|
ĐỊA DANH DU LỊCH VĨNH PHÚC
- ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH VĨNH PHÚC |
Vĩnh
Phúc là tỉnh thuộc Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, phía Bắc
giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Nam giáp Hà Tây,
phía Tây giáp Phú Thọ và phía Đông giáp thủ đô Hà Nội. Tỉnh
có diện tích tự nhiên 1.371,41 km2, dân số trung bình năm
2004 có 1.161,7 nghìn người với 9 đơn vị hành chính, đó là
thành phố Vĩnh Yên. Có thị xã Phúc Yên và 7 huyện: Lập Thạch,
Tam Dương, Tam Đảo, Bình Xuyên, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Mê Linh.
Tỉnh lỵ của Vĩnh Phúc là thành phố Vĩnh Yên, cách trung tâm
thủ đô Hà Nội 50km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 25km.
Vĩnh Phúc nằm trên quốc lộ số 2 và tuyến đường sắt Hà Nội -
Lào Cai, là cầu nối giữa vùng trung du miền núi phía Bắc với
Thủ đô Hà Nội; liền kề cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua
đường quốc lộ số 5 thông với cảng Hải Phòng và trục đường 18
thông với cảng nước sâu Cái Lân. Vĩnh Phúc có vị trí quan
trọng đối với vùng KTTĐ Bắc Bộ, đặc biệt đối với thủ đô Hà
Nội: kinh tế Vĩnh Phúc phát triển sẽ đảm bảo vững chắc khu
vực phòng thủ cho Hà Nội; góp phần cùng thủ đô Hà Nội thúc
đẩy tiến trình đô thị hóa, phát triển công nghiệp, giải
quyết việc làm, giảm sức ép về đất đai, dân số, các nhu cầu
về xã hội, du lịch, dịch vụ của thủ đô Hà Nội.
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong các
năm qua đã cho Vĩnh Phúc những lợi thế mới về vị trí địa lý:
tỉnh đã trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát
triển công nghiệp các tỉnh phía Bắc; chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
trước sự lan toả của các khu công nghiệp lớn thuộc Hà Nội
như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn...; Sự hình thành và phát triển
các tuyến hành lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan
đến Vĩnh Phúc đã đưa tỉnh xích gần hơn với các trung tâm
kinh tế, công nghiệp và những thành phố lớn của đất nước như:
hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng, QL2 Việt
Trì - Hà Giang - Trung Quốc, hành lang đường 18 và trong
tương lai là đường vành đai IV thành phố Hà Nội...
Vĩnh Phúc nằm trong vùng chuyển tiếp giữa vùng gò đồi trung
du với vùng đồng bằng Châu thổ Sông Hồng. Bởi vậy, địa hình
thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và chia làm 3 vùng sinh
thái: đồng bằng, trung du và vùng núi.
Vùng núi có diện tích tự nhiên 65.300 ha (đất nông nghiệp:
17400ha, đất lâm nghiệp 20300 ha). Vùng này chiếm phần lớn
diện tích huyện Lập Thạch (25 xã), huyện Tam Đảo và 4 xã
thuộc huyện Bình Xuyên, 1 xã thuộc thị xã Phúc Yên. Trong
vùng có dãy núi Tam Đảo là tài nguyên du lịch quý giá của
tỉnh và của cả nước. Vùng này có địa hình phức tạp, khó khăn
cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông.
Vùng trung du kế tiếp vùng núi, chạy dài từ Tây Bắc xuống
Đông - Nam. Vùng có diện tích tự nhiên khoảng 24.900 ha (đất
nông nghiệp 14.000ha), chiếm phần lớn diện tích huyện Tam
Dương và Bình Xuyên (15 xã), thị xã Vĩnh Yên (6 phường xã),
một phần huyện Lập Thạch (11 xã), thị xã Phúc Yên. Quỹ đất
đồi của vùng có thể xây dựng công nghiệp và đô thị, phát
triển cây ăn quả, cây công nghiệp kết hợp chăn nuôi đại gia
súc. Trong vùng còn có nhiều hồ lớn như Đại Lải, Xạ Hương,
Vân Trục, Liễn Sơn, Đầm Vạc là nguồn cung cấp nước cho hoạt
động sản xuất, cải tạo môi sinh và phát triển du lịch.
Vùng đồng bằng có diện tích 47.000 ha, gồm hai tiểu vùng phù
sa cũ và mới, tập trung ở các huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường
huyện Mê Linh. Đây là vùng có địa hình bằng phẳng, thuận
tiện cho phát triển cơ sở hạ tầng, các điểm dân cư đô thị và
thích hợp cho sản xuất nông nghiệp.
Sự phân biệt 3 vùng sinh thái rõ rệt là điều kiện thuận lợi
cho tỉnh bố trí các loại hình sản xuất đa dạng.
Vĩnh Phúc có tiềm năng to lớn về tài nguyên du lịch tự nhiên
và nhân văn. Tại đây có một quần thể danh lam thắng cảnh tự
nhiên nổi tiếng: rừng quốc gia Tam Đảo, Thác Bản Long, Hồ Bò
Lạc, Hồ Đại Lải, Hồ Làng Hà, nhiều lễ hội dân gian đậm đà
bản sắc dân tộc và rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa mang
nặng dấu ấn lịch sử và giá trị tâm linh như danh thắng Tây
Thiên, Tháp Bình Sơn, Đền Hai Bà Trưng, Đền thờ Trần Nguyên
Hãn, Di chỉ Đồng Đậu.
Cho đến nay, đầu tư khai thác nguồn tài nguyên du lịch phong
phú và đặc sắc phục vụ cho phát triển kinh tế của tỉnh còn
rất hạn chế.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA BÁO ÂN VĨNH PHÚC:
Chùa
Báo
Ân thuộc phường Trưng Nhị, thị xã Phúc Yên, được xây dựng ở
thế kỷ XII đời vua Lý Cao Tông (1176 - 1210). Đây là một
trong số ít ngôi chùa thời Lý còn lại đến ngày nay. Chùa làm
trên một quả đồi cao, xưa gọi là rừng Cấm, cây cối xum xuê,
bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất vi vu, u
tịnh của chốn thiền tôn.
Theo văn bia, ngọc phả thì chùa đã có từ lâu, đến thế kỷ
XII, con trưởng của vua Lý Cao Tông là Thái Tử Sâm đã cúng
hơn một trăm mẫu ruộng, hai nghìn quan tiền để tu bổ chùa,
tu bổ xong Thái Tử còn bỏ ra bảy trăm quan tiền nữa để làm
tiệc cúng giàng. Đây là cuộc trùng tu rất lớn do Nguyễn Công
là một võ tướng có uy tín lúc bấy giờ được cử trực tiếp chỉ
đạo tu sửa. Ông đã vận động các bậc cung phi và nhiều chúng
sinh trong nước đóng góp cho công trình. Và kết quả là, như
trong văn bia đã nói “cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu
rọi non sông, cung điện huy hoàng, ánh nhật nguyệt chói ngời
sáng láng, tượng phật trang hoàng, toà sen đĩnh đạc. Chuông
to gác phượng, chẳng bao lâu tu tạo đã xong, khánh quý khám
rồng, vẻ lộng lẫy uy nghiêm rõ rệt...” Tu bổ xong chùa, võ
tướng Nguyễn Công lại bỏ ra hơn một nghìn quan tiền để mua
hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản.
Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được
công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để
ghi nhớ công lao to lớn của công chúa, nhân dân ta đã lập
ban thờ ngài ở chùa này.
Qua đó có thể nói rằng, thời Lý - Trần chùa Báo Ân được vua
và các nhà quyền quý quan tâm tu bổ, xây dựng với quy mô rất
to lớn, rất đẹp và là một trong những trung tâm phật giáo
quan trọng ở nước ta.
Trải qua những thăng trầm biến cố của cả nghìn năm lịch sử,
đến nay chùa Báo Ân vẫn còn đó song có nhiều biến đổi. Các
toà kiến trúc cổ của chùa như: Tiền đường, thiêu hương,
thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện
thờ mẫu do xuống cấp bị mục nát nên nhân dân đã dỡ bỏ. Hiện
nay hệ thống chùa được xây dựng lại với quy mô to lớn hơn,
kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi, rất chắc
khoẻ.
Hiện tại chùa Báo Ân còn một số di vật cổ rất có giá trị.
Tượng pháp có: Ba pho Tam Thế, một pho A Di Đà, một pho Di
Lặc, một pho Thích Ca sơ sinh, một pho Đức ông và một pho
Thánh Tăng. Tượng thần có một pho công chúa Hưng Nương ở tư
thế ngồi toạ thiền trong cỗ khám được trang trí hết sức tinh
tế. Nhìn chung tượng chùa Báo Ân không lớn nhưng rất đẹp về
tạo dáng và thành công về mỹ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian,
về đặc tả theo tích chuyện của từng nhân vật trong hệ thống
tượng chùa thế kỷ XVIII.
Đặc biệt chùa Báo Ân có một bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài
ký bia chùa Báo Ân). Bia khắc tháng 12 năm Trị Bình Long ứng
thứ 5 (1209). Đây là tấm bia thời Lý còn lại duy nhất ở tỉnh
Vĩnh Phúc. Bia cao 1m40, rộng 0m85, dày 0m14, đặt trên lưng
rùa đá mai trơn, đầu thò dài, chân 4 móng choãi vẻ nặng nhọc.
Bia khắc cả 2 mặt với 1498 chữ Hán, nét chữ sắc sảo theo lối
chữ trân thời Lý rất đẹp. Nội dung bài ký do Nguỵ Tư Hiền
soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích. Bài ký đã
miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy
hoàng và công đức bố thí làm chùa của Thái Tử con trưởng vua
Lý Cao Tông và võ tướng Nguyễn Công trong cuộc trùng tu sửa
chữa chùa năm đó. Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối
kệ nhà phật, mô tả cảnh đẹp của chùa sau khi tu sửa và công
đức của những người theo phật pháp ở đây. Nội dung tấm bia
này đã được hai tác giả Ngô Thế Long - Băng Thanh đọc, dịch
và giới thiệu trong tuyển tập thơ văn Lý - Trần.
Với giá trị về mỹ thuật trang trí điêu khắc trên đá thế kỷ
XII và nội dung văn tự chữ Hán như kể trên, bia đá chùa Báo
Ân là một báu vật quý hiếm trong kho tàng di sản văn hoá của
dân tộc ta nói chung và của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
--------------------------------------------------------------------------------
TAM ĐẢO VĨNH PHÚC:
Ai cũng biết
Tam
Đảo là một danh từ địa lý nhưng dùng để chỉ một vùng đất có
biển bao bọc bốn bề. Nhưng đây là vùng núi, tại sao lại mang
tên đảo? Vì ba ngọn núi này ở độ cao trên nghìn mét so với
mặt biển, luôn có mây trắng bao quanh, đứng ở xa ngước trông
nó giống như ba hòn đảo nhô lên mặt sóng nước muôn trùng. Do
đó, người ta đặt cho ba ngọn núi là “Tam Đảo”.
Tam Đảo cùng với Sapa, Đà Lạt là ba vùng núi có khí hậu ôn
đới dùng làm nơi nghỉ mát rất tốt. Khi mặt trời mùa hạ trút
ánh nắng chói chang nóng như thiêu như đốt trên vùng đồng
bắng, thì ở đây nhiệt kế không nhích lên quá hai mươi bảy độ.
Ở Tam Bảo một ngày chia làm bốn mùa: buổi sáng trời dịu mát
như đầu xuân, trưa nắng ấm có thể tắm nước suối, chiều se
lạnh giống thời tiết mùa thu, tối đến hơi rét như đầu đông,
ngủ phải đắp chăn dạ.
Tam Đảo không đẹp nổi tiếng bằng Đà Lạt, Sa Pa. Nhưng nó
được người Hà Nội ưa chuộng vì ở cách Hà Nội không xa 87km
cũng như Vũng Tàu đối với người Sài Gòn vậy. Dãy núi Tam Đảo,
thuộc miền trung du tỉnh Vĩnh Phú, dài khoảng 50km, vươn lên
hướng bắc với độ cao trung bình khoảng trên một nghìn mét,
tiếp giáp với núi rừng Việt Bắc. Bộ phận phía nam dài khoảng
10km, thấp dần xuống, rồi lặn vào đồng bằng hai huyện Kim
Anh, Đa Phúc.
Vùng núi Tam Đảo có nhiều cảnh đẹp đáng đề vịnh ngâm thơ như
vậy, nhưng trước kia, khi nước ta còn bị thực dân Pháp cai
trị, người dân ở đây không dám bén mảng đến. Từ đầu thế kỷ
hai mươi 1901, thực dân Pháp đã đuổi dân làng vùng này, xây
nên một khu cấm địa để dành riêng cho chúng đến ăn chơi
dưỡng sức. Những cái tên khu toàn quyền, khu Bảo Đại… ngày
xưa còn nhắc đến thời kỳ vàng son của bọn tây cai trị và bọn
vua quan phong kiến tay sai đã sụp đổ. Chúng đã đày tù chính
trị và bắt phu lên phá rừng mở đường, bạt núi. Xây xong khu
nghỉ mát này, hàng ngàn người đã ngã xuống vì bệnh tật, vì
đòn roi. Chúng đem vùi xác chết trên sườn đồi thành nghĩa
địa.
Từ sau ngày miền bắc giải phóng, Tam Đảo được mở rộng. Những
ngôi nhà sàn xây dựng theo phong cách dân tộc mọc lên san
sát bên sườn đồi, tiếp đón cán bộ và nhân dân lao động khi
ngày hè đến. Vào một ngày tốt trời, mời bạn leo lên thăm ba
ngọn núi mang tên là “đảo” này. Đó là ngọn Phú Nghĩa, Thạch
Bàn, Thiên Thị, kể theo thứ tự từ hướng bắc xuống hướng nam.
Phú Nghĩa là đỉnh cao nhất, khoảng 1.500m. Ở đây có hai ngọn
núi gọi là Hồi Hương và Quế Phụ, vì trên hai ngọn núi này
mọc nhiều cây hồi và cây quế. Đến mùa hồi ra hoa toả hương
thơm ngát. Trong rừng ríu rít những đàn chim lông cánh có
nhiều màu sắc rất đẹp. Dưới chân núi có dòng suối tuôn nước
vàng hoe, vì vậy mà nó được đặt tên Suối Vàng, còn có tên
chữ Kim Tuyền. Đứng ở đây, những ngày trời quang mây tạnh,
nhìn về miền ngược, núi rừng Việt Bắc hiện lên một màu xanh
nhấp nhô trùng điệp. Nhìn sang phía Hà Tây, ngọn Tản Viên
của dãy núi Ba Vì vươn cao sừng sững. Nhìn về xuôi, ruộng
đồng bát ngát, sông ngòi uốn khúc lượn quanh. Khi trời nhiều
mây, nhìn về từ hướng một màu trắng đục sương mù bao phủa.
Lúc ấy ta có cảm giác như đang đứng trên một hòn đảo giữa
đại dương, chỉ còn thấy đỉnh Tản Viên nổi lên bồng bềnh như
một hòn đảo cách xa.
Cảnh đẹp thiên nhiên của Tam Đảo nay được bàn tay lao động
tô điểm thêm lộng lẫy. Tam Đảo là một vườn rau tươi tốt bốn
mùa. Ở đây có vườn cây thuốc trồng đủ loại, hương bay ngào
ngạt. Những đồi chè, những cánh đồng bông, thuốc lá của nông
trường Tam Đảo ngày càng mở rộng diện tích đóng góp tài
nguyên làm giàu cho đất nước.
Núi được gọi là Tam Đảo vì ở khoảng giữa dãy có 3 ngọn núi
cao vút: Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị tính từ Tây Bắc
xuống Đông Nam, tựa như 3 hòn đảo nổi bồng bềnh giữa biển
mây bao phủ.
Truyền thuyết:
Chuyện kể rằng trên núi Tam Đảo có một người con gái khoẻ
mạnh, tóc nàng dài mượt như dòng suối e ấp, môi nàng hồng đỏ
như hồ xanh, da nàng trắng như mây trời Tam Đảo. Nàng che
thân bằng vỏ cây, làm lều ở trên cây, đi lại truyền nhảy
nhanh như con sóc, nhẹ như vượn, nhặt đá ném thú rừng và
chim muông sống.
Giặc Ân sang cướp nước ta, thế giặc rất mạnh. Vua Hùng cho
sứ đi các trang động trong nước cầu người ra dẹp giặc. Người
con gái xuống núi về chầu vua, xin được đi đánh giặc. Ra
trận chỉ lấy đá mà ném, giết được nhiều giặc, đánh với giặc
nhiều trận ở ngay cửa ngừ thành Phong Châu, ngã ba Bạch Hạc
(nay thuộc là địa phận huyện Vĩnh Tường).
Vua Hùng thứ 6 đã già, muốn thử tài trong số các con để
truyền ngôi. Lang Liêu dâng bánh trưng, bánh dầy tượng trưng
của trời đất, cho vua Hùng và được nối ngôi vua. Đến ngày
lập hoàng hậu chàng bỗng thấy nhớ da diết người con gái xinh
đẹp đó cùng mình đánh giặc Ân thuở nào. Nhà vua trẻ trở lên
vùng núi Tam Đảo mong gặp lại bóng hồng. Ngày lại ngày trôi
qua nàng vẫn đâu đó xa ngút giữa núi rừng trùng điệp. Nhà
vua buồn bã chuẩn bị ra về thì đêm đó, mơ thấy thần hiện về
báo mộng: "Ngày mai nhà vua sẽ được gặp người đẹp". Sáng hôm
sau, từ sương mờ Tam Đảo, trên con đường nhỏ, nàng tiên Tam
Đảo đang đi đến. Nhà vua mừng rỡ chạy ra gặp mặt. Nàng vẫn
đẹp như ngày hai người gặp nhau. Tóc nàng vẫn dài mượt như
dòng suối e ấp, môi nàng vẫn hồng đỏ như hoa núi, mắt nàng
vẫn trong veo như nước hồ xanh và da nàng vẫn trắng như mây
trời Tam Đảo. Nhà vua đón nàng về cung làm lễ cưới nàng được
tôn là bà chúa Thượng Ngàn của núi rừng Tam Đảo và được lập
đền thờ ngay sát chân ngọn Thiên Nhị, trên đường lên tháp
truyền hình.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA CHI ĐÔNG VĨNH PHÚC:
Chùa có tên chữ là Phúc Long tự (chùa Phúc Long), thuộc
thôn Chi Đông, xã Quang Minh, huyện Mê Linh. Năm 1993, chùa
cùng với đền Chi Đông (được xây dựng liền kề chùa) đã được
Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là cụm di tích Lịch sử - Văn
hóa cấp Quốc gia. Chùa có giá trị tiêu biểu về kiến trúc
cũng như nghệ thuật điêu khắc gỗ, tạc tượng và còn lưu giữ
được nhiều loại di vật, cổ vật quý từ thời Lê, Nguyễn.
Chùa được làm vào thời Hậu Lê, niên hiệu Chính Hòa thứ 14
(1693), gồm tam quan 2 tầng 8 mái, chùa chính, nhà tổ và
hành lang tả, hữu. Tuy nhiên, như hầu hết các di tích khác
trong vùng đã bị thời gian với những biến cố lịch sử và
thiên nhiên làm thay đổi, hiện chùa Chi Đông còn chùa chính
và nhà Tổ, khá bề thế, đồ sộ. Chùa chính gồm tòa tiền đường
9 gian nối với thượng điện 5 gian theo kiểu chữ “đinh”. Toàn
bộ mái chùa được làm theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái,
riêng mái hai gian đầu hồi được làm nhô ra và cao hơn mái
tiền đường một chút để tạo nên lầu chuông và gác trống. Nhà
Tổ ở phía bên trái chùa gồm 2 toà 7 gian tạo thành
hình”chuôi vồ”, kiến trúc theo kiểu “chồng bồn kẻ truyền”,
cột xà chắc khỏe. Nhìn chung, các cấu kiện kiến trúc bằng gỗ
ở chùa đều là các loại gỗ tốt, được gia công với kỹ thuật
mộng sàm chuẩn mực, tương đối bền vững.
Chùa Chi Đông có nhiều bức chạm khắc với hình thức và nội
dung phong phú. ở tất cả các kẻ phía trước chùa và các dép
hoành kê đệm đòn tay đều trang trí các hình hoa lá, vân xoắn,
chữ triện hay phượng, ly, long mã. Riêng các bức cốn, đã
được những nghệ nhân dân gian tài hoa tạo thành các tác phẩm
nghệ thuật với trình độ điêu luyện, hết sức tinh xảo như cốn
nách ở tòa tiền đường, các bức cốn ở hai bên tả hữu của
thượng điện chạm các đề tài long - ly quy phượng, mai điểu,
tùng lộc...rất sinh động. Đó là những bức cốn đẹp, đạt trình
độ thẩm mỹ cao của nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian.
Có thể nói nghệ thuật điêu khắc ở chùa Chi Đông rất tinh tế.
Các bức chạm có bố cục nội dung phong phú mà chặt chẽ, kỹ
thuật được sử dụng ở đây là chạm nổi, đục thủng, chạm lộng,
bong kênh với những đường nét chạm khắc tỉ mỉ, sắc gọn. Với
nội dung đề tài tả về các con vật vũ trụ quen thuộc như tứ
linh, hay các loài thủy tộc và muông thú khác, cùng với cỏ
cây hoa lá hòa với thiên nhiên, thể hiện những ước vọng
thanh bình, dung dị của cuộc sống của con người đương thời.
Cùng với kiến trúc đồ sộ và nghệ thuật điêu khắc tuyệt mỹ,
chùa Chi Đông còn có một hệ thống tượng đẹp, gồm 13 pho,
được làm bằng gỗ và đất luyện. ở tiền đường có 4 pho, theo
thứ tự từ trái sang phải là: tượng Đức Ông, cặp tượng Hộ
Pháp(Khuyến Thiện Trừng ác), tượng Thánh Tăng. ở thượng điện
có 6 tượng được bày theo từng cấp, gồm Di đà Tam tôn, Quan
Âm Nam Hải, Ngọc Hoàng và Thích Ca cửu long. Mỗi pho tượng
là một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo với những đường nét chau
chuốt kỹ lưỡng đến từng chi tiết, từng hoa văn trang trí kết
hợp với kỹ thuật sơn thếp lành nghề.
Giá trị kiến trúc và nghệ thuật tạc tượng cùng với các đề
tài trang trí mỹ thuật chạm khắc gỗ dân gian đã làm nên giá
trị văn hoá tiêu biểu của chùa Chi Đông. Một trong những di
tích quý của tỉnh.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA ĐỘNG LÂM VĨNH PHÚC:
Chùa
Động Lâm còn gọi là chùa Hạ, thuộc xã Hợp Thịnh, huyện Tam
Dương, cách thành phố Vĩnh Yên (tỉnh lỵ Vĩnh Phúc) 4km về
phía Tây Bắc theo đường quốc lộ số 2. Chùa Động Lâm được tạo
dựng không chỉ là nơi tu hành của các tín đồ Phật giáo mà
một thời còn là trung tâm sinh hoạt làng xã trong hoàn cảnh
đất vua, chùa làng thời phong kiến. Đây là ngôi chùa tiêu
biểu cho tín ngưỡng tôn giáo kết hợp với tín ngưỡng bản địa
và triết lý Phương Đông.
Chùa được xây dựng ở giữa khu dân cư trù phú, phía trước có
hồ nước rộng. Tam quan chùa có gác chuông, ở đây lưu giữ một
quả chuông lớn Động Lâm tự chung đúc năm Minh Mệnh thứ 5
(1824) ghi tên những người công đức tu sửa chùa. Sân chùa có
một bia đá tạo thời Lê Trung Hưng niên hiệu Đức Long (1629),
diềm bia chạm khắc những hình hoa văn mang đặc trưng của
nghệ thuật thế kỷ XVII. Điều đó có thể cho phép chúng ta
đoán định rằng chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII, đã
trùng tu lớn vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX) và hiện nay gồm 2
tòa: Bái đường và thượng điện, bố cục kiến trúc theo kiểu
chữ “đinh”.
Giá trị tiêu biểu ở chùa Động Lâm là nghệ thuật tạc tượng
tròn của các nghệ nhân dân gian từ những thế kỷ trước. Hệ
thống tượng đẹp và khá phong phú bao gồm cả tượng Phật,
tượng Thần. Toàn bộ hệ thống tượng được sơn son thếp vàng,
màu sắc hài hòa, được bài trí trong thượng điện theo thứ tự
từng lớp từ cao xuống thấp, ở giữa sang hai bên tả hữu, gồm
các tượng: Tam thế, Di Đà tam tôn, Tuyết Sơn, Ngọc Hoàng,
Thích Ca Cửu Long, Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn (hay Quan Âm
Nam Hải), Quan Âm Tọa Sơn, Tứ Bồ Tát, Thập Điện Diêm Vương,
Thánh Tăng, Đức Ông...Tiêu biểu nhất là bức tượng Quan âm
Thiên thủ Thiên nhãn được tạc bằng gỗ, cao 2,7m, hiện đang
được trưng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (pho Quan Âm Nam
Hải hiện ở chùa là bản sao). Đây là bức tượng lớn nhất và có
niên đại sớm nhất của chùa. Tượng được tạc rất đẹp, ngồi
thiền trên tòa sen, đội tòa sen là đầu người có khuôn mặt
hình thủy quái, tất cả được đặt trên đế hình lục lăng chia
làm 3 tầng trang trí tỉ mỉ, chau chuốt. Toàn bộ phần tượng
và đế là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ tài tình, hài
hòa cả về nội dung và hình thức, với trình độ kỹ thuật tinh
xảo, hoàn mỹ, mang sinh khí của nghệ thuật phật giáo thế kỷ
XVII.
Bên cạnh đó, ở chùa Động Lâm, hình tượng Quan Âm Tọa Sơn
bồng một đứa bé (vì thế còn gọi là Quan Âm Tống Tử) với Kim
Đồng và Ngọc nữ ở hai bên đã được dân gian hóa thành hình
ảnh Quan Âm Thị Kính hay còn có tên gọi khác là Mụ Thiện,
tượng này mang phong cách thời Lê xuất hiện từ khoảng thế kỷ
XVII. Cũng khoảng thời gian này, chùa Động Lâm có các tượng
tứ Bồ Tát (ái, Ngữ, Sách và Quyền Bồ Tát), tượng đứng trên
tòa sen, đầu đội mũ thất phật, tay thon dài, chắp trước ngực,
cũng được xem là 4 tác phẩm rất có giá trị từ thời Lê.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA HOA DƯƠNG VĨNH PHÚC:
Là
ngôi chùa của tổng Tuân Lộ xưa nên còn gọi là chùa Tuân Lộ,
nay thuộc thôn Thượng, xã Tuân Chính, cách huyện lỵ huyện
Vĩnh Tường khoảng 2km về phía Tây.
Chùa Hoa Dương được xây dựng thời Hậu Lê, năm 1680, còn lại
cho đến ngày nay là một di tích có kiến trúc khá đồ sộ, nguy
nga, mặt bằng hình chữ “công” gồm 3 toà chính: Tiền đường (7
gian), thượng điện (4 gian) và nhà tổ (5 gian), tổng diện
tích 262m2 cùng 2 nhà hành lang gồm 20 gian với diện tích
196m2, phía trước sân còn cây Bồ Đề cổ thụ trăm năm tuổi và
các loài cây: Đại, Ngâu, Lan, Sấutạo nên không khí thâm
nghiêm, u tịch nơi cửa thiền.
Về kiến trúc: Kết cấu bộ vì theo kiểu thức “chồng rường giá
chiêng”, hệ thống cột chịu lực đều bằng gỗ lim to, chu vi
cột 1,5m và đều được kê trên chân đá tảng vuông, to mỗi
chiều 75cm để chống mối và chống ẩm.
Về mỹ thuật: Giá trị nổi bật của chùa Hoa Dương là nghệ
thuật điêu khắc, được biểu hiện ở hệ thống tượng tròn và các
tác phẩm điêu khắc gỗ (y môn, tranh kệ, hoành phi, câu đối).
Đó là các lớp tượng cơ bản, đại diện chung cho hệ thống
tượng được bài trí trong một ngôi chùa thờ phật theo phái
Đại thừa ở miền Bắc Việt Nam, gồm các lớp: Bộ tượng Tam thế
phật, Di Đà tam tôn phật, Thích ca cửu long, tứ Bồ tát, tứ
Thiên vương, tượng Đức ông, Thánh hiền, Hộ pháp phật và
tượng phật Tổ. Tất cả các pho tượng phật đều được tạo từ gỗ
mít già, nguyên lõi, kỹ thuật công phu, tỉ mỉ, nghệ thuật
sáng tạo, điêu luyện, thể hiện khả năng tư duy thẩm mỹ nghệ
thuật cao và hoà nhuyễn trong nhận thức giá trị tuyệt đối
“không” của phật pháp. Giá trị chân, thiện, mỹ của đạo phật
bắt nguồn từ những chân lý giản đơn của cuộc sống thường
nhật qua hàng nghìn năm tu luyện, bồi dưỡng, lưu truyền đã
trở thành một bộ phận cơ bản của tâm hồn Việt Nam, tâm hồn
nghệ sỹ khi thổi hồn cho các pho tượng hoặc từ gỗ, đá, hay
đất mà trở nên lung linh, huyền ảo nhưng rất thực trước mỗi
người khi bước chân vào chùa chiêm bái phật.
Các tác phẩm điêu khắc gỗ có: 8 bức y môn (biển hoành) đều
chung kích thước (dài 3,0m rộng 0,6m) được chạm nổi, sơn son
thếp vàng các đề tài thiên nhiên: Hoa lá, vân mây, cổ thụ,
chim muông vô cùng gần gũi, tự nhiên và sống động, chính
giữa đục các “đại tự” mang ý nghĩa tụng ca, răn dạy, đan xen
giữa phật pháp và triết lý Nho học. 8 bức “tranh Kệ” khắc
các bài kệ bằng chữ Hán với nội dung về phong cảnh thiên
nhiên và những đề tài liên quan đến việc hoằng dương phật
pháp, là những thi ca tuyệt hảo lồng trong tác phẩm điêu
khắc tài ba, trên nền của kỹ thuật chạm khắc, trang trí
phóng khoáng, bố cục hài hoà, sơn thếp đẹp, xứng đáng là di
sản cho muôn đời hậu thế chiêm ngưỡng và ngẫm suy. 8 bộ
hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, câu chữ chuẩn chỉnh,
ngay ngắn, ý tứ sâu xa, ngữ nghĩa bao trùm, chân tâm, chân
thiện. Cùng với các di vật cổ: Chuông đồng, cây hương, bia
đá,.đồng thời là những tư liệu văn tự cổ trên đá lưu mãi để
muôn đời hậu thế, thập phương du khách, tăng ni phật tử tìm
cơ hội đến chiêm bái nơi cảnh thiền ẩn lặng dấu quê.
--------------------------------------------------------------------------------
DANH THẮNG TÂY THIÊN VĨNH
PHÚC:
Nằm
trên sườn ngọn núi Thạch Bàn thuộc địa phận xã Đại Đình,
huyện Tam Đảo.
Miền đất Phật Tây Thiên có phong cảnh hữu tình với Thiền
Viện Trúc Lâm, những mái đình cổ xưa, suối Vàng, Thác Bạc,
khe Trường Sinh, suối Giải Oan, cây đa 9 cội...
Theo Ngọc phả và kết quả nghiên cứu mới nhất, Tây Thiên là
nơi thờ nữ chúa Tam Đảo: bà Lăng Thị Tiêu. Sau khi giúp Nhà
nước Văn Lang đánh giặc ở thành Phong Châu, bà đó kết duyên
cùng Lang Liêu (vua Hùng thứ 6). Bởi vậy sắc phong các triều
đại phong kiến tôn bà là “Quốc Mẫu Tây Thiên”. Huyền thoại
kể rằng bà vốn là một trong bảy nàng tiên xuống núi để chữa
bệnh cho dân, trừ bạo nghịch cho nước và cứu độ chúng sinh.
Câu chuyện Quốc Mẫu được ghi chép trong Ngọc phả, trong các
văn bia hệ thống đền chùa Tây Thiên, là sự uy linh và vẻ đẹp
đức độ của bà khiến cho các bậc anh hùng hào kiệt, các thiện
nam, tín nữ, các trai thanh gái lịch bao đời nay đã phải
trèo non lội suối chống gậy Tây Thiên chiêm ngưỡng cảnh bồng
lai.
|
Nguồn: saigontoserco |