ở đây. Ông
cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Chùa Bút
Tháp (tên chữ là “Ninh Phúc Thiền tự”), là một trong những quần thể kiến
trúc bằng gỗ và đá hoàn chỉnh và còn nguyên vẹn nhất Việt Nam hiện nay.
Toàn bộ kiến trúc chính của chùa quay theo hướng Nam mà theo đạo Phật,
đây là hướng của trí tuệ, của bát nhã.
Được xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc", chùa Bút Tháp có: Tam
quan, gác chuông hai tầng 8 mái, tòa thiêu hương, Thượng điện, cầu đá,
tòa Cửu phẩm Liên hoa (Tích thiện am), nhà chung, phủ thờ và Hậu đường.
Tất cả gồm 10 tòa nhà, nằm trên một trục dài hơn 100m.
Ngoài ra, bên trái chùa là nhà tổ và tháp Báo Nghiêm. Lùi về phía sau có
tháp Tôn Đức cao 10 m, nơi đặt xá lợi Thiền sư Minh Hạnh, vị tổ thứ hai
của chùa. Nghệ thuật điêu khắc trên gỗ và trên đá ở đây đạt đến trình độ
tinh xảo. Nơi đây lưu giữ nhiều tác phẩm điêu khắc gỗ với kỹ thuật chạm
thủng rất hiếm có như bàn thờ hương án, các tấm gỗ chạm trổ hình rồng
phượng trên xà nhà thiêu hương ... Xung quanh tòa thượng điện có hàng
lan can đá gồm 26 bức phù điêu chạm trổ tinh vi những cảnh đẹp của thiên
nhiên đất nước với hình ảnh cò bay trên đầm sen, cá lội, trẻ chăn trâu…
Chùa Bút Tháp bảo tồn và lưu giữ nhiều bảo vật như: tượng Tuyết Sơn,
tượng Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền… và kiệt tác Quan Âm Thiên thủ
Thiên. Tượng cao 3,7 m bằng gỗ phủ sơn, tạc năm 1656, có 11 khuôn mặt,
994 tay với 994 con mắt nằm trong lòng mỗi bàn tay. Trên đỉnh tượng là
một đôi chim thần đầu người xòe cánh rộng áp vào nhau. Tượng đặt trên
tòa sen, do một con rồng vươn lên mặt nước đội đỡ.
Từ thượng điện, một chiếc cầu đá có ba nhịp uốn cong dẫn đến ngôi nhà
gọi là Tích thiệm am (chứa điều lành). Trên cầu có 12 bức phù điêu đá
chạm khắc hình chim muông hoa lá. Tích thiện am là một nhà có ba tầng,
có mái vòm mềm mại và vững chãi. Trong Tích thiện am, có cây Cửu Phẩm
Liên Hoa - Hoa sen chín tầng, là một tháp bằng gỗ cao 9 tầng như 9 đài
sen, 8 mặt đều đặn thể hiện 8 phương của nhà Phật. Chín đài sen tượng
trưng cho 9 cấp tu hành chính quả của Phật giáo.
Điều đặc biệt là nó có thể quay được và không hề phát ra tiếng kêu dù
được làm từ mấy thế kỷ, mỗi vòng quay của tháp ứng với 3.542.400 câu
niệm phật…
Với những giá trị độc đáo còn nguyên vẹn, chùa Bút Tháp không chỉ là nơi
để khách thập phương về hành hương, lễ Phật mà còn là điểm du lịch hấp
dẫn. Đến Bút Tháp và bắt đầu từ Bút Tháp, du khách có thể mở đầu một
chuyến tham quan, du lịch kỳ thú trên miền đất Kinh Bắc cổ xưa với thành
cổ Luy Lâu, Chùa Dâu - đất Phật, Lăng Kinh Dương Vương, xa hơn chút nữa
là làng tranh Đông Hồ đượm hồn dân tộc.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA CẢM ỨNG BẮC NINH:
Ngôi chùa ở xã Tam Sơn, huyện Từ Sơn có tên Cảm Ứng, xây trên đỉnh
một núi thấp ở trung tâm xã, có quan hệ mật thiết đến sự nghiệp vương
triều Lý. Theo “Thiền Uyển Tập Anh” viết vào thời Trần, Lý Công Uẩn đã
đưa Thiền sư Vạn Hạnh về lánh nạn để tránh sự truy bức của Lê Ngọa Triều.
Chùa còn là một trung tâm Phật giáo lớn, nơi trụ trì, hành đạo của nhiều
bậc Thế sư, Pháp tăng, có những đóng góp lớn vào việc xây dựng triều
chính và nền văn hóa truyền thống của dân tộc.
Những vấn đề trên được làm sáng tỏ khi Hội thảo khoa học chủ đề “Tam Sơn
truyền thống, lịch sử và hiện đại” được tổ chức ngay tại Tam Sơn ngày
5-6-2002 với sự hiện diện của nhiều Giáo sư, Tiến sĩ hàng đầu về khoa
học lịch sử (Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Minh Tường, Ngô Sách Các, Trần Lâm
Biền, Bùi Xuân Đính…); lãnh đạo Sở VHTT tỉnh, cán bộ Bảo tàng, Phòng
VHTT và nhiều cán bộ đầu ngành khác. 17 bản tham luận và ý kiến trong
Hội thảo khẳng định các giá trị văn hóa, lịch sử, kiến trúc của chùa.
Các tài liệu cho biết năm Tân Sửu (1061) Vua Lý Thánh Tông vì muộn con
đã về đây cầu tự, khi đó chùa có tên Ba Sơn. Năm 1063, Vua cho xây chùa
quy mô, đẹp hơn, trên diện tích 3.300 m2, 17 hạng mục, gồm 100 gian lớn
nhỏ, từ đấy có tên chùa Trăm gian. Cuối tháng 12-1972, chùa bị B52 của
giặc Mỹ đánh phá, làm hư hại, thất bát nhiều nội thất.
Theo các ghi chép lịch sử, chùa Cảm Ứng có nhà thờ Đức ông, Đức bà và
các công chúa; có Đền tây, Đền đông, Điện chính, Trung đường, nhà Mẫu,
Thượng điện, Tây biên, Đông biên, gác chuông, Tam bảo v.v… Chùa còn thờ
Sơn thần, Thành hoàng làng.
Gần đây chùa được tu bổ bằng nguồn kinh phí hơn 16 tỷ đồng của Nhà nước,
nhằm bảo tồn, phục chế một số hạng mục. Mặc dù còn hạn chế về ngân sách
nhưng được các cấp quan tâm, chùa Cảm ứng vẫn tiếp tục nhiều phần việc
chỉnh trang.
Tam Sơn hôm nay đã phát triển nhiều về kinh tế. Một tuyến đường dài hơn
3 km, nối tỉnh lộ 295 với 3 thôn Dương Sơn, Tam Sơn, Phúc Sinh mới hoàn
thành tạo thuận lợi cho giao thông đặc biệt là du lịch. Chùa Cảm ứng của
Tam Sơn ngày càng được nhiều người biết đến như một địa chỉ văn hóa của
vùng Kinh Bắc.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA CHA LƯ BẮC NINH:
Chùa Cha Lư tọa lạc ở phía đông nam làng Dương Lôi, xã Tân Hồng,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Căn cứ vào kết cấu kiến trúc và những di
vật hiện còn, các nhà sử học, khảo cổ học đã đánh giá chùa được xây dựng
từ rất lâu.
Ðặc biệt là chùa lại thờ Thánh Mẫu Phạm Thị, mẹ vua Lý Thái Tổ (Công Uẩn).
Ðầu xuân, vào ngày mồng 7 tháng Giêng, nhân dân lại tổ chức giỗ "đức
Thánh Mẫu, Tuyên Bảo Thái hậu, đương cảnh Thành hoàng" và cũng là ngày
hội chùa.
Chùa Cha Lư vốn là một quần thể kiến trúc nối tiếp nhau như: Tiền đường,
Tam bảo (Phật điện), gác chuông, nhà Tổ, nhà khách, nhà sư ở, bếp và
công trình phụ rồi đến sân và khu vườn chùa, v.v. Kiến trúc chùa Cha Lư
theo kiểu chữ quốc (nội công ngoại quốc). Hai dãy hành lang, một bên thờ
mười vua thập điện, một bên thờ 18 vị La Hán (đã bị dỡ bỏ) nay chỉ còn
lại nhà Tổ giáp với chính điện ở phía hồi sau.
Nhìn chung, chùa Cha Lư ở Dương Lôi không phải là ngôi chùa lớn, song
giá trị ở đây là ý nghĩa lịch sử. Căn cứ vào lời văn khắc trên quả
chuông đồng "Cha Lư tự chung" (chuông chùa Cha Lư), đúc lại ngày 13/3,
năm Mậu Tý (1828) đời vua Minh Mệnh, do cử nhân Trần Lại Phủ soạn có ghi
rõ:
"...Dương Lôi là ấp thang mộc Thánh Mẫu Lý triều, từ xa xưa đã có chùa
Cha Lư và chùa Càn Nguyên, cả hai chùa đều có bia, vào năm Bính Ngọ
triều Lý, đều đã bị thất lạc...".
Như vậy, nếu tính ra: trong 216 năm vương triều Lý thì có ba năm Bính
Ngọ (1066 - 1126 - 1186). Như văn chuông đã ghi, bia chùa mất một trong
ba năm trên thì thời gian muộn nhất cũng cách đây khoảng hơn 800 năm.
Ðiều này chứng minh rằng: chùa Cha Lư được xây dựng từ thời Lý.
Ngoài giá trị về lịch sử, chùa Cha Lư hiện còn lưu giữ được một số văn
bia, văn chuông và hoành phi câu đối, tượng Phật... rất có giá trị về
văn hóa. Trong đó, đáng kể là hai tấm bia đá và một quả chuông đồng.
Vừa qua, Nhà nước đã hỗ trợ đầu tư kinh phí cho nhân dân Dương Lôi trùng
tu và tôn tạo ngôi chùa khang trang sạch đẹp, xứng với giá trị lịch sử
văn hóa vốn có thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" và cũng là trách
nhiệm, là sự tôn kính với các bậc tiền nhân đã có công với dân với nước,
thiết thực tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA CHÂN LẠC BẮC NINH:
Chân Lạc xưa có tên là kẻ Chóa, vốn là một làng Việt cổ nằm ở bờ Nam
sông Cầu. Nơi đây từng là trung tâm kinh tế-văn hóa của vùng với những
khu chợ sầm uất trên bến dưới thuyền, những công trình văn hóa tín
ngưỡng, trong đó có ngôi chùa làng linh thiêng cổ kính.
Chùa Chân Lạc có tên chữ “Thiệu Khánh tự” nay thuộc thôn Chân Lạc, xã
Dũng Liệt, Yên Phong. Chùa tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 4.000m2
ở giữa làng, hướng Tây nam. Phía trước là chợ Chóa, bên cạnh là khu di
tích đền, đình của làng, xung quanh là những cây cổ thụ tỏa bóng mát
quanh năm, tạo không gian cổ kính linh thiêng cho ngôi chùa.
Theo văn bia có niên đại Đức Long năm thứ 2 (1630) hiện có lưu giữ ở đây,
chùa Thiệu Khanh được khởi dựng từ đời Đinh Tiên Hoàng (968-980) do công
lao động của một vị sư trụ trì họ Hoàng. Trải qua các thời kỳ lịch sử,
chùa Thiệu Khánh đã nhiều lần được trùng tu mở rộng. Đến thời Lê (TK17)
nơi đây đã là một danh lam cổ tự với nhiều hạng mục công trình như Tam
quan, Tiền đường, Thượng điện được trang trí trạm khắc tinh xảo, nghệ
thuật.
Đến nay, chùa Thiệu Khánh không còn được nguyên vẹn như xưa, dấu ấn kiến
trúc thời Nguyễn còn lại đó là tòa Tiền đường và Thượng điện liên kết
với nhau tạo thành hình chữ Đinh. Tòa Tiền đường 5 gian 2 chái, bộ khung
gỗ lim với 6 cột hàng cột ngang và 3 hàng cột dọc. Bộ vì theo kiểu thức
truyền thống “chồng rường, giá chiêng”. Nghệ thuật chạm khắc chủ yếu tập
trung ở các đầu dư với những hình rồng bán thân, miệng ngậm ngọc với
những nét đao mác mập, nhọn bay ngang. Đây là dấu ấn còn lại của ngôi
chùa Thiệu Khánh thời Lê. Nối với Tiền đường là 3 gian Thượng điện, kết
cấu kiến trúc của tòa này đơn giản, chủ yếu là bào trơn đóng bén.
Song giá trị nổi bật của ngôi chùa là ở hệ thống di vật cổ quý còn lưu
giữ tại đây. Đó là hệ thống tượng Phật của hai thời Lê-Nguyễn, là cây
hương đáo cao 2,05m đặt trước sân chùa dựng năm Kỷ Sửu (1796); là hệ
thống bia đá gồm 8 chiếc được dựng vào hai thời Lê và Tây Sơn (bia sớm
nhất có niên đại Đức Long năm thứ 2-1630, nội dung nói rõ quá trình xây
dựng chùa). Nhưng đặc biệt nhất phải kể đến chiếc hương án bằng đá xanh,
đây là một tác phẩm điêu khắc đá đặc sắc của thời Lê Trung Hưng (TK 18).
Hương án được đặt ở giữa tòa Tam Bảo, hình hộp chữ nhật gồm 5 phiến đã
xanh ghép lại. Mặt trên của hương án được ghép bởi hai phiến đá. Một
phiến có chiều dài 1,40m, rộng 0,85m, dày 0,22m, phiến thứ hai được ghép
thêm sau này có chiều dài 1.420m, rộng 0,22m. Hai bên hồi là hai phiến
đá xanh được tạo thành hai cái bia, ghi lại việc xây dựng và sửa chữa
chùa. Bia có chiều rộng 0,85m, cao 0,95m, dày 0,15m có mộng khớp với mặt
trên, mộng rộng 0,82m... Một bia có niên đại Vĩnh Thịnh thập nhị niên
(1716); một bia có niên đại Cảnh Thịnh (1793-1801). Mặt trước của hương
án là một phiến đá có chạm khắc cầu kỳ, tinh xảo nghệ thuật với 4 tầng
hoa văn. Trên cùng là các ô hình chữ nhật trang trí hoa văn cánh sen
nhiều lớp và hoa lá cách điệu. Tầng thứ hai được trang trí hình chim thú
trong đó rồng là con vật chủ đạo. Nhưng rồng ở đây lại được biến hóa
thành nhiều dạng khác nhau như “cá hóa long” (đầu là cá, mình là rồng,
hay đầu rồng, thân rồng nhưng đuôi lại là cá), “long mã” (đầu rồng mình
ngựa)... ở hai ô phía ngoài cùng các nghệ nhân lại chạm nổi đôi phượng
trong tư thế đang bay, rất sống động. Tầng ba được trang trí hình hoa
văn mây lửa. Tầng bốn là bệ án thư được trang trí hình mặt nguyệt ở
chính giữa, xung quanh được chạm nổi hoa văn mây lửa và đao mác.
Chùa Chân Lạc là một công trình tín ngưỡng văn hóa tiêu biểu của nhân
dân địa phương, những tài liệu hiện vật ở đây không chỉ giúp cho việc
tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử văn hóa của ngôi chùa và làng xã Chân
Lạc, mà còn là những di sản quý giá của quê hương đất nước góp phần làm
nên văn hiến Bắc Ninh-Kinh Bắc.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA DÂU BẮC NINH:
Chùa
Dâu đất Luy Lâu
Vùng đất cổ tích Dâu - Luy Lâu cách Hà Nội chỉ hơn
20km về phía đông, mang trong lòng bao câu truyện cổ.
- "Dù ai đi đâu về
đâu
- Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về
- Dù ai buôn bán trăm nghề
- Nhớ
ngày mồng tám thì về hội Dâu"...
Ai đã một lần đi về Thuận Thành, Bắc
Ninh, hãy một lần về thăm chùa Dâu, ngôi chùa cổ kính xưa nhất Việt Nam
này.

|
Chùa Dâu |
Theo ghi chép trong sách sử, bia đá, là ngôi chùa
Phật giáo cổ nhất Việt Nam, được xây dựng từ thế kỉ thứ 2 dưới thời Sĩ
Nhiếp làm thái thú. Chùa Dâu còn có tên là chùa Diên Ứng, thờ nữ thần
Pháp Vân nên còn gọi là chùa Pháp Vân, và nằm trong vùng đất Cổ Châu nên
cũng gọi là chùa Cổ Châu. Chùa gắn liền với truyện cổ tích Tứ pháp của
người Việt xưa.
Truyện rằng, thuở xưa nàng Man Nương ở vùng Dâu, vì thiền sư Khâu Đà La
bước qua người mà mang thai, sinh ra đứa con đem trả nhà sư. Thiền sư bỏ
đứa trẻ vào gốc cây dung thụ, lại đưa cho Man Nương cây thiền trượng có
thể làm phép lấy nước cứu dân bị hạn hán. Ngày cây dung thụ bật gốc trôi
về sông Dâu, thái thú Sĩ Nhiếp muốn vớt lên nhưng không sao làm được,
chỉ có nàng Man Nương dùng dải yếm buộc vào nhẹ nhàng đem lên bờ.
Từ thân cây thần kì ấy, người dân tạc bốn pho tượng Nữ thần Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, tức là bốn chị em thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp
của tín ngưỡng nông nghiệp, và đặt thờ ở bốn ngôi chùa Dâu, Đậu, Tướng,
Dàn. Giữa cây dung thụ còn một khối đá, gọi là Thạch Quang Phật, được
thờ chung ở chùa Dâu. Bà mẹ Man Nương khi mất được thờ trong chùa Tổ
cách đó không xa.
Từ câu truyện cổ đó, đã tạo nên một hệ thống chùa Tứ Pháp rất đặc biệt
của riêng người Việt: chùa thờ Nữ thần nông nghiệp, thờ người Mẹ Việt,
lấy tượng Nữ thần làm trung tâm chứ không phải là tượng Phật. Phật và Nữ
thần hòa quyện, bà mẹ của các Nữ thần cũng được tôn là Phật Mẫu Man
Nương.

|
Tượng cừu bằng đá bị mài mòn vết ở chùa
Dâu |
Kiến trúc chùa Dâu còn đến ngày nay được dựng dưới thời Trần, do trạng
nguyên Mạc Đĩnh Chi trùng tu. Bao quanh tòa điện chính chữ công là những
dãy nhà ngang, nhà dọc vây kín theo kiểu nội công ngoại quốc. Chính giữa
sân chùa trước bái đường, Mạc Đĩnh Chi đã cho dựng ngôi tháp Hòa Phong
cao chín tầng, nay chỉ còn ba. Ngôi tháp vuông xây bằng gạch trần, dáng
chắc khỏe nổi bật giữa khung cảnh xung quanh. Tháp tượng trưng cho ngọn
núi vũ trụ, bốn góc tháp có bốn tượng Thiên vương trấn giữ, trên tháp
treo một khánh đồng cổ.
Dưới chân tháp Hòa Phong có một bức tượng cổ hình một con cừu đá nằm quỳ
hai chân trước, được tạc từ gần 2.000 năm trước. Truyện rằng xưa Sĩ
Nhiếp có hai con cừu, khi ông chết đi, hai con cừu lang thang khắp ruộng
đồng, một con tìm được về lăng Sĩ Nhiếp nằm phủ phục, một con lạc đến
chùa Dâu không biết đường về nên ở luôn lại đó nghe kinh. Trên lưng cừu
đá có một vết lõm của rất nhiều thế hệ đã mài dao kéo lên đây.

|
Tháp Hòa Phong dựng từ thời Trần |
Trong chính điện chùa Dâu, pho tượng lớn nhất và đẹp nhất là bà Dâu - nữ
thần mây Pháp Vân. Pho tượng màu gụ, được ngồi trên tòa sen như tượng
Phật, nét mặt như một người mẹ hiền từ nhìn xuống, bàn tay phải đưa ra
như vỗ về an ủi, tay trái đặt trong lòng. Bốn phía tòa sen có các vòng
sắt để có thể di chuyển tượng trong ngày lễ hội. Tượng được phủ lớp áo
vàng, ngày hội khi làm lễ tắm tượng mới thay áo.
Phía trước là nơi đặt Thạch Quang Phật, bàn thờ trước nữa là người em
hai Pháp Vũ. Nguyên chùa Đậu bị phá thời Pháp, người dân đem tượng Pháp
Vũ về thờ chung với chị tại chùa Dâu. Hai bên bà Dâu còn hai tượng nữ
thần giữ chùa, để khi các Bà về thăm mẹ chùa có người coi sóc.

|
Tượng Nữ thần Pháp Vân tại chính điện |
Trong chùa Dâu còn hai pho tượng rất đẹp là tượng Kim đồng và Ngọc nữ,
với khuôn mặt sống động, đứng trong tư thế của một điệu múa cổ xưa, đặc
biệt tượng Ngọc nữ vấn khăn, rẽ tóc mang đậm tâm hồn người Việt. Ngoài
ra trong chùa chính còn rất nhiều các pho tượng cổ: tượng tổ sư
Tỳ-ni-đa-lưu-chi, tượng Mạc Đĩnh Chi, các pho Kim Cương, Hộ pháp. Tượng
Phật, Bồ tát, Thánh tăng, Đức ông được bày phía sau cũng là những tác
phẩm điêu khắc giá trị.

|

|
Tượng Ngọc nữ |
Tượng Kim đồng |
Chính hội chùa Dâu vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, cũng là ngày Phật đản
theo truyền thống cổ, nhưng lễ hội được tổ chức kéo dài từ mấy ngày
trước đó. Vào ngày hội, kiệu của các Nữ thần Pháp Vũ từ chùa Đậu, tượng
Pháp Lôi từ chùa Tướng, tượng Pháp Điện từ chùa Dàn tụ về chùa Dâu, rồi
cùng kiệu Pháp Vân đi đến chùa Tổ thăm mẹ Man Nương.
Trong bốn chị em, Pháp Điện trẻ nhất lại ở xa nhất, vì vậy bao giờ cũng
phải đi sớm hơn, nhưng bao giờ cũng đến chùa Dâu trước tiên. Còn khi đã
gặp chị cả Pháp Vân ở chùa Dâu, thì phải theo thứ tự mà đi về thăm mẹ.
Vì vậy xưa kia sân phía trước chùa rất rộng mới đủ chỗ cho các cỗ kiệu
và nghi trượng, tam quan ở tận bến sông Dâu. Ngày nay một phần đất chùa
cũng đã bị lấn chiếm, và tam quan chùa cũng lùi vào nhiều lắm.

|
Các vị Kim cương và Hộ pháp chùa Dâu |
Dân gian vùng Dâu đã có câu ca dao nhắc về chùa và hội chùa:
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Ai đã một lần đi về Thuận Thành, Bắc Ninh, hãy một lần về thăm chùa Dâu,
ngôi chùa xưa nhất Việt Nam. Và nếu vẫn chưa thỏa tâm nguyện, hãy tìm
đến với chùa Tướng, chùa Dàn cách đó không xa. Và đặc biệt là ngôi chùa
Tổ thờ người Mẹ Việt - Man Nương đã được tôn lên là Phật Mẫu. Nếu may
mắn, các bạn sẽ được nghe các cụ già trong chùa ngồi kể lại câu truyện
Phật Mẫu Man Nương qua bản thơ lục bát cổ xưa “Cổ Châu Phật bản hạnh”:
…Bốn chùa Sĩ Vương dựng làm
Trung trùng điện các tượng vàng tốt thay
Người ta hội họp rồng mây
Đôi bên phố xá xem tày cảnh tiên
Khai quang khánh tán mãn viên
Đặt làm lệ hội Tràng Yên thuở này…
(Theo TTO)
|